Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích tác phẩm Chiều Tối lớp 11 dành cho Học sinh giỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.87 KB, 8 trang )

CHIỀU TỐI ( HỒ CHÍ MINH)
“Thơ là một hình thái nghệ thuật cao q. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể
hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn
và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những
lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thương”. Vâng! Thơ là như thế ! Người làm thơ ắt
phải như vậy! Xin mượn lời phát biểu của nhà thơ Sóng Hồng về thơ và người làm thơ để tưởng
nhớ đến tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ “Chiều tối” ( Mộ - Nhật kí trong tù).

-

Bác Hồ, Người là tình u thiết tha nhất.Trong lịng dân và trong trái tim nhân loại. Cả
cuộc đời Bác chăm lo cho hạnh phúc nhân dân. Cả cuộc đời Bác hi sinh cho dân tộc Việt
Nam… Nhắc đến Bác, lòng tôi lại ngân nga giai điệu ấy. Một con người mà cả thế giới biết đến,
tưởng nhớ như một cao nhân vĩ đại yêu chuộng hòa binh, lãnh đạo một đất nước nhỏ bé đánh
đổ được đế quốc lớn để giành độc lập dân tộc. Nói đến Người, chúng ta cịn cảm phục và tự
hào vì một tài năng nghệ thuật kiệt xuất. sinh thời, vị cha già dân tộc ấy khơng thừa nhận là
mình là nhà văn, nhà thơ mà chỉ là người bạn của văn nghệ.,bởi vì “Người chỉ có một ham
muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do…”
Thế nhưng, trên con đường cách mạng của mình, Người đã bén duyên với nghệ thuật và để lại
một sự nghiệp văn học đồ sộ. Thật không sai khi nói rằng, thi đàn văn học Việt Nam sẽ trống
vắng và tiêu điều biết bao nếu thiếu đi một tác giả lớn như Hồ Chí Minh. Trong số di sản văn
học mà Người để lại, Nhật kí trong tù được xem là một viên ngọc lớn mà Bác vơ tình đánh rơi
vào nền thi ca hiện đại Việt Nam. Và bài thơ” Chiều tối” là một bài thơ sáng giá. Đọc bài thơ,
ta không chỉ gặp vần thơ đẹp mà còn bắt gặp một tâm hồn đẹp,một nhân cách vĩ đại..
Bài thơ được khởi hứng ở cuối chặng đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây
đến Thiên Bảo vào lúc chiều tối giữa núi rừng. Mặc dù bị xiềng chân, xích tay, nhiều khi phải
lăn lội tới “Năm mươi ba cây số một ngày – Áo mũ dầm mưa rách hết giày” nhưng người
không hề bị vướng bận bởi khó khăn gian khổ, tâm hồn người khơng bị giam hãm bởi xiềng
xích mà tự nó vượt lên tất cả, hịa mình vào thiên nhiên, cuộc sống núi rừng. Bài thơ tiêu biểu
cho “loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lắng khơng phơ diễn … ý ở ngồi
lời”(Rơ-giê Đơ- nuy, nhà văn Pháp).


Nhà thơ Phương Lựu từng nhận định: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân
của tinh thần, do đó khơng đơn giản mà cũng khơng thần bí, thiêng liêng”. Có lẽ người chiến sĩ
cách mạng, người thi sĩ ấy đã có khoảng lặng của tâm hồn để cất lên tiếng hát êm ả sau chặng
đường mệt mỏi. Thả hồn vào những vần thơ “giàu chất thép đậm ân tình của Bác”, người đọc
như bắt gặp ánh mắt nhìn đến thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, lãng mạn nhưng đượm buồn trong
buồi chiếu tắt nắng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng không)
Kế thừa vẻ đẹp tao nhã của thơ ca cổ điển phương Đông, trong hai câu thơ mở đầu, nhà
thơ đã không nghiêng về tả mà thiên về gợi. Để vẽ nên bức tranh buổi chiều tà miền sơn
cước,thi sĩ đã sử dụng thi liệu quên thuộc, đó là mây và chim. Trở lại với vườn thơ Việt


-

Nam, chúng ta bắt gặp cánh chim về tổ đã trở thành hình ảnh ước lệ cho hồng hơn - một
khoảng không gian thường gợi cảm giác buồn bã bởi sự tàn lụi cuối ngày; cũng là khoảng thời
gian của ngưng nghỉ, đồn tụ dể làm chạnh lịng người tha hương lữ thứ: Đó là cành chim gợi
buổi chiều với bao chông chênh bất ổn của Nguyễn DU: Chim hôm thoi thóp về rừng, hay đó là
cánh chim làm xao xác cả hồng hơn trong thơ Huy Cân: Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều
sa. Và, người đọc cịn bắt gặp cánh chim chiều ấy bay cao tít tăp, mất hút vào khoảng không
gian bao la vô tận, gợi cảm giác siêu thoát, phiêu bạt xa xăm trong thi phẩm của vi thi tiên lãng
mạn: Chúng điểu cao phi tận/ cô vân độc khứ hàn (Lí Bạch).
Nhưng hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được cảm nhận ở bên ngoài mà
được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong. Cánh chim kia sau một ngày kiếm ăn vất vả
đế khi “quy lâm” – về rừng cũng đã thấm mệt, bầu trời cao rộng quá khiến chòm mây trở nên
đơn độc, lẻ loi, bay bay tựa hồ như sắp chìm khuất giữa thiên khơng. Cánh chim và chịm mây
bấy giờ khơng cịn là những sự vật vơ tri vơ giác nữa mà hiện lên như cũng có linh hồn, có cảnh

ngộ, có cảm xúc riêng tư. Đó chẳng phải là điểm khác biệt làm nên giá trị trong thơ ca ở đặc
điểm ngôn từ mà như Lê Đạt đã từng phát biểu: thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vi
ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống, cũng như những điều thầm kín trong tâm linh
của con người”
+ Trong câu thơ đầu, tác giả khơng chỉ miêu tả hình ảnh cánh chim chiều mà trái tim u
thương mênh mơng của Bác như cịn cảm nhận được cả sắc thái mệt mỏi của nó với chữ quyện
ở đầu câu. Phải chăng cái mỏi của những cánh chim đi tìm chốn ngủ sau một ngày kiếm ăn
cũng chính là cái mỏi mệt của người tù 52 tuổi sau một ngày vất vả lê bước đường trường.
Trong bài thơ Mới đến nhà lao Thiên Bảo, Bác có viết về hành trình nhọc nhằn ấy:
Năm mươi ba dăm một ngày trời/ áo mũ ướt đầm, dép tả tơi,… Song, nếu cánh chim trên bầu
trời tự do đang mải miết tìm về tổ, tìm sự nghỉ ngơi yên ổn cuối ngày thì con người vẫn đang bị
áp giải với xiềng xích, trên đường chuyển lao chưa biết lúc nào được dừng chân, chưa biết đày
đọa nào đang ở phía trước. Sự đối sánh càng xót xa hơn khi cuối chặng đường đường bay của
cánh chim là tổ ấm – sự ấp áp, bình yên được thể hiện rõ trong sắc thái ý nghĩa của từ “quy”về giữa dòng thơ, còn cuối chặng đường của người tù là một nhà lao, nơi tiềm ẩn những đọa
đày đau khổ ! Bởi thế, nỗi khao khát về một chốn dừng chân ấm áp bên những người thân nếu
có thấp thống hiện lên trong hình tượng thơ thì cũng là một điều dễ hiểu với một người đang ở
giữa kẻ thù, nơi đất khác tha phương, mệt mỏi cô đơn trong cảnh chiều vắng lặng, buồn bã
miền sơn cước…
+ Đến với vần thơ tiếp theo “ Cô vân mạn mạn độ thiên khơng”, cảnh chiều muộn in đậm rõ
nét hơn bởi hình ảnh của một đám mây lẻ loi, chầm chậm trôi ngang qua bầu trời. Chòm mây
(Phần dịch thơ của tác giả Nam Trân đã bỏ qua chữ “cô” – lẻ loi, đơn lẻ) trong thơ Người không
phải là áng mây trắng ngàn năm gợi ra cảm giác vĩnh hằng của vũ trụ: “ngàn năm mấy trắng
bây giờ con bay” ( Hồng Hạc Lâu – thơi Hiệu), cũng khơng phải là tầng mây lơ lửng mang
theo nỗi niềm u uẩn trướccuộc đời, trước cõi hư không trong Thu Vinh – Nguyễn Khuyến. Đây
chỉ là một chòm mây quen thuộc của buổi trời chiều miền sơn cước, gợi ra cảm giác về độ cao,
và sự mênh mông rợn ngợp. Từ láy “mạn mạn” cho thấy đám mây bồng bềnh trôi rất chậm giữa
trời thu, từ đó người đọc có thể hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang tĩnh
lặng cũng một chút gió thu nhè nhẹ, hiu hắt buồn.



-

-

Cũng như cánh chim chiều mỏi mệt ở câu trên, hình ảnh đám mây cơ đơn khơng đơn
thuần chỉ là một thi liệu cổ điển, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, có thể nhận ra
đám mây bé nhỏ ấy là sự phản chiếu cho cảnh ngộ và tâm trạng của người tù đang đơn độc nơi
đất khách quê người. Nỗi buồn bã cô đơn của người và cảnh đã thấm vào nhau trong một sự
liên tưởng và hịa hợp kì lạ. Người tù dường như đã nhận ra cảnh ngộ và nỗi niềm của mình
trong cảnh vật: đó là sự mệt mỏi sau quãng đường đầy ải, là sự cô đơn, lẻ loi giữa không gian
núi rừng bao la quạnh vắng, hắt hiu.
Như vậy, với hai thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm
phá, tác giả đã ghi lại linh hồn tạo vật, dựng lên cả một khơng gian mênh mơng n ả, u hồi
của chiều mn miền sơn cuớc. Qua bức tranh thiên nhiên trên đường chuyển lao, người đọc
không chỉ chia sẻ nỗi mệt mỏi, buồn bã cô đơn của người tù mà con nhận ra vẻ đẹp tâm hồn
của Người. Trong hoàn cảnh khổ sai như thế, ánh mắt của người tù đang trìu mến dõi theo một
cách chim mỏi, một áng mây trôi “lững lờ” . Phải chăng là một tình yêu tha thiết với thiên nhiên
cùng với tư chất nghệ sĩ tinh tế mới có thể rung cảm với cái đẹp ngay trong cảnh tù đày như vây
? Đó chính là chất tình, và cũng là bản lĩnh của con người biết vượt lên trên sự khắc nghiệt của
hoàn cảnh. “Giống như ngọn lửa bốc lên từ những cành củi khổ, tài năng bắt nguồn từ những
tình cảm mãnh mẽ nhất của con người”( raxun gazatop). Qủa thực, đọc 2 câu thơ đầu, người
đọc khơng hề thấy bóng dáng của một người tù mà là một thi nhân đang ngắm cảnh, chan hịa
với thiên nhiên bằng phong thái ung dung, tình thần thép. Gơng cùm, xiềng xích chỉ trói buộc
được thân xác của Người nhưng không giam hãm được ánh mắt, con tim và tâm hồn người
cộng sản kiên trinh ấy. Tất cả đươc tạo nên với những tình cảm mãnh liệt như thế !
Con đường chuyển lao đầy đau đớn mệt mỏi vậy mà cảm hứng thơ vẫn đến với Bác. Đó
là dáng vẻ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thưởng ngoạn cảnh chiều hơm núi rừng.
Ý chí vượt lên hoàn cảnh cùng ước mong sum họp, khát vọng tự do của một người tù đày nơi
đất khách đã thôi thúc tâm hồn của người nghệ sĩ đến với thiên nhiên, sống hết mình với thiên
nhiên. Bức tranh thiên nhiên cổ điển bình dị khơng chỉ có hình xác mà cịn có hồn – cái hồn của

con người hòa hợp, tương giao với thiên nhiên.
Nếu như ở hai câu thơ đầu “ chất thép” tồn tại trongcon người của Bác, động lực để
Bác nhìn trời, nhìn đời, thì đến hai câu thơ sau, chất thép đã khơng cịn âm ỉ đâu đó trong
con người Bác mà đã phác lộ ra trên bề mặt câu thơ, qua hình tượng thơ, tình cảm thơ ,
trong những cảm nhận về cuộc sống lao đông con người miền núi:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn, lơ dĩ hồng
(Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết, lị than đã rực hồng)
Từng nghe, ai đó đã từng nói rằng “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát
lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cơ độc của chính mình” (B. Shelly). Phải chăng,
trong bóng tối của núi rừng, trong sự mệt mỏi của con đương giải lao kia, người nghệ sĩ ấy đã
lắng nghe được tiếng hát của cuộc sống, cảm nhận sự sống đang hân hoan trong lịng, qua tiếng
xay ngơ cót két của cô sơn thôn thiếu nữ ?
Thơ Bác chỉ man mác bóng dáng của thơ xưa, chỉ mang tính cổ điển thôi chứ không phải là thơ
xưa, chưa hề là xưa. Con người trong thơ cổ thường xuất hiện như môt sự điểm xuyết cho bức
tranh thiên nhiên, họ thường bé nhỏ, cô đơn “lom khom dưới núi tiều vài chú – Bà Huyện


-

Thanh Quan), thường tĩnh lặng thụ động, và luôn chịu sự chi phối của ngoại cảnh (Nhật mộ
hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu – Thơi Hiệu).
Cịn trong thơ Bác, con người vẫn ln chiếm vị trí then chốt, hiện lên sống động và rất đời
thường. Họ là anh phu làm đường ( Trúc lộ phu), là anh bạn tù ( Người bạn tù thổi sáo), là
người phụ nữ thăm chồng trong cảnh ngùc tù (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng) ,… và
trong bài thơ này là hình ảnh một cơ gái đang xay ngô dưới núi bên ánh lửa hồng. Chẳng phải
là hình ảnh của những phụ nữ tài sắc vẹn tồn, “ cầm kì thi họa” những số phận thì bất hạnh
long đong trong thơ trung đại nữa. Mà người thiếu nữ trong vần thơ của Bác gắn liền với công
việc lao động hàng ngày để làm chủ cuộc sống. Hai chữ “ thiếu nữ” gợi lên sự trẻ trung tươi tăn

của cơ gái. Hành động “xay ngơ” cịn gợi ra sự khỏe khoăn, nhịp nhàng, duyên dáng, đòi hỏi sự
thành thạo trong cơng việc của họ. Phải nói rằng, giữa cái buồn lặng của thiên nhiên núi rừng,
cô sơn thôn thiếu nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui
tươi hơn. Có lẽ vì thế mà nhà phê bình Hồi Thanh mới nhận xét rằng “Một hình ảnh tươi đẹp
về cuộc đời thiếu thốn vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng u. Những hình ảnh như thế khơng thiếu
gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trơi qua đi. Khơng có một tấm lịng u đời sâu sắc
khơng thể nào ghi lại được”. Câu thơ không chỉ miêu tả cuộc sống của con người nơi đây mà
còn cho thấy tấm lòng của Bác. Phải là một tấm lòng của một nhà nhân đạo chủ nghĩa cách
mạng, Người có thể quên đi cảnh ngộ của chính bản thân mình để vui với cuộc đời, để yêu
thương cuộc đời mới có những vần thơ giản dị mà đáng trân trọng như thế ! Qủa thực, thơ Bác
là tiếng thơ của người chiến sĩ hiện đại mạnh mẽ, nhạy cảm và giàu lòng nhân ái, và điểm đặc
biệt, có lẽ là trong thơ Bác thiên nhiên không phải là điểm nhấn mà con người mới là trung tâm
của tranh thơ ấy.
Đến với câu thơ khép lại thi phẩm, một lần nữa người đọc sẽ cảm nhận rõ nét hơn tình
yêu thương bao la của Bác: Bao túc mà hồn lơ dĩ hồng.
+ Thật độc đáo khi Bác đã diễn tả một cách đều đặn xoay trịn vịng quay của chiếc cối xay ngơ
bằng nghệ thuật điệp vòng: ma bao túc – bao túc ma. Nghệ thuật này gợi ra được sự luôn phiên,
nối tiếp công việc xay ngô từ ngày này qua ngày khác, đâu đó giữa núi rưng u tịch là cuộc sống
lao động vẫn chưa bao giờ ngừng nghỉ, bởi chẳng, lao động là sự sống. còn sống là con lao
động để cải thiện hoàn cảnh, để được hạnh phúc ấm no.
+ Đặc biệt hơn là Hình ảnh “lơ dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ. Sắc hồng trong lò than của cô
gái đã thăp sáng bài thơ, xua đi những lạnh lẽo, tối tăm, đem lại ánh sáng và sự ấm áp cho màn
đêm ở miền sơn cước. Lò than có lẽ đã được đốt lên từ trước đó nhưng chỉ khi ánh ngày đã tắt,
bóng tối bao trùm ta mới thấy nó rực hồng như vậy. Thời gian thì vận động theo quy luật tự
nhiên, từ chiều tà về đêm, nhưng trong thơ của Người, hình ảnh thơ lại vận động theo quy luật
tâm hồn, từ lạnh lẽo, u buồn đến rực sáng, ấm áp. Rõ ràng, người đọc khơng hề có cảm giác
một màn đêm bao trùm, thâm u, tĩnh mịch mà ngược lại mở ra bằng một không gian của ánh
sáng, của ngọn lửa hồng sưởi ấm của con người nơi đây. Đối với người tù đày như Bác, hình
ảnh lị than đó rực hồng đem lại cho người sự ấm áp, đánh thức những ước mơ thầm kín về mái
ấm gia đình, sự đồn tụ của một tù nhân đang phải lưu lạc nơi đất khách trong cô đơn.. Một lần

nữa ta nhận ra cái cái nhìn lạc quan tươi sáng của người chiến sĩ cộng sản trong hồn cảnh tù
đày gian khổ. Người khơng chỉ hướng về sự sống mà còn hướng về ánh sáng và tương lai. Điều
đó bắt nguồn từ niềm quan tâm của Bác với con người. Dường như, Người quên đi nỗi khổ của
mình “hi sinh tất cả chỉ quên mình” để chia sẻ niềm vui đời thường với người dân lao động để


lạc quan, để tin tưởng vào tương lai tốt đẹp phía trước.. Với vai trị như thế, chữ Hồng xứng
đáng là “ơng thánh thứ 28” của bơng hóa tứ tuyệt ấy. Mà như Hồng Trung Thơng phải xt
xoa hạ bút: Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả
bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ”. Có thể nói, màu Hồng ấy chính là bản lĩnh, là
tinh thần thép cuả Hồ Chí Minh. Nhận định về vấn đề này, Chế Lan Viên viết:
Người ghét sự chói chang, những chính Người là nguồn ấm nóng
Của vầng hồng đánh dẹp bóng đêm lui.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện đại, giữa vẻ
đẹp giản dị mà sâu sắc, cùng với ngôn ngữ thơ hàm súc, bút pháp chấm phá tả, cảnh ngụ tinh…
tất cả tạo nên một thi phẩm xuất sắc mang dấu ấn đậm nét của lãnh tụ vĩ đại hồ Chí Minh. Đằng
sau bức tranh thiên nhiên đượm buồn , bức tranh cuộc sống tươi vui là bức tranh tâm cảnh
mang những nét đẹp của tâm hồn nhà thơ: quên đi cảnh ngộ bản thân để hịa mình với thiên
nhiên, chia sẽ niềm vui cuộc sống của người lao động. Chiều tối thể hiện tinh thần kiên cường
lạc quan, một phong thái ung dung tự tại ttrong hoàn cảnh và một tâm hồn tinh tế nhạy cảm,
yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người tha thiết. Bài thơ là minh chứng hùng hồn cho vẻ
đẹp hịa quyện giữa chất thép và chất tình trong thơ Bác “ Vần thơ của Bác, vần thơ thép / Mà
vẫn mênh mơng bát ngát tình” ( Hồng Trung Thơng)
Mộ tuy là cảnh chiều tàn, chiều tối nhưng nó khơng hề chìm khuất trong u tối. Vẫn cịn
một thứ ánh áng của niềm tin, của lòng người, của cuộc sống lao động soi rọi và dẫn dắt tâm
hồn Bác vượt qua những khổ ải lưu đày, sống vững chãi như bản chất vốn có của con người
VN. Có lẽ vậy nên, bài thơ khép lại nhưng đã mở ra rất nhiều thứ buộc người đọc phải khám
phá. “Thơ vừa là sự kết tinh tâm hồn người sáng tác,vừa là sợi dây truyền sự sống đến người
đọc” (Nguyễn Đình Thi) Mộ là bài thơ như vậy !



1.
-

2.

-

-

-

-

Hồ Chí Minh khơng chỉ là một nhà cách mang, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất mà Người
cịn là danh nhân văn hóa thế giới, là một nhà văn hóa, một nhà thơ lớn của dân tộc. Bên cạnh
sự nghiệp chính trị, sự nghiệp văn học của Người được coi là một tài sản quý giá của nền văn
học nước nhà. Trong di sản văn nghệ Người để lại cho chúng ta, Nhật kí trong tù là một trong
những thành tựu có giá trị nhất “tập thơ đã tỏa ra ánh sáng của một bậc nhân, đại trí, đại
dung”. Chiều tối là một trong số những thi phẩm xuất sắc của tập thơ này.
II.Thân bài
Khái quát
Hoàn cảnh sáng tác: Tập thơ NKTT được sáng tác trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt giam (8/1942 – 9/1943). Tập thơ gồm 134 bài thơ chữ Hán, hầu hết được
viết theo lối thơ Đường luật.
– Hoàn cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ Chiều tối: Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ một
buổi chiều muộn, trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao
Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942.
Cảm nhận bài thơ
2.1 Bức tranh núi rừng vào buổi chiều tối ( 2 câu đầu)

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng
Cảnh núi rừng được nhà thơ phác họa qua hình ảnh: cánh chim chiều tìm bay về rừng một
ngày kiếm ăn mệt mỏi và chịm mây trơi giữa tầng khơng.
Đây là thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển, tạo ra ý vị cổ điển cho bài thơ. Trong Truyện
Kiều, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điền vào bức tranh cảnh vật ấy cánh chim bay về
rừng: Chim hôm thoi thóp về rừng. Trong thơ bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “ Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi” và Huy Cân lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang
nghiêng dần về cuối chân trời: “ chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Dường như, trong
cảm nhận của những thi nhân xưa, khi miêu tả cảnh chiều mà khơng có hình ảnh cánh chim nhỏ
thì bóng chiều chưa rõ.
Chỉ với 2 nét vẽ đơn sơ ấy nhưng bằng bút pháp chấm phá đã gợi ra thần thái của cảnh vật.
Một không gian rộng lớn, quạnh vắng và hiu hắt buồn. Khơng nói đến màu sắc mà ta vẫn thấy
rất tối, không nhắc đến âm thanh mà người đọc thấy rất vắng lặng, khơng nói về thời gian mà
người đọc biết cảnh đang chuyền dần về chiều tối.
Đằng sau bức tranh thiên nhiên là cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật trữ tình: Cơ
đơn, mệt mỏi, buồn bã. Cánh chim chiều mệt mỏi hay chính là cảnh ngộ mệt mỏi của người tù
trên cuon đường bị giải đày. Con chim kia đang bay tìm về rừng tìm chốn ngủ. Cịn tác giả thì
khong biêt “ giải tới bao giờ, giải tới đâu”. Chòm mây lẻ lỏi hay chính là tâm trạng cơ đơn nơi
đất khách quên người trong buổi chiều tối giữa núi rừng mênh mơng quạnh vắng.
Thủ pháp tả cảnh ngụ tình đã hé lộ cho người đọc thấy những tình cảm rất đỗi con
người của Hồ Chí Minh. Bản dịch thơ có phần chưa sát so với nguyên tác . Đánh mất chữ “
cô” trong cô vân nên đã không diễn tả được tính chất lẻ loi, cơ độc của hình ảnh. LẠI thêm


cách dich “ chịm mây trơi nhẹ” mà bản ngun tác lại viết là “ mạn mạn” nghĩa là trôi lững lờ.
Câu dịch thơ đã không chuyển tải được dáng vẻ uể oải, buồn bã, chất nặng của nỗi niềm của
chịm mây lẻ loi. Cảnh và tình có sự đồng điệu, đồng cảm cao.
+ Nhìn dáng vẻ cánh chim bay mà cảm nhận được sự mệt mỏi, nhìn chịm mây trơi lững lờ trên
tầng khơng mà thấm thía sự lẻ loi thì hẳn rằng nhân vật trữ tình phải có tâm hồn nhạy cảm tinh

tế của người nghệ sĩ, bắt nhận được những biến thái tinh vi của TN và giao hòa, giao cảm với
TN.
+ Bên cạnh những cảm xúc của nguời nghệ sĩ là bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ cách
mạng. trong hoàn cảnh lao tù đầy thử thách mà người vẫn cảm nhận được vẻ đệp của TN, mở
rộng lịng mình để giao hịa với nó với một phong thái ung dung tự tại thì rõ ràng tác giả phải có
một bản lĩnh cách mạng của người chiến sĩ vượt lên hồn cảnh.
+ Khơng chỉ có thế , cái nhìn vời vợi của tác giả hướng lên trên, lên cao, lên xa để theo dõi cánh
chim trời dường như còn ẩn chứa một khát vọng tự do mãnh liệt. Đó chính là chất thép, tinh
thần thép trong thờ Hồ Chí Minh.
2.2 Nếu như hai cầu đầu bằng bút pháp cổ điển, tác giả đã vẽ ra bức tranh TN thì sang hai
câu thơ sau, tác giả tập trung làm nổi bật hình ảnh trung tâm của bức tranh ấy chính là
cảnh lao động sinh hoạt của con người đầy tươi sáng , ấm áp và tràn đầy sức sống.
-

-

-

Xóm núi là hình ảnh giản gị biểu tượng cho bình n cuộc sống con gười. xóm núi
như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ xay ngô. Vẻ đẹp tre trung đầy sức sống
của người thiếu nữ với tư thế xay ngô trở thành tâm điểm của bức tranh TN buổi chiều. Thủ
pháp điệp liên hồn “ ma bao túc” gợi ra vịng quay nhịp nhàng, dều đặn liên tục của cối xay
ngô. Từ đó, gợi ra nhịp lao động khơng ngơi nghỉ của cô gái vùng sơn cước. sự sống như một
mạch ngầm tuy lặng lẽ nhưng vẫn tiếp diễn ở vùng đất quạnh hiu, vắng lặng này.
Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác khác xa với hình
ảnh người thiếu nữ trong thơ xưa. Trong thơ xưa, đó là hình ảnh của những “ liễu yếu đào tơ”,
sống trong “ phong the khép kín”, chỉ biết cầm kì thi họa là đủ. Trong thơ xưa, những bức tranh
cảnh chiều đều có hình bóng con người. nhưng sao lẻ loi , cô độc và hiu hắt quá:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà ( Qua đèo ngang - Bà Huyện Thanh Quan)

Hay
gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cơ thơn( chiều hơm nhớ nhà - BHTQ
Cịn trong thơ bác, những cô gái ấy găn liền với công việc lao động, giản dị, đời thường, tràn
đây sức sống. Phải chăng, chính cái sức sống ấy của người thiếu nữ làm nên vẻ đẹp lung linh
cuả bức tranh.
Công việc xay ngô cứ đều đặn diễn ra. Cối xay vẫn quay và quay tít “ ma bao túc”
rồi “ bao túc ma” và khi ngô xay vừa xong” bao túc ma hồn” thì nhìn thấy “ lị than rực
hồng” . Hình ảnh” lị than rực hồng” gợi ra sự vận động của thời gian chuyển từ chiều sang tối.
ở đây tác giả đã mượn sáng để chỉ tối. bản dịch thơ đã làm lộ ý, giảm đi tính hàm súc vốn có
của thể thơ tú tuyệt qua việc thêm vào chữ “ tối”. Khơng chỉ gợi thời gian, hình ảnh cịn cho
thấy một khơng gian tươi sáng, ấm ạp, tràn đây sức sống..


-

Nhịp thơ trong bản gốc 4/3 thể hiện một sự vận động nhanh và nối tiếp, ngơ xay vừa xong
thì lò than cũng đã đỏ. Cái tối thu nhỏ trước hình ảnh lị than và càng tối thì lị than càng đỏ. ở
bản dịch, nhip thơ 2/5 khiến nhịp thơ bj kéo dài ra, chậm lại, không chuyển tải được sự vận
động mau lẹ của bóng tối, đồng thời giảm mất tính chất rực sáng của lị than.
Bài thơ kết thúc bởi chữ “ hồng:” có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ.
Người đọc có cảm giác màu đỏ của lửa đã nhuốm cả bóng đêm, soi rọi hình aanhr người thiêu
nữ và thắp sáng cả bài thơ, thổi ấm lòng người. Đồng thời, ta còn thấy được tinh thần lạc quan,
yêu đời tin tưởng vào tương lai , vào sự sống. Phải là người có bản lĩnh thép mới có thể hất
được ánh sáng ở phía trước ngay trong hồn cảnh tù đày như vậy. Bên cạnh chất thép của
người chiến sĩ là tâm hồn nghệ dĩ dạt dào cảm xúc , nâng niu trân trọng vẻ đẹp của cuộc sống
con người lao động , vui niềm vui của con người lao động
=>Trước cảnh vật và cuộc sống con người nơi xóm núi, trong lịng tác giả dâng lên dạt dào
cảm xúc. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: tha thiết yêu thiên nhiên,
cuộc sống, con người. Hai câu thơ sau khiến người đọc vô cùng cảm động bởi đã ghi lại cảnh

sinh hoạt quen thuộc, bình dị của một gia đình nơi xóm núi. Điều đó chứng tỏ trong hành trình
hoạt động cách mạng, tồn tâm tồn trí vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân, nhưng trong trái tim
Bác Hồ vẫn có một khoảng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lịng u đời của Người ở hai
câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “ Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả
mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế khơng thiếu gì chung quanh ta
nhưng thường nó vẫn trơi qua đi. Khơng có một tấm lịng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại
được”.
3.Đánh giá về nghệ thuật
Bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh: Sự kết hợp hài
hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho bài thơ “Chiều tối”: bên cạnh
vẻ đẹp rất gần gũi với thơ Đường, thơ Tống cịn có vẻ đẹp hiện đại, mang tinh thần thời đại thể
hiện đúng phong cách nghệ thuật của một nhà thơ cách mạng, người cộng sản – thi sĩ Hồ Chí
Minh. Có được nét phong cách nghệ thuật đặc sắc đó là nhờ sự kết hợp của hai nền học vấn
Hán học và Tây học, vốn sống và vồn văn hóa sâu rộng.
III.Kết luận
_Khẳng định giá trị tác phẩm: Bài thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp gợi cảm của bức
tranh chiều tối nơi xóm núi. Nổi bật trong bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình với tấm lịng
u thương rộng lớn, ln nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tâm hồn lạc quan ln
hướng về tương lai. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa của vẻ đẹp truyền thống với tinh thần hiện
đại, sự hòa quyện giữa chất thép và chất tình.
_Khẳng định vị trí của tác giả trên thi đàn dân tộc: Hồ Chí Minh thực sự là một tác giả xuất sắc
trên thi đàn dân tộc, không chỉ là một nhà Cách mạng, một nhà chính trị mà thực sự là một nhà
thơ với những tác phẩm được ví như viên ngọc q đã vơ tình để rơi vào kho tàng văn học Việt
Nam.



×