Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

MÔN NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH: tour phố cổ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.73 KB, 44 trang )

BÀI THUYẾT MINH
MÔN: NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Đề bài: Tour

phố cổ Hà Nội


Bài Thuyết minh phố cổ Hà Nội
Xin chào mừng quý khách đến với chương trình du lịch mang tên: “
Hà Thành phố cũ ” của công ty Du lịch ABC. Tôi xin tự giới thiệu tôi là
Nguyễn Văn Thảo, hướng dẫn viên của công ty- người trực tiếp đi cùng q khách
trong chương trình tham quan ngày hơm nay. Tơi xin nói sơ qua về chương trình
của chúng ta để mọi người nắm được. Đầu tiên cả đoàn sẽ đi thăm quần thể di tích
Hồ Gươm, vào đền Ngọc Sơn, sau đó sẽ đến 2 ngơi nhà cổ tiêu biểu trong khu phố
cổ là Đình Đồng Lạc và số nhà 87 Mã Mây. Tiếp theo chúng ta sẽ qua Hàng Buồm
để vào thăm đền Bạch Mã- 1 trong 4 ngôi đền Thăng Long tứ trấn. Sau nữa chúng
ta ghé qua chợ Đồng Xuân và cuối cùng cả đoàn sẽ đến nhà 14 phố Chả Cá để
thưởng thức món Chả cá Lã Vọng. Thay mặt công ty tôi xin chúc quý khách có
một chuyến đi thú vị và đáng nhớ!
HỒ HỒN KIẾM
Điểm dừng chân đầu tiên của chúng ta trong cuộc hành trình là quần thể di
tích Hồ Gươm- một khơng gian thiêng của người dân thủ đô Hà Nội. Sở dĩ nơi đây
vốn mang trong mình nhiều truyền thuyết cũng như những dấu ấn của lịch sử và
văn hóa. Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn
liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với
những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng khơng đủ rộng cho những sinh
hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp.Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là
biểu tượng khát khao hịa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc
(thanh kiếm thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh).
Thưa quý khách, chúng ta đang ở hồ Gươm, nơi chúng ta đang đứng đây có


thể nhìn bao quát hồ, ngắm tháp Rùa, đền Ngọc Sơn và những điểm nổi bật quanh
bờ hồ. Tồn bộ diện tích của hồ Gươm là 12 ha, dài 700m theo hướng Nam Bắc và
rộng 200m theo hướng Đông Tây. Theo con mắt của những nhà địa chất, Hồ
Gươm là nón quà của sơng Hồng từ xa xưa, thủơ sơng Cái cịn lượn sâu vào đất
này từ vài ngàn năm trước. Hiện tượng sơng bỏ dịng như vậy rất thường xảy ra.
Thực ra tên gọi Hồ Gươm mới có khoảng một thế kỷ nay. Trước đó tên phổ
biến là hồ Hồn Kiếm. Cịn trước đó nữa Hồ cịn có nhiều tên gọi khác nhau.
Trước đây do hồ có màu nước quanh năm xanh nên cịn có tên là hồ Lục Thủy
(nghĩa là Nước Xanh). Chuyện kể rằng khi vua Lê Thái Tổ khởi binh chống quân
Minh xâm lược, Vua có bắt được một thanh gươm, vũ khí đó theo vua suốt cuộc
trường trinh mười năm và cuối cùng Vua đánh đuổi được giặc, giành lại nền độc
lập. Đóng đơ ở Hà Nội khi đó gọi là Thăng Long, một hơm vua rong thuyền đi
chơi trên hồ Lục Thủy thì có rùa vàng nổi lên, vua tuốt gươm chỉ vào rùa thì rùa
liền ngậm cây gươm mà lặn xuống nước. Nghĩ rằng đó là khi trước Trời cho mượn
gươm để dẹp giặc, nay giặc tan thì sai rùa thần đến địi lại gươm trả lại cho Trời.
Từ đó vua đổi tên hồ thành hồ Hoàn Kiếm tức hồ Trả Gươm mà ngày nay chúng ta


gọi tắt là hồ Gươm. Phải chăng truyền thuyết trả gươm đó muốn nói lên khát vọng
hịa bình của cả dân tộc Việt Nam và khi dẹp xong giặc thì gác vũ khí lại để lo sản
xuất làm ăn, vì một nền hịa bình lâu dài. Như đứng trên trụ cao, tượng đài vua Lê
đội mũ bình thiên chỉ gươm xuống tuyên bố: “Dân tộc ta sẽ không đúc, rèn vũ khí
nữa, chỉ dành cơng sức tạo nên cuộc sống, nhân danh trăm họ, Trẫm xin hoàn lại
thanh gươm chiến thắng”.
Truyền thuyết cịn có một ý nghĩa sâu xa nữa, theo dân gian, thanh gươm là
biểu tượng của Lửa. Nhúng gươm xuống nước là biểu thị của nghi lễ hòa hợp nước
lửa. Vâng thưa quý khách, có lẽ chưa ở nơi đâu như mảnh đất này lại được xây
dựng trên huyền thoại và truyền thuyết hòa quện suốt chiều dài lịch sử. Từ lúc vua
Lý Thái Tổ thấy rồng bay lên khi đậu thuyền ở chân thành Đại La, và đến khi Lê
Thái Tổ giữ nước thành công, chuyện trả gươm như gạch nối xứng đáng nhất để

tạo nên nét đối xứng tuyệt diệu – Dương: Rồng bay. Âm: Rùa lặn! theo giáo sư
Trần Quốc Vượng, bản sắc của Thăng Long – Đại Việt là tổng hòa những giá trị hư
và thực, thực mà hư. Huyền mà thực, thực mà huyền!
Minh chứng rõ hơn về truyền thuyết trả gươm, Sách Lam Sơn thực lục của
Nguyễn Trãi chép: Khi ấy Nhà-vua cùng người ở trại Mục-sơn là Lê Thận cùng
làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực Ma-viện, đêm thấy
đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ
được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng
giỗ (ngày chết của cha mẹ), nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh sáng, nhận
ra mảnh sắt, nhà vua bèn hỏi:
- Sắt nào đây?
Thận nói:
- Đêm trước quăng chài bắt được.
Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về đánh sạch rỉ, mài
cho sáng, thấy nó có chữ "Thuận Thiên", cùng chữ "Lợi".
Lại một hôm, nhà vua ra ngồi cửa, thấy một cái chi gươm đã mài-dũa
thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng:
- Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chi và lưỡi liền nhau!
Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, thành ra một chiếc gươm hồn chỉnh.
Tới hơm sau, lúc đêm, trời gió mưa, sớm ngày mai, hồng hậu ra trơng vườn
cải, bỗng thấy bốn vết chân của người lớn, rất rộng, rất to. Hoàng hậu cả kinh, vào
gọi nhà vua ra vườn, được quả ấn báu, lại có chữ Thuận Thiên (sau lấy chữ này
làm niên hiệu) cùng chữ Lợi. Nhà vua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm
mừng, giấu giếm khơng nói ra.
Truyền thuyết kể tiếp rằng, sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó làm gươm
chiến đấu, xông pha chém địch nhiều trận, cuối cùng đuổi được quân Minh, lên
làm vua
Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy Quân. Ra
giữa hồ, có Rùa Vàng nổi lên mặt nước, chắn trước thuyền của vua gọi to:
- Xin nhà vua hãy hoàn lại gươm thần cho Long Vương!



Lê Thái Tổ rút gươm trả, rùa vàng ngậm lấy gươm lặn xuống nước đi mất.
Từ đó hồ Thủy Quân được đặt tên là hồ Hoàn Kiếm.
Thưa quý khách, hồ Gươm được gọi phổ biến với cái tên Hoàn Kiếm từ đó,
nhưng cũng có lúc hồ có tên là Vọng, chia hai phần tả-hữu. Theo sử sách, hồ
Gươm xa xưa rộng mênh mơng, truyền thuyết hồ Gươm có kể tiếp rằng dù sao Vua
cũng muốn tìm ra rùa Vàng nên sai quân lính đắp đập ngăn hồ Lục Thủy thành hai
nửa, ban đầu cho tát nước từ bên này sang bên kia khơng tìm thấy rùa, lại tát ngược
lại, vẫn khơng thấy rùa bèn cho là rùa Thần. Sau đó cái đập được giữ lại, nửa hồ
phía bắc được gọi là hồ Tả Vọng, phần cịn lại phía nam gọi là Hữu Vọng, sau này
phần hồ Hữu Vọng bị Tây lấp, hồ Gươm giờ là một phần Tả Vọng. Hồ sau này
thời chúa Trịnh còn được dùng làm chỗ tập luyện thủy quân nên còn gọi là hồ
Thủy Quân.
Thưa quý khách, tháp rùa đã từ lâu trở thành biểu tượng thân thiết của thủ đô
Hà Nội, mặc dù tháp chỉ được xây vào nửa cuối thế kỷ 19. Gọi là tháp Rùa vì tháp
được xây trên đảo rùa, là gị đất nhỏ nổi lên giữa hồ làm nơi rùa hồ Gươm thường
lên phơi nắng hay đẻ trứng, gò đất này các cụ vẫn gọi nó là Quy Sơn tuy chỉ cao
hơn mặt nước hồ 60cm (vì theo thuật phong thủy “ cao một tấc thì cũng là một
ngọn núi”). Về sự tích xuất hiện tháp Rùa cũng rất lý thú, truyền thuyết kể lại rằng,
trên đảo rùa có huyệt quý, nếu đem hài cốt song thân tang vào đó thì con cái đời
đời vinh hiển. Năm 1884, Pháp đã làm chủ Hà Nội. Một tên tay sai của thực dân là
Bá Kim xin được xây tháp trên gò rùa và lén đặt hài cốt cha mẹ mình vào đó,
nhưng sự việc không thành nhưng đã hứa với mọi người là xây tháp nên hắn đành
ngậm bò hòn làm ngọt xây nốt tháp rùa. Để thưởng công cho Bá Kim, thực dân
Pháp đặt tên tháp là tháp Bá Kim, nhưng nhân dân Thủ đô vẫn gọi là tháp Rùa. Tuy
truyền thuyết Bá Kim xây tháp rùa để tang hài cốt cha mẹ chỉ là truyền thuyết dân
gian, được lưu truyền và phần nào đó tạo nên tính thiêng liêng, ly kì của tháp Rùa!
Hơi xa một chút nhưng chắc quý khách cũng có thể thấy, tháp rùa được xây
theo hình chữ nhật, có ba tầng và một đỉnh. Tầng một xây trên móng cao 80cm,

tầng này hình chữ nhật, mỗi mặt tháp đều có những ơ cửa hình vịm, mặt chiều dài
có 3 cửa, mặt chiểu rộng có 2 cửa, tổng cộng bên ngồi có 10 cửa. Bên trong tháp
tầng 1 cịn được phân ra làm ba gian và có 4 cửa thơng với nhau. Vậy tổng cộng
tầng một có 14 cửa. Tầng hai cũng tương tự nhưng diện tích nhỏ hơn. Tầng ba nhỏ
hơn nữa, chỉ có 1 cửa hình trịn ở mặt phía Đơng. Tầng đỉnh chỉ như một vọng lâu,
vng vức. trên tường mặt phía Đơng có ba chữ Quy Sơn Tháp tức Tháp Núi Rùa.
Như vậy, Tháp Rùa tuổi đã dư một thế kỷ, dù lịch sử khơng có gì đáng kể, cũng đã
là một bộ phận hữu cơ cảu hồ Gươm, là một phần của tâm hồn Hà Nội.
Du khách hỏi: Một số bài thơ, câu hát nói về thắng cảnh Hồ Gươm và Tháp
Rùa
HDV trả lời:
Hồ Gươm xanh thắm quanh bờ,
Thiên thu hồn nước mong chờ bấy nay.
Bây giờ đây lại là đây,


Quốc kỳ đỉnh tháp, sao bay mặt hồ.
( Bài thơ Lại về- Tố Hữu)
Hà Nội
Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn Tháp Bút
Viết thơ lên trời cao
Trần Đăng Khoa - 1969
Hà Nội niềm tin và hy vọng
Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời
Càng toả ngát hương thơm hoa thủ đơ
Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô
Nghe tiếng cười không quên niềm thương đau .....
Nhạc và lời: Phan Nhân

ĐỀN NGỌC SƠN
Thưa quý khách ngay bây giờ thì chúng ta sẽ mua vé để vào thăm quan Đền
Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc Sơn. Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới do lần tu sửa
gần đây nhưng đền Ngọc Sơn lại là một điển hình về không gian và tạo tác kiến
trúc.
Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi). Vua Lý Thái Tổ dời đô
ra Thăng Long đặt tên đảo là Ngọc Tượng và đến đời Trần thì đảo được đổi tên là
Ngọc Sơn. Tại đây đã có một ngơi đền được dựng lên để thờ những người anh
hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Về sau lâu
ngày ngôi đền bị sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh
Giang đã dựng cung Thuỵ Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía đơng đối
diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thuỵ Khánh
bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra một ngơi
chùa gọi là chùa Ngọc Sơn trên nền cung Thuỵ Khánh cũ. Năm Thiệu Trị thứ ba
(1843), một hội từ thiện đã bỏ gác chng, xây lại các gian điện chính, các dãy
phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn
(Văn Xương là nhân vật đời Kiến Vũ, năm 25 - 55 sau công nguyên bên Trung
Quốc, sau khi chết được phong là thần chủ về văn chương khoa cử).
Theo sách "Hà Thành linh tích cổ lục" thì ngay từ đời Lê, trên đảo Ngọc Sơn
đã có đền thờ Quan Cơng, người nổi tiếng trung nghĩa đời Tam Quốc (Trung
Quốc). Khi vua Lê và chúa Trịnh dùng hồ là nơi duyệt thuỷ quân thì đền được coi
như một võ miếu. Dân Hà thành đã đem tượng Đức thánh Trần thờ phối hưởng bên
cạnh Quan Công. Nhưng "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" lại cho đó là
tượng Lê Lai, cơng thần khai quốc đời Lê đã xả thân cứu chúa.
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu
sửa lại đền. Đền mới sửa được đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình


Trấn Ba, bắc một cây cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Sự kết hợp giữa
đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân

hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hồ, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm
giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng
tích gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước
chính đáng cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của
dân tộc.
Đền Ngọc Sơn nằm trong khơng gian đầy huyền thoại, đó là Hồ Gươm. Hồ
có nhiều tên, song tên quen thuộc hiện nay mới chỉ được ấn định sau tích chuyện
Lê Thái Tổ trả gươm cho thần Kim Qui.
Kính thưa quý khách Hiện tượng Lê Lợi trả gươm cho thần Rùa - ở chừng
mực nào đó có thể tạm nghĩ như tính chất linh thiêng hóa của dân chúng đối với Lê
Lợi. Ngồi ra, núi Ngọc mang biểu tượng trong sáng vô biên của đạo Pháp. Bây
giờ chúng ta sẽ cùng đi tham quan tổng thể kiến trúc của đền. Ngay từ ngồi là
Nghi mơn ngoại dưới dạng tứ trụ, ước vọng nổi bật là hai đại tự "Phúc - Lộc" ghi
lại trên đó. Trên đầu hai cột đắp hình phượng "lá lật" phảng phất ý thức cầu sinh
lực của bầu trời xuống cho đất nước.
Giữa hai nghi mơn, phía bên phải có cây tháp đá 5 tầng với dòng chữ "Tả
Thanh Thiên" (viết lên trời xanh) của danh nho Nguyễn Siêu - đây là tuyên ngôn
của giới nho sỹ đương thời - tư tưởng mênh mơng hịa cùng trời đất! Tháp đá này
vốn là núi Ngọc Bội hay núi Độc Tôn trước đây, thần Siêu đã cho đắp đá và xây
tháp mang hình cây bút lơng. Con số 5 tầng tháp cũng chính là con số của sự luân
hồi, con số của âm dương ngũ hành. Trên núi đá có một căn miếu nhỏ để thờ sơn
thần, cịn tấm bia nhỏ gần đó có tên Thái sơn thạch cảm đương.
Nghi môn giữa đắp rồng (bên trái), đắp hổ (bên phải) nhìn về hường Đơng
mang biểu tượng Tiến sỹ, Cử nhân. Dụng ý mảnh đất này mang tình Long Hổ hội
(nơi quần tụ của giới trí thức).Long mơn gắn liền với truyền thuyết cá chép hóa
rồng. Q khách có thể nhìn thấy trên long mơn hình ảnh của cá chép. Hai bên có
hai câu đối:
Bát đảo, mặc ngân hồ Thủy mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao.
Nghĩa là:

Tràn quanh đảo ngấn mực đầy hồ
Chạm bầu trời, thế bút ngất núi
Trên đường vào còn rất nhiều biểu tượng khác mang chứa tính tư tưởng như
Đài Nghiên. Nóc đài mang nghiên mực hình trái đào bổ dọc để vừa nói lên ý nghĩa
đè cao việc học, vừa nói về sự cầu phúc. Trái đào nằm chính giữa cửa mà khách
hành hương thường phải đi qua ở phía dưới - đó là biểu hiện về ý thức muốn thơng
qua trí tuệ, bởi sự học hành để diệt trừ ngu tối! Trên đài nghiên cịn có hình 3 con
cóc đắp nổi, nó gắn liền với tín ngường cầu mưa của người Việt. Và phải chăng
việc đắp cóc trên đài nghiên ngụ ý dạy rằng, cái sự học hành của người sĩ tử cũng
cần phải kiên trì, cần mẫn như con cóc đào hang. Ở bên trái đài có chữ thiện và bên


phải là chữ ác. Và một điều khá đặc biết là đúng 8h sáng ngày mùng 5 tháng 5 âm
lịch (nếu trời quang mây tạnh) thì bóng của đỉnh tháp bút Tả Thanh Thiên sẽ rọi
đúng vào Đài nghiên! Tháp Bút, Đài Nghiên biểu trưng cho quan điểm trọng vǎn
chương, anh tài của Nho giáo. Đồng thời, nó cũng thể hiện tư tưởng của tầng lớp
nho sĩ lúc bấy giờ, mà trước hết là Nguyễn Vǎn Siêu
Cây cầu Thê Húc đưa khách hành hương vào đảo Ngọc, cầu hướng Đơng
đón dương khí ban mai về với miền đất thánh thiện, nên cầu sơn màu đỏ - màu của
sự sống, của nguồn hạnh phúc, của ước vọng truyền đời. Trước đây cầu Thê Húc
không phải màu đỏ, cầu được sơn thế này từ lần trùng tu ở thế kỉ 19. Cầu Thê Húc
dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới
bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô
lên. Cả cầu Thê Húc lẫn Đắc Nguyệt Lầu mang đậm mầu sắc Đạo giáo. Hai bên
(Tả - Hữu), có hai bức phù điêu hình Long Mã đang cõng Bát quái và Rùa Thần
đang cõng một thanh kiếm. Trên các phù điêu có các câu: Long Mã Hà đồ (Long
Mã cõng Hà đồ); Thần Quy lạc thư (Rùa Thần cõng Lạc Thư). Giữa Hà đồ và Bát
qi cịn có mối liên hệ trực tiếp, chứ giữa Lạc Thư và Kiếm Thần có quan hệ gì
đây? Phải chăng nó gắn với truyền thuyết trả gươm của vua Lê. Từ Hà đồ, Lạc Thư
đến Đắc Nguyệt Lầu, cầu Thê Húc (nơi đậu lại của ánh mặt trời ban mai), là sự thể

hiện tư tưởng Triết học âm - Dương phương đông và tinh thần Đạo giáo Thần
Tiên. Tuy nhiên ngay ở Đắc Nguyệt Lầu lại có sự thể hiện tư tưởng Phật giáo. Hai
câu đối ở cửa (châu lâu), một vế mang tư tưởng Đạo giáo: Trần Cảnh tiên châu hữu
lộ thông (Cảnh Tiên ở cõi trần cũng có đường thơng tới), vế kia thì lại mang tinh
thần nhà Phật: Linh hồ Nhược Thủy tùy duyên độ (Hồ linh thiêng, nước Nhược
Thủy theo duyên thì độ).
Trên đường vào chúng q khách có thể nhìn thấy ngay một miếu nhỏ để đốt
vàng mã. Đó là kính tự đình. Vào thế kỷ 19 nó có tên là chùa Ngọc Sơn. Theo quan
niệm thời đó thì chữ khơng được coi như rác, nếu nhặt được chữ phải mang vào
kính tự đình đốt.
Trước mắt q khách là tịa Phương Đình (2 tầng, 8 mái) có tên là Trấn Ba
đình (đình chắn sóng), ý nghĩa của lối kiến trúc này rất độc đáo: Là biểu tượng
chống quy nước (chống lụt, úng - một ý thức thường trực của người dân Thăng
Long). Ngoài ra, còn mang ý nghĩa gắn với dịch học, kết cấu đồng nhất với thái
cực, mái trên nhẹ là dương, mái dưới nhẹ là âm, 4 phía mái là tứ tượng, 8 lá mái là
bát qi... Cột trong đình có đơi câu đối:
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
Nghĩa là:
Kiếm sót khí thiêng ngời tựa nước
Văn cùng trời đất thọ như non.
Đền Ngọc Sơn lại quay về hướng Nam, hướng của trí tuệ, của thánh nhân,
của điều thiện. Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Vượt qua sân hẹp là đền
chính, kiến trúc đền thể hiện theo kiểu "tiền nhị hậu đinh", có gốc phát triển từ chữ


"tam" mà thành. Kết cấu của tòa nhà theo kiểu "tường hồi bít dốc" khơng xa cách
lắm với kết cấu chung của nhiều nơi khác. Tuy nhiên, ý nghĩa liên hồn trong cấu
trúc thì được quan tâm đặc biệt đến từng chi tiết của những kiến trúc cổ.
- Trên nóc của tịa nhà Tiền bái khơng có rồng chầu mặt trời mà thay vào đó

là đơi cá chép chầu mặt trời. Khơng ít người thường nghĩ cá chép biểu tượng của
nước, đôi khi là biểu tượng cho mặt trăng, cho sự cao cả, hạnh phúc, no đủ...
Nhưng, thực chất hai con cá chép còn là biểu tượng của âm dương đối đãi.
- Chi tiết ba bộ cánh cửa: Là hiện vật khá điển hình về nghệ thuật dưới dạng
chạm thủng và nổi. Đây là để tài dựa trên nền tảng của tri thức dịch học. Phía trên
bên trái được chạm rồng ở trên, rùa ở dưới; cánh bên phải là phượng ở trên, long
mã ở dưới.
=> Hai cánh cửa tượng trưng cho lưỡng nghi rồng là dương ở cửa bên trái
cũng mang tính chất thái dương và phía dưới là con rùa tượng trưng cho thiếu âm.
Như vậy, sự khép mở của bộ cửa này được coi như sự vận động của vũ trụ hình
thành và nảy sinh. Bây giờ mời quý khách vào trong đền tham quan và và chú ý là
khơng được mang theo hương vào trong đền.
Tịa ngồi cùng, gần với đời, gần với tín đồ nên đã có thời là nơi đặt bàn thờ
Phật và Bồ Tát nhằm đem lại sự an tĩnh cho tâm tư chúng sinh xáo động ở đất đơ
thành. Bây giờ nó được coi như tòa nhà để cho khách đến thăm sửa soạn, chuẩn bị
tâm thế trước khi vào điện thờ. Các cơng trình kiến trúc tơn giáo Việt thường có
một bức bình phong ở trước tiền đường và gian nhà này cũng như 1 bức bình
phong chắn điều xấu, điều ác cho ngôi đền. Các tấm bia đá trong đền ghi lại những
lần trùng tu đền. Chúng ta sẽ gặp rất nhiều bia đá như vậy trong đền Ngọc Sơn.
Dòng chữ hán trên cao, nằm chính giữa là Hồi thiên độ thế. Bây giờ mời quý khách
vào gian nhà tiếp theo.
Tịa nhà giữa là biểu hiện của trí tuệ thuộc về đạo xưa với Văn Xương đế
quân, Lã Đồng Tân và Thánh Quan. Tượng khá chuẩn mực, những đồ thờ, đồ đúc
là sản phẩm có sự gia cơng khá kỹ của nghệ nhân thế kỷ trước và đầu thế kỷ này.
Tượng được bố trí lần lượt như sau: trên cùng là tượng Văn Xương Đế Quân, có 2
thị nữ ở 2 bên. Phía dưới là tượng Lã Tổ, bên cạnh có tượng Thiên Khơi mặt đen
và Thiên Việt mặt hiền, đại diện cho chính và tà. Lớp tượng dưới cùng ở giữa là
Quan thánh Đế Quân, 2 bên có tượng Quan Bình và Châu Xương. Dọc 2 bên ban
thờ có chấp kích và bát bửu. Hai bức hồnh phi được đặt đối xứng nhau phía trên
ban thờ. Bức Cửu thiên khai phá nói về Văn Xương và các vị thánh, cịn bức Độ

thế hữu đan nói về Lã Tổ Lã Động Tân. Ban thờ ở 2 bên thờ những nười có cơng
trong việc tu bổ ngơi dền, Ngồi ra, trong đền có khá nhiều chng và khánh đồng,
là cơng đức của dân.
Nơi tôn nghiêm nhất của đền là nơi thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, một
nhân vật thần - anh hùng dân tộc. Nơi đây chứa những đồ thờ biểu tượng của
quyền uy và linh thiêng. Đây cũng là gian cuối cùng của đền.
Trước tiên tơi xin được nói qua về Trần Hưng Đạo: Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn là danh tướng thời nhà Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử


Việt Nam, có cơng lớn trong hai lần kháng chiến chống Ngun Mơng. Ơng là tác
giả của bộ Binh thư yếu lược (hay Binh gia diệu lý yếu lược) và Vạn Kiếp tơng bí
truyền thư (đã thất lạc). Ơng cịn được người dân Việt tơn sùng như bậc thánh, nên
cịn được gọi là Đức thánh Trần.Ơng vốn có tài qn sự, lại là tơn thất nhà Trần, do
đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần
cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2
và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ.
Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm
Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi nước.Sau khi kháng
chiến chống Nguyên - Mơng lần thứ 3 thành cơng, ơng về trí sĩ ở trang viên của
mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế
sách.Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn
nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày
xưa là phủ đệ của ơng. Ơng được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh tức
là Đức thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh
tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (20 tháng 8
âm lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ông mà gọi là Hưng Đạo
Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ
Cha, tháng Ba giỗ Mẹ). Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có thể thấy ở khắp
nước Việt Nam.

Ban thờ Hưng Đạo Vương được đặt ở chính giữa, những câu đối trong gian
này đều ca ngợi công đức của Đức thánh. Ban thờ bên trái thờ Sơn thần thổ địa,
còn bên phải là ban thờ nghĩa phụ Đức thánh Trần. Quý khách có thể nhìn thấy
trên khung cửa ở 2 bên đều có hình lá bồ đề, đây chính là yếu tố phật giáo trong
ngôi đền.
Du khách hỏi: Quan điểm tam giáo đồng nguyên của người Việt thể hiện thế
nào?
HDV trả lời: Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân,
Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả Phật A-di-đà. Điều
này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Bây giờ đoàn chúng ta sẽ ra ngoài để sang gian nhà bên cạnh, nơi mà tiêu
bản cụ Rùa được đặt ở đó. Cụ rùa được tìm thấy ngày 28 tháng 4 năm 1968. Cụ bị
thương do một người dân chài khi đi quăng lưới đã chọc xà beng vào lưng. Được
chính quyền Thủ đô cứu chữa nhưng không được. Qua khám nghiệm xác định đây
là cụ Rùa ông, khoảng hơn 900 tuổi. “Cụ Rùa” dài 2 mét 10, chiều rộng 1m20,
nặng 250 kg. Đây là tiêu ban duy nhất về Rùa ở Hồ Gươm, ngày nay thi thoảng
người dân Hà Nội vẫn bắt gặp Cụ rùa khác nổi ở hồ, mỗi lần rùa nổi có 1 điều rất
lạ là ln gắn với một sự kiện quan trọng của thủ đô.
Vâng, bây giờ qúy khách có thể tự do tham quan và chụp ảnh khoảng 15
phút, sau đó chúng ta sẽ đi theo con đường nhỏ phía sau để trở ra để tiếp tục cuộc
hành trình.


Thưa quý khách, chúng ta vừa thăm đền Ngọc Sơn, hi vọng những thông tin
tôi cung cấp sẽ giúp quý khách hiểu thêm phần nào về ngôi đền này. Ngay đối diện
cổng đền, gần chỗ đồng hồ đếm ngược là tượng đài cảm tử. Tôi xin đọc một bài
thơ, sau khi nghe xong, hẳn quý vị sẽ phần nào hiểu về tượng đài này.
Tượng đài bên Hồ Gươm (Nguyễn Hoàng Sơn, Việt Nam)
Lá bàng reo như lửa
Đưa ta vào mùa Đơng

Bữa nay hồ trong q
Nắm tay vui một vịng
Bên đài hoa tím hồng
Tượng ba người cảm tử
Kiếm, súng, bom ba càng
Hiện từ bài lịch sử
Sắp lao vào lửa dữ
Mà mắt họ hiền sao
Ơi cái năm Bốn Sáu
Nghe kể cịn nơn nao:
Thuở phản thịt lưỡi dao
Hoen máu Tây mũ đỏ
Những chị vứt guốc cao
Đuổi xe tăng ngoài phố
Cái năm hào với hố
Nát Hàng Đào, Hàng Ngang
Con người không bé nhỏ
Sống hồn nhiên, can trường
Giờ im lặng bên đường
Giữa dòng người đi lại
Cùng Tháp Bút, Hồ Gươm
Ba người xưa kể mãi...
Đền Bà Kiệu
Ngay sát tượng đài đó là: đền Bà Kiệu. Đền có tên chữ là Thiên Tiên Điện
được xây dựng từ thời Lê Thần Tông (TK17) ở địa phận làng Tả Vọng, nay là phố
Đinh Tiên Hoàng, xế trước đền Ngọc Sơn. Đền xưa khá khang trang có tam quan
nằm gần Hồ Gươm, khi Pháp làm đường Đinh Tiên Hoàng đã cắt ngang sân đền,
cắt phần tam quan sang bên Hồ Gươm, cịn đền ở bên này phố. Đền có kiến trúc ba
gian, chồng diêm hai mái có hàng trống con tiện, vì kèo truyền thống. Diện mạo
hơm nay là sau lần trùng tu năm 1883 – 1884. Đền thờ mẫu Liễu Hạnh, một phụ nữ



sống thời Lê, quê ở làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, Nam Định, thờ chính ở Đền Phủ
Giầy.
Đền cịn giữ được một tấm bia đã và quả chuông đồng mang niên hiệu Cảnh
Thịnh thứ 8 (1800) đời Tây Sơn. Nay đền còn là nơi trương bày các hiện vật lịch
sử – văn hóa của Thăng Long – Hà Nội qua các thời đại. Đền Bà Kiệu được tổ
chức hằng năm. Theo người dân địa phương, lễ hội nhằm cầu cho mưa thuận gió
hịa, quốc thái dân an.
Du khách hỏi: tại sao đền Bà Kiệu lại xây dựng ngay đối diện đền Ngọc Sơn
HDV trả lời: Theo quan niệm của người Việt, tín ngưỡng thờ mẫu là một
phần khơng thể thiếu trong đời sống tâm linh, có đền ơng thì phải có đền bà, nên
đền Bà Kiệu được xây dựng ở ngay gần đền Ngọc Sơn
Tiếp theo đây đoàn của chúng ta sẽ đi tham quan phố cổ Hà Nội, điểm dừng
chân tiếp theo là số nhà 38 Hàng Đào.
Khu 36 phố phường hay cịn gọi là khu bn bán nằm giữa kinh thành và bờ
sơng Hồng. Vị trí lý tưởng cho việc thiết lập các hoạt động thương mại, các làng
mạc vùng châu thổ đã được xây dựng từ thế kỉ 15, những khu vực bán hàng trong
mạng lưới các làng cổ. Những người làm chung một nghề tập trung lại một chỗ và
lập ra một phường riêng. Vào thế kỉ 15 thành phố có 36 phường. Phần lớn các phố
trong khu phố cổ đều là nới kinh doanh nhộn nhịp. Rất nhiều đền chùa cũng được
xây dựng vào thời kỳ đó. Cơ cấu tổ chức chính trị và xã hội của phường phỏng
theo hình thức làng truyền thống của quê hương những người dân đến lập nghiệp.
Mỗi phường có hoạt động riêng và ở dọc theo bờ đê tạo thành các xóm. Mỗi xóm
đều có cửa đóng lại. Hiện nay người ta vẫn thấy dấu vết thông qua tên phố mà mỗi
phố sản xuất và bán một loại hàng. Mỗi phường đều có 1 ngơi đình và những đền
riêng của mình.
Phố Hàng Đào
Con phố mà chúng ta đang đi là một phố trong khu phố cổ Hà Nội. Phố
Hàng Đào nằm theo hướng bắc - nam, dài khoảng 260m. Đầu phía nam của phố là

quảng trường Đơng Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hồn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố
Hàng Ngang. Phía tây của phố là các nhà mang số chẵn, phía đơng là các nhà mang
số lẻ. Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố.
Hiện nay Hàng Đào là phố một chiều cho các phương tiện giao thông và vẫn được
coi là phố bn bán chính, đặc trưng của người Hà Nội.
Phố Hàng Đào đã có từ lâu đời. Tại Hoa Lư xưa cũng đã có phường Hàng
Đào. Phố Hàng Đào tại thành Thăng Long xưa thuộc phường Đồng Lạc và Đại
Lợi, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương đời Hậu Lê. Phường Đại Lợi tập trung
người làng Đan Loan (Bình Giang, Hải Dương), làng Đình Loan, Đơng Cao (Bắc
Ninh) chun nghề nhuộm tơ lụa có từ thời Trần, Hồ, đến đời Lê đã rất sầm uất.
Các nhà bán vải chủ yếu là bán lẻ. Phiên chợ tơ của phố mở vào ngày mồng 1 và 6
âm lịch hàng tháng.
Theo tôi biết thời Pháp thuộc, phố mang tên là Rue de la Soie (phố bán lụa).
Khi đó dọc phố có lắp đặt đường ray tàu điện bánh sắt chạy từ bờ hồ Hoàn Kiếm đi


vườn hoa Hàng Đậu.Hẳn trong số quý vị đã từng đọc những tác phẩm văn học viết
về tiếng leng keng của tàu điện của đất Hà Thành. Ngày nay đường ray tàu điện
khơng cịn nữa. Cũng vào thời kỳ này mọc lên một số hiệu tạp hoá. Sau thời kỳ này
số cửa hàng chuyên bán tơ lụa cũng hẹp lại dần. Nhiều nhà bán lụa quay sang kiêm
bán cả hàng vải bơng như hiệu Tây đen, có tủ kính bầy hàng, biển hiệu bằng chữ
quốc ngữ, chữ tây. Phố Hàng Đào khơng cịn chun bán tơ, lụa, vải tấm. Các cửa
hiệu tạp hoá bắt đầu chen vào giữa đám cửa hàng vải. Tạp hoá bán ở Hàng Đào
phải là những thứ hàng mới có, hàng mốt mới nhập từ Pari, đó là những cửa hàng
bán mũ da, khăn quàng, cà vạt, mùi xoa, phấn sáp, nước hoa, các đồ trang sức vàng
bạc, vài cửa hàng giầy da, cửa hàng dệt kim, cửa hàng quần áo may sẵn v.v... và
hiện nay thì cũng đủ chủng loại hàng hố trên thị trường chung của khu vực, chủ
yếu vẫn là quần áo may sẵn.
Đối với lịch sử cách mạng cận đại, Hàng Đào có một ngơi nhà đáng lưu ý nhà số 10 trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1907 là trường Đông Kinh
Nghĩa Thục - nhà trường do các sĩ phu yêu nước, tiến bộ lập ra để đào tạo những

con người hữu dụng cho đất nước.
Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, phố Hàng Đào là
chiến luỹ phía nam của Liên khu I.
Ngày giải phóng Thủ đơ (10/10/1954) một mũi của đội qn ta từ bên Gia
Lâm qua cầu Long Biên, tiến vào thành phố, qua phố Hàng Đào giữa một rừng
hoa.
Từ năm 2006, phố Hàng Đào thuộc tuyến phố đi bộ, các buổi tối Thứ sáu,
Thứ bảy, Chủ nhật, phố dành riêng cho người đi bộ, giữa phố có các kiốt bán hàng
thủ công mỹ nghệ, quần áo, hàng tiêu dùng... Hoạt động này được gọi là "chợ
đêm" bắt đầu từ ngày 1/10/2006.
Trong tác phẩm Dư địa chí (thế kỷ 15), Nguyễn Trãi ghi: :“Phường Hàng
Đào nhuộm điều”. Xưa kia phố chuyên nhuộm và bán các loại vải nhuộm đỏ, màu
hồng, màu hoa đào và rất nhiều các màu khác. Ngày nay phố khơng cịn bán vải
nữa mà bán các hàng quần áo, vật dụng, vàng bạc, thủ công mỹ nghệ, hàng cao cấp
và hàng xa xỉ." Ở phố Hàng Đào hiện còn có một số nhà chuyên vẽ truyền thần,
như nhà số 51.
Ca dao cổ có câu nói về phố Hàng Đào:
Ổi Quảng Bá, cá hồ Tây
Hàng Đào tơ lụa làm say lịng người.
Và có câu hát đối
Trên Tràng Thi, dưới lại Tràng Thi
Ai đem nhân ngãi tôi đi đằng nào?
Trên Hàng Đào, dưới lại Hàng Đào
Ai đem nhân ngãi tôi vào Tràng Thi.
NHÀ 38 HÀNG ĐÀO


Ngơi nhà 38 Hàng Đào ngun là đình Đồng Lạc ( đình chợ bán yếm lụa).
Đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 dưới triều đại vua Lê với quy mơ rộng
rãi. Hiện ngơi nhà cịn lưu giữ một tấm bia đá từ năm 1856 . Đình Đồng Lạc thờ

Bạch Mã, Linh Lang, Cao Sơn. Đình cịn là nơi bán các sản phẩm yếm lụa từ thời
Lê. Tuy nhiên do nhiều biến động của lịch sử, do chiến tranh, do xâm thực của
thiên nhiên, do tác động của con người, ngơi đình đã bị tàn phá và hư hỏng nhiều
Vào năm 1941 một gia đình người Việt Nam đã xây dựng lại nhà với quy
mô 2 tầng. Tầng 1 được sử dụng để bán hàng và để ở. Điện thờ được đưa lên tầng
2 và dân chúng có thể đến thắp hươngNăm 1956 nhà nước tiếp thu lại căn nhà này
và đưa gia đình người chủ về ở tại một căn nhà khác cũng ở phố Hàng Đào. Ngôi
nhà được sử dụng để làm cửa hàng Bách Hóa.
Ngơi nhà được chọn cải tạo, bảo tồn trong khuôn khổ hợp tác giữa thủ đô Hà
Nội và thành phố Toulouse. Công việc tu bổ ngôi nhà di sản được triển khan từ
tháng 2 năm 2000. Nằm trong trung tâm phố cổ, trên con đường có rất nhiều người
qua lại ngơi nhà là nơi thông tin địa phương và quốc tế về dự án bảo tồn tôn tạo và
phát triển Phố Cổ Hà Nội, giới thiệu kĩ thuật xây dựng truyền thống cùng với kĩ
thuật tơn tạo hiện đại.
Du khách hỏi: Ngồi đình Đồng Lạc, trên con phố này cịn có di tích nào
khác nữa khơng?
HDV trả lời: Trên phố Hàng Đào cịn có:
• Nhà số 10 là di tích trường Đơng Kinh Nghĩa Thục
• Miếu Đồng Lạc số nhà 31
• Đình Hoa Lộc Thị ở số 90A là đình của những người làng Đan Loan thờ
vọng thành hoàng làng Đan Loan là Triệu Xương và phu nhân Phương Dung, và
ông tổ nghề nhuộm vải xưa, nay bị lấn chiếm gần như khơng cịn.
Bây giờ tơi xin giới thiệu cho q khách về Lịch sử thần thờ tai Đình Đồng
Lạc
Thần Bạch Mã (hay còn gọi là thần Long Đỗ), hiệu là “Long Đỗ Thần Quân
Quảng Lợi Bạch Mã Đại Vương”:Tương truyền rằng, vào thế kỷ IX, viên quan đô
hộ nhà Đường (Trung Quốc) là Cao Biền đắp La Thành. Khi ra ngoài Cửa Đông,
thấy một người lạ trong đám mây ngũ sắc. Biền vốn là đạo sỹ có ý muốn trấn áp.
Đêm, Biền nằm mộng thấy người đã gặp. Người đó tự xưng là Long Đỗ. Cao Biền
đem chiếc búa bằng đồng đi chơn yểm. Đêm sau nổi mưa gió. Sáng ra thấy chiếc

búa đồng bị đánh tan như cát bụi. Biền sợ và lập đền thờ. Năm 1010, khi Lý Thái
Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành, thành mới đứng vững. Thần
được Lý Thái Tổ phong làm Thành hoàng của kinh thành Thăng Long. Thần Long
Đỗ, tức Thần núi “Rốn Rồng” cũng gọi là núi Nùng (hiện nay nằm trong Thành cổ
Hà nội) Tương truyền núi có khe thơng sâu xuống đất, tiếp nhận khí thiêng sông
núi. Trong văn bia “Trùng tu Bạch Mã miếu bi ký” có niên đại Minh Mệnh nguyên
niên (1820) cho biết: “ Ngài là vị Thành hoàn cả kinh thành Thăng Long... Thần


một mơn, một ấp đều được tơn kính, huống đây là vị thần chủ tể một khu vực ngàn
dặm, được hàng trăm đời vua cúng tế. Các công lao ban phúc cho đất nước, giúp
đỡ nhân dân, trong đó, cả đô thành và lân ấp được nhờ cậy.
Thần Linh Lang
...Vào đời Lý Thánh Tơng trị vì, ngài là bậc đức rộng tài cao, có đức độ của
bậc minh qn. Vì thế thiên đế cho bậc kỳ tài giáng sinh, hoàng gia sinh ra bậc
thánh nhân. Truyền rằng bấy giờ ở giáp Đơng Đồi, xã Bồng Lai, huyện Từ Liêm,
phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây, có một gia đình họ Nguyễn tên là Thực lấy bà họ lê tên
là Năng. Vợ chồng ơng Nguyễn vốn là gia đình hào phú, ơng bà hiền lành chất
phác. Một hơm bà nằm ở phịng lan, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng nhiên trông thấy
một con rắn mây đuổi theo mặt trăng.
Bà nằm ngửa lên nhìn, bỗng nhiên thấy mặt trăng sa vào vào đúng miệng.
Bà bàng hoàng tỉnh giấc đem những điều thấy trong mộng mị đến nói lại cho ơng
nghe. Ơng Nguyễn nói: điềm lành thấy trong giấc mộng, chắc hẳn trời cho ta sinh
quý nữ.
Được một trăm ngày sau quả nhiên bà có thai. Sau đó bà sinh được một
người con gái (sinh ngày 18 tháng 3 năm Quý Sửu) phong tư yểu điệu, mắt phượng
long lanh, mặt ngọc phương phi, sắc đẹp có thể sánh với Hằng Nga, mơi son má
phấn, thân hình rất đượm sắc xuân, tên nàng là Hạo. Năm nàng lên 3 tuổi cha nàng
mắc bệnh hiểm nghèo rồi mất, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng 9. Bà mẹ làm lễ chôn
cất, rồi cư tang vừa đủ ba năm. Bà mẹ nàng có một người dì lấy chồng ở phường

Thị Trại, Thành Thăng Long (phường này nằm trong địa giới huyện Vĩnh Thuận,
sau phường đổi tên là trại Thủ Lệ), gia đình bà dì là người hào phú, sống về nghề
bn bán tơ lụa, vải vóc. Hai mẹ con bà liền dắt nhau đến ở cùng với bà dì ở
phường Thị Trại, cùng bn bán sinh sống ở đấy.
Được hơn 10 năm, bấy giờ nàng Hạo vừa đầy mười bảy tuổi, một đóa hoa
đào mười phần xuân sắc. Nàng có vẻ đẹp khiến chim sa cá lặn ngọc thẹn hoa hờn.
Công dung ngôn hạnh, tứ đức kiêm tồn, song cung thềm cịn đương khố, ngọc
nhuỵ chính đương phong kín. Một hơm vua Lý Thánh Tơng ngự giá tuần du ra
vùng ngoại thành nhân dân náo nức đến xem. Bấy giờ nàng Hạo cũng đến xem
đứng ở bên trái đường. Nhà vua thấy có dung nghi nhan sắc tốt tươi, nghĩ rằng
người thường không thể như thế được. Nhà vua rất quý mến liền sai sứ thần đến
hỏi, rồi đón về cung, ban thưởng cho bà mẹ 100 nén vàng. Vua Lý Thánh Tơng
cho đón nàng về phủ, lập làm đệ cửu cung phi. Vua vô cùng yêu quý nàng, lại cho
lập một cung điện ở ngay tại đất phường Thị Trại (vùng đất này là phần phải của
mảnh đất Thăng Long, một phiến rồng uốn lượn chầu về tổ đứng ở chỗ đất này.
Nhà vua cho phép vùng này là đất Thủ Lệ sở tại. Từ đó họ hàng quý hiển hương ấp
vinh hoa. Được ba bốn năm bà mẹ mắc bệnh rồi mất ở phường Thị Trại.
Hơn hai năm sau, một hôm bà ra bờ Hồ Tây giặt lụa và tắm rửa để chuẩn bị
vào cung hầu vua, bỗng nhiên một con giao long từ ngoài hồ sâu lao thẳng vào chỗ
bà cung phi đang tắm, giao long quấn chặt lấy thân bà ba vòng, phun rớt rãi ra đầy


người, có mùi thơm nức. Lát sau giao long lao ra giữa hồ phun nước thành mây
ngũ sắc bay thẳng lên không trung, giao long lặn biến mất. Bà cung phi bàng
hoàng sợ hãi vội vã quay trở về, khiếp sợ đến sáu ngày sau khơng dậy nổi. Từ đó
bà có mang. Khi bà mang thai được 14 tháng, một hôm bà ngồi chơi ở vườn hoa,
bỗng nhiên mơ màng ngủ thiếp đi chợt mơ thấy một bậc đại trượng phu, mình dài
chín thước, đầu đội mũ rồng sáng chói, mình mặc áo bào đai ngọc rõ ràng cưỡi
mây đạp mưa đến thẳng trước mặt bà cung phi thưa rằng: “Thần vốn là con trai
Long Vương tên là Hoàng Lang, có lệnh cho xuất thế thác sinh làm con vua”. Nói

chưa hết lời cung phi tự nhiên tỉnh giấc, hơm ấy là ngày 13 tháng 12 năm Giáp
Thìn, bỗng nhiên thấy một trận cuồng phong nổi lên, trời đất tối tăm mù mịt, gió
thơm ngào ngạt ở trong phịng lan khí lành rực rỡ ở buồng sản cho đến giờ ấy cung
phi sinh ra một cậu con trai. Đứa bé mắt phượng, cổ rồng, mày hùm, hàm én, hình
dung to lớn, thể mạo khơi kỳ, sau lưng có 28 tinh tú, giống hệt như vẩy kỳ lân, ước
bụng có ngơi sao bắc đẩu, có chuỗi ngọc phân ra như hình diệu, sinh được 7 ngày
nhà vua dựa theo mộng - triệu mà đặt tên là Hồng Lang. Sau đó một tháng, bỗng
nhiên có giặc Trinh Vĩnh ở phương Bắc nổi loạn kéo đến ngàn vạn hùng binh âm
mưu xâm chiếm đất nước. Quân giặc kéo đến như sấm động, làm rối loạn cả kinh
sư, thế nước nghiêng ngả. Quần thần đều bó tay, ai nghe thấy tin đều khiếp sợ. Nhà
vua rất lo sợ, bèn cho lập đàn trai giới cáo tế thiên địa, lại truyền cho các quan đi
cầu đảo bách thần ở các đền thờ thượng đẳng tối linh (Bây giờ ở xã Bồng Lai có
hai đền là Linh Hựu và Yến Minh) để xin các thần âm phù giúp nước đáng giặc.
Lập đàn cầu tế vừa được ba ngày, trời đất tối tăm mù mịt, đêm hôm ấy nhà vua ngự
ở cung Thái Hồ. Bấy giờ gió mưa nổi lên, nhà vua mơ màng ngủ thiếp đi, bỗng
nhiên nghe thấy tiếng đọc thơ rõ ràng như rót vào tai.
Thế nước gieo neo có thánh tài
Vận trời đã định há lo hoài
Nếu cầu người giỏi nơi phường Trại
Giặc Vĩnh Trinh kia chết chẳng sai.
Nghe xong tiếng ngâm tụng, nhà vua chợt tỉnh giấc, biết đó là giấc mộng.
Nhà vua nghĩ rằng những điều thấy trong giấc mộng chắc là thiên địa quỷ thần báo
cho biết, bèn sai quan đi cầu cứu anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, xem ai là người
tài giỏi có mưu lược phá được giặc, ắt sẽ trọng thưởng. Khi ấy Hoàng Lang ở đất
Thị Trại nghe tiếng quan rao, Hoàng Lang nhổm dậy tự nhiên cất tiếng gọi mẹ: “xá nhân đi rao có việc gì vậyx?”. Bà mẹ rất đỗi ngạc nhiên liền nói:
“Nay nước nhà có giặc Vĩnh Trinh đến xâm chiếm kinh đơ, sinh dân lầm
than, triều đình bó tay, thế nước nghiêng ngả. Do vậy nhà vua sai xá nhân đi rao
cầu tìm người tài giỏi trong thiên hạ về giúp nước. Con còn thơ dại chả nhẽ lại
muốn đi đánh giặc để đền báo nghĩa vua tôi hay sao mà lại hỏi thế? Hoàng Lang lại
giục mẹ mau mau mời xá nhân vào nhà. Bà cung phi lây slàm lạ liền sai gia nhân

mời xá nhân vào cung phủ. Hồng Lang nói với xá nhân rằng:
Ngươi hãy mau mau về báo với nhà vua xin sắm sửa cho ta một lá cờ lớn dài
10 thước và một con voi rồi mang lại cho ta ngay đủ để một mình ta phá giặc, xin


nhà vua đừng có lo ngại gì cả. Xá nhân nghe nói bàng hồng quay trở về, tâu lại
với nhà vua. Nhà vua hết sức vui mừng, ngay ngày hôm ấy liền sai làm một lá cờ
dài mười thước. con voi lớn cùng 5 ngàn binh lính chiêu mộ được đưa đến phường
Thị trại làm gia thần”.
Ở Thủ Lệ tuyển chọn được 12 người. Bấy giờ ở phường Thủ Lệ có Lê Cơng
Bảo làm tì tướng hành khiển ln ở hai bên tả hữu đốc thúc gia thần để tử ở Thủ
Lệ theo giúp Hoàng Lang hai bên tả hữu. Các họ Đinh, Nguyễn, Đặng, Trương
cùng đều theo giúp.
Thế là Hồng Lang liền nghiêng mình lắc mạnh, thân hình bỗng nhiên cao
lớn đến chừng chín thước tay cầm lá cờ lớn 10 thước nhảy lên lưng voi con voi liền
qùy xuống đỡ lên. Hoàng Lang liền vung cờ thét lớn:
- Ta là thiên tướng.
Con voi lồng lên chạy như bay vút một cái lao như tên bắn đến thẳng đồn
giặc, đánh một trận lớn, trời đất tối tăm mù mịt. Hồng Lang cưỡi trên mình voi,
tay phải cầm cờ vẫy mạnh, chỉ vào đám giặc. Tướng giặc Vĩnh Trinh sợ hãi ngã lăn
ra.
Dẹp yên giặc giã, Hoàng Lang trở về triều báo tin thắng trận, ngày hôm ấy
tức ngày 12 tháng 9 cho mở yến tiệc lớn ăn mừng. Sau đó nhà vua thưởng cơng
cho các tướng sĩ cơng thần.
Sau đó nhà vua có ý muốn nhường ngơi cho Hồng Lang. Hồng Lang một
mực từ chối khơng chịu nhận. Bấy giờ Hoàng Lang bỗng mắc phải bệnh đậu mùa,
suốt ba tháng không sao chữa khỏi được. Tất cả các bậc lương y trong cả nước hễ
người có phương thuốc hay đều được mời đến, song ai nấy đều bó tay nhìn nhau
khơng có cách nào cứu chữa được. Nhà vua ngự tới cung của Hoàng Lang, đến tận
nơi ngài nằm thấy bệnh đậu mùa rất nặng biết khó lịng qua khỏi bèn nói:

Nếu như khanh phải là con ta thì bệnh đậu mùa dù nguy nan tới đâu cũng có
thể tự khỏi được cần gì phải đi cầu các bậc lương y thuốc tốt.
Hồng Lang nghe thấy nhà vua nói như vậy bèn nói rằng: Thần vốn khơng
phải con nhà vua mà là con của Long Quân thác sinh vào làm Hoàng Tử do thấy
thế nước gian nguy. Vậy vâng theo thiên mệnh, thần thác sinh vào hoàng gia để
giúp nước dẹp giặc, nay giặc giã đã dẹp yên, thần xin được về thuỷ quốc. Hoàng
Lang xin được phong thưởng ở đất Bồng Lai là quê hương mẹ thần, xin cho dựng
một đền thờ để sau này thần và mẹ thần đều được hưởng phúc một nơi. Sau khi
ngài hoá nhà vua lệnh cho bách quan và đất Thủ Lệ tu sửa lại hai nơi, nơi thờ chính
ở Thị Trại (Thủ Lệ T), một đền thờ ở quê mẹ ở Bồng Lai. Truyền cho nhân dân các
nơi, hễ nơi nào có lá cờ bay đến là phải lập đền thờ cúng, tất cả 269 nơi thờ.
Người đời có thơ rằng:
Sinh làm Hoàng tử, chết làm thần
Thờ cúng rõ ràng lại cách tân
Thị Trại ngàn năm danh tích đó
Tây Hồ mn thủa nước trong xanh.


Các đời Trần, Lê đức thánh Hoàng Lang đều rất linh ứng, phò nước, giúp
dân dẹp giặc ngoại xâm nên đều được bao phong mỹ tự, sánh cùng trời đất, mn
thủa lưu truyền. Các ngày lễ, tết sinh, hố, khánh hạ và tên huý, tên hiệu cùng với
tên huý của cha mẹ các màu sắc tế lễ cần phải nghiêm cấm. Ngày sinh của thần 13
tháng 12, ngày hoá 10 tháng 2. Thánh mẫu sinh ngày15 tháng 3, hoá ngày 12 tháng
8, ba chữ: Linh, Lang, Hạo đều cấm kỵ. Các màu sắc vàng, tía, trắng khi làm lễ
khơng được dùng. Một số tài liệu khác cho biết Hoàng tử Linh Lang là thái tử
Hoằng Chân có cơng giúp vua Lý dẹp giặc Tống. Một số sách sử cũ của Trung
Quốc có viết về thái tử Hoằng Chân cùng Chiêu Văn trong một trận phục binh
quân Tống đã hy sinh. Như vậy có thể coi Linh Lang Vương là một người có thật,
người có cơng dẹp giặc cứu nước.
Thần Cao Sơn:

Sơn thần Cao Sơn Đại Vương, một nhân vật quan trọng trong hệ thống thần
điện của người Việt cổ. Thần Cao Sơn Đại Vương được thờ rất nhiều trong khu
vực đồng bằng Bắc Bộ, nơi tụ cư của người Việt cổ, từ Hải Dương, Sơn Tây, Hưng
Yên, Hà Nội đến Bắc Ninh... Vùng đất này là địa bàn khai sáng của Đức Lạc Long
Quân từ mấy nghìn năm nay. Nằm trong hệ thống thần thoại về thời dựng nước và
giữ nước đầu tiên, truyền thuyết về Cao Sơn Đại Vương rất phong phú và ngày
càng được lịch sử hoá. Sớm nhất có lẽ là truyền thuyết cho rằng thần Cao Sơn là
con Lạc Long Quân và bà Âu Cơ và là một trong 50 người con theo cha lên núi.
Sau đó Cao Sơn trở thành bộ tướng thân cận của Sơn Tinh (tức Thánh Tản Viên),
và đã từng cùng Sơn Tinh chống lại Thuỷ Tinh và thủ lĩnh của tộc người Âu khi họ
tấn công nhà nước Văn Lang. Do có cơng với nước nên về sau, Cao Sơn được thờ
là vị thần thứ hai trong đền Núi Tản. Sang thời Lê khi nhà nước phong kiến coi
việc ban sắc phong cho các thần hoàng là một việc quan trọng, thường xuyên để
quản lý tư tưởng của cộng đồng làng xã, thì các bản thần tích của làng thần cao
Sơn đã được nhân cách hoá với tên gọi và quê qn cụ thể. Đó là xu hướng lịch sử
hố các nhân vật huyền thoại được diễn ra rất phổ biến dưới thời Lê. Đa số các
truyền thuyết cho rằng: Cao Sơn có tên là Nguyễn Hiền và người em ruột là
Nguyễn Sùng (tức thần Quý Minh) đều là con người cháu ruột của thần Sơn Tinh.
Họ là người trang Thanh Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú. Khi Thuỷ Tinh
đem quân đánh Sơn Tinh và Tộc Âu vây đánh nhà nước Văn Lang của Hùng
Vương, thần Cao Sơn đã có công lớn cùng với Sơn Tinh chiến thắng thuỷ tặc, bảo
vệ nhà Hùng.
Đầu thời Lê Trung Hưng, thần Cao Sơn Đại Vương được nhà nước phong
kiến đặc biệt đề cao. Nguyên do của sự kiện này là bởi thần đã có cơng phù trợ vua
Lê giành lại ngai vàng, dẹp yên nạn chuyên quyền của ngoại thích. Sự kiện lịch sử
trên đã được quan Quang Tiến Thân Lộc Đại phu, Thiếu bảo, Thượng thư Bộ Lễ,
Đông các Đại học sĩ trông nom việc kinh điển của nhà Lê là Lê Tung soạn vào
năm Canh Ngọ niên hiệu Hồng Thuận thứ 33 (1772) dựng tại đình Kim Liên - một



trong tứ trấn của Kinh thành Thăng Long (đình Kim Liên nay thuộc phường
Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội).
Theo tấm bia “Cao Sơn Đại vương thần từ bi minh tích tự” thì lúc bấy giờ
Lê Mẫn (tức Uy Mục Đế) thất đức, hung bạo, càn rỡ. Kẻ ngoại thích chuyên
quyền, bọn nội gián can dự vào chính sự khiến cho hàng triệu thường dân bị khốn
khổ, tông thất và phiên thần bị giết hại, thần oán, người giận mà không biết. Tháng
11 năm Kỷ Tỵ, đức vua Lê Tương Dực lánh nạn vào Tây Đô, dấy nghĩa binh khôi
phục cơ nghiệp của vua Cao Tổ (Lê Lợi) cứu vớt triệu dân.
Bấy giờ có các vị thân thuộc của Trường Lạc điện (chỉ vợ của Lê Thánh
Tông) phụng mệnh đem quân đi chinh phạt, khi đến huyện Phụng Hoá, thấy giữa
cảnh núi rừng rậm rạp có ngơi đền cổ có 4 chữ “Cao Sơn Đại Vương”. Bon Văn
Lữ bèn cầu khấn mong thần trợ giúp để hoàn thành nghiệp lớn. Do được thần Cao
Sơn ngầm giúp nên chỉ trong 10 ngày việc lớn đã thành. Sau khi lên ngơi Hồng
đế, Lê Tương Dực đã cho xây lại đền thờ và thần Cao Sơn được triều đình nhà Lê
đặc biệt coi trọng.
Kết quả nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy ý nghĩa nguyên mẫu của Cao
Sơn Đại Vương là tục thờ Thần Núi rất phổ biến ở nước ta. Với sự phát triển của
từng giai đoạn lịch sử dân tộc, nhân vật huyền thoại: Thần Núi được lịch sử hoá để
phù hợp với cuộc sống hiện đại. Tuy sự tích vị anh hùng văn hoá Cao Sơn đã được
các sử gia phong kiến cố định vào cuốn thần phả cấp cho các làng, song ở mỗi
vùng quê ở vào từng thời điểm lịch sử cụ thể và có một cơ sở văn hố, xã hội làm
nền cho một mơ típ thần thoại ra đời có khác nhau nên sự khác biệt trong truyền
thuyết Cao Sơn ở các địa phương cũng là điều dễ hiểu.
*)Hiện nay, đình được nhà nước cơng nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Căn
cứ vào nội dung lịch sử ngơi đình, căn cứ vào những dấu tích hiện cịn và đặc biệt
căn cứ vào tấm bia đá hiện cịn ở đình đã ghi chép ta có thể xác định niên đại khởi
dựng của ngơi đình là từ thời Lê (thế kỷ thứ XVII).
Nội dung được khắc trên bia đá như sau:
Phiên âm:
Quyến yếm thị đình sáng thỉ ư cố Lê hiện chủ Nguyễn Công Trung hoà nhụ

nhân Nguyễn Thị từ Thiết, quy chế khai hoằng. Huỷ ư binh hoả, hậu nhân Hà Đình
Nguyễn Cảnh Thê mưu trùng tu chi, uỷ Trần Hợp Tài, Nguyễn Bá Lân đổng kỳ sự.
Đồng Lạc phường nhân Dương Nghĩa Hợp, hỷ trợ duyên tiền nhất bách quan, nản
thị nhân tư đầu đào chi nghĩa hợp bảo kỳ thứ tử Lương Văn Tín tự Dỗn Tái hiện
Nhã giản tịng tự dĩ chiêu hậu đạo. Viên khắc vu thạch dĩ thọ kỳ truyền.
Tự Đức Bính Thìn quế nguyệt ký vọng.
Ngun Khối Châu phủ phân phủ cử nhân Phạm Đình, Viên soạn.
Dịch nghĩa:
Đình chợ bán yếm lụa do Hiệu chủ Nguyễn Công Trung và vợ là Nguyễn
Thị Từ Khiết xây dựng từ đời Lê, quy mơ rộng rãi. Nhưng vì chiến tranh, đình bị
phá huỷ. Về sau ơng Hà Đình Nguyễn Cảnh Thê đứng ra lo việc trùng tu lại ngơi
đình, trao cho ông Trần Hợp Tài và Nguyễn Bá Lân trông nom xây dựng. Người ở


phường Đồng Lạc là Dương Nghĩa hợp vốn thích làm việc công đức đã cúng 100
quan tiền kẽm để chi dùng vào việc chung. Bản chợ nghĩ đến tình nghĩa “biếu đào
tặng mận” đã cùng nhau hội họp bầu con thứ của ơng là Lương Văn Tín tên tự là
Dỗn Tái tên hiệu là Nhã Giản được tòng tự lại đình để tỏ rõ đạo trung hậu.
Bèn khắc vào bia đá để truyền lại mãi cho đời sau.
Sau rằm tháng 8 niên hiệu Tự Đức Bính Thìn (1856)
Ngun phân phủ Khối Châu cử nhân Phạm Đình Viên soạn văn bia.
Đình Đồng Lạc đã bị phá huỷ trong thời gian chiến tranh, bên cạnh đó ngơi
đình cũng đã được tu sửa nhiều lần vì vậy kiến trúc của ngơi đình khơng còn
nguyên vẹn như thời kỳ đầu xây dựng mà chỉ được nhìn thấy qua những dấu tích
cịn lại hiện nay. Xin miêu tả kiến trúc hiện nay của đình Đồng Lạc.
Nhìn tổng thể đình Đồng Lạc (đình chợ bán yếm lụa), số 38 Hàng Đào là
một trong những ngơi đình đặc trưng trong hệ thống kiến trúc tơn giáo tín ngưỡng
của khu Phố cổ Hà Nội. Đoàn chúng ta sẽ cùng đi tham quan ngôi nhà để hiểu rõ
hơn về kiến trúc của Đình.
Thửa đất được chọn để xây dựng đình có dạng hình ống “đi chuột” vì mặt

bằng dạng “thót hậu”, mặt tiền có chiều rộng 6m và phần trong cùng thót lại cịn có
1, 1m. Diện tích khu đất là 188, 9 m2. Chiều sâu là 51,65m. Trong quan niệm về
phong thủy Việt Nam thì mảnh đất thót hậu ít được chon để xây dựng nhà cửa,
ngược lại người việt có xu hướng chọn mảnh đất “khống hậu”, để hi vọng việc
làm ăn của mình sn sẻ.
Mặt bằng bố cục theo nguyên tắc nhà ống truyền thống phố cổ Hà nội:
Như vậy, không gian kiến trúc của ngôi nhà được phân chia bởi từng lớp
nhà, giữa các lớp nhà có sân trong. Các sân trong có ý nghĩa để cải tạo sự tiện nghi
cho ngôi nhà về thông gió là lấy sáng. Đây là một trong những ưu điểm lớn trong
việc bố cục không gian nhà truyền thống Việt nam nói chung và của khu Phố cổ
Hà Nội nói riêng trong việc thích nghi và phù hợp với điều kiện khí hậu địa
phương.
Cổng ngồi của ngơi đình được xây bằng gạch cao 6, 1 mét, rộng 6 mét. Mặt
trước và mặt sau cổng đắp nổi chữ Hán tên của ngơi đình (Đồng Lạc đình). Thân
trụ hai bên đắp gờ nổi, đỉnh trụ xây trang trí hình bơng sen. Mái cổng được gia cố
và sửa chữa trên cơ sở hiện trạng.
Lớp nhà 1 và 3: qui mô xây dựng 2 tầng, là phần nhà được xây dựng cải tạo
mới, hình thức kiến trúc mặt đứng hài hồ với khơng gian cổ về chiều cao, chi tiết
trang trí kiến trúc cũng như về mầu sắc và chất liệu của vật liệu xây dựng. Kết cấu
của 2 lớp nhà này sử dụng là kết cấu bê tông cốt thép, sàn lát gỗ. Kết cấu mái vẫn
được sử dụng kết cấu vì kèo gỗ, mái lợp ngói ta. Cửa đi và cửa sổ gỗ được thiết kế
theo hình thức kiến trúc phỏng cổ.
Chiều cao của 2 nhà mới xây thấp hơn so với nhà hiện có (phần đình), vừa
để tạo hình ảnh “mái ngói lơ xơ” cũng như thể hiện tính tơn linh với ngơi đình hiện
có.


Lớp nhà 2: đây là phần thờ chính của ngơi đình được cải tạo ngun trạng
trên cơ sở ngơi đình đã được cải tạo lần cuối cùng năm 1941. Diện tích là 27,6 m2;
qui mơ 2 tầng. Tầng 1 trước khi cải tạo là nơi ở của gia đình sinh sống tại đây.

Hiện nay được sử dụng là phòng làm việc của Ban quản lý Phố cổ Hà Nội. Tầng 2
của lớp nhà này là gian thờ còn lại của ngơi đình.
Kết cấu của ngơi nhà này là kết cấu gạch chịu lực, các trụ cột tầng 1 được
trang trí hình thức ảnh hưởng kiểu kiến trúc thuộc địa Pháp. Tầng 2 là cột, dầm và
sàn gỗ với hệ thống kết cấu mái là vì kèo gỗ
Trên thân trụ tường gạch ở tầng 1 và tầng 2 đắp nổi bằng vôi vữa câu đối
chữ Hán. Đặc biệt trên dầm cột tầng 2 có trang trí 2 đầu rồng, đây là dấu tích cịn
sót lại của kiến trúc xưa của ngơi đình.
Đốc mái đình khắc hàng chữ Hán năm trùng tu ngơi đình “Ngày mùng 10
tháng 7 năm Tân Tỵ niên hiệu Bảo Đại 15 (1941)”
Từ lớp nhà 1 đi theo hành lang nhìn sang bên phải là tấm bia đá khắc chữ
Hán có niên đại hiệu Tự Đức Bính Thìn (1856) ghi việc đình được xây dựng từ
thời Lê (thế kỷ thứ XVII) được gắn trên tường. Đây là dấu tích cịn lại để minh
chứng cho sự tồn tại của ngơi đình trong lịch sử phát triển của khu Phố cổ Hà Nội.
Khơng gian của phần thờ chính ngơi đình trên tầng 2 được chia làm 2 không
gian nhỏ ngăn cách bởi vách ngăn gỗ 3 cửa với hình thức trang trí cửa được tìm
thấy trong ngơi đình cũ, kiểu thượng song hạ bản. Phía trên là ơ thống trang trí
bằng các con tiện gỗ chạy suốt chiều rộng cửa. Gian ngoài được gọi là hiên dùng
làm nơi tiếp khách, uống trà có đặt một bộ trường kỷ. Gian trong (phía sau lớp cửa
gỗ) là gian thờ chính. Sát tường hậu của gian thờ đặt một hương án gỗ, trên đặt đồ
thờ tự gồm bát hương, khay đài, quả nước.
Nhìn chung, do nhiều tác động của yếu tố lịch sử, xã hội nên kiến trúc đình
Đồng Lạc khơng cịn nhiều, song lại thuộc đặc trưng chung của hệ thống đình thờ
trong khu vực Phố cổ Hà Nội. Các di vật và nghệ thuật trạm khắc không nhiều,
nhưng đều là sản phẩm đặc trưng của nghệ thuật thời Lê.
Kính thưa quý khách trải qua một thời gian dài tồn tại, vì những lý do riêng
mà đình Đồng Lạc hiện nay cịn lưu giữ được khơng nhiều các hiện vật có từ ngày
khởi dựng. Vì vậy, những gì cịn lại liên quan đến gốc cũ của di tích như một số
chi tiết trang trí đầu rồng ở các thanh dầm trên cửa, ban thờ sơn son và đặc biệt là
tấm bia đá thời Lê có niên hiệu Tự Đức Bính Thìn (1856) đều rất đáng trân trọng

giữ gìn.
+ Tấm bia này hiện trạng còn tốt, nguyên vẹn được làm bằng đá màu xám,
hình thức đơn giản; trán bia và diềm bia khơng trang trí. Có kích thước 44cm x 54
cm, mặt bia được khắc 8 dịng chữ Hán.
Ngồi tấm bia đá, hiện nay ở đình cịn lưu giữ được một hệ thống hồnh phi,
câu đối được đắp nổi bằng vơi vữa bao gồm:
+Hoành phi mặt trước và mặt sau cổng tam quan:
1. Đồng Lạc quyên yếm đình.
Đình phường Đồng Lạc bán yếm lụa.


2. Đồng Lạc đình.
Đình Đồng Lạc.

+Câu đối:
1. Nhất thánh hiển linh thử thổ thử nhân dân tứ vọng lâu đài tân vũ trụ,
Lịch triều phong tặng tại thượng tại tả hữu ức niên hương hoả cựu giang sơn.
Đức thánh hiển linh ở đất này với dân này, bốn phía lâu dài đều xây dựng
mới.
Các đời đều được phong tặng, ở trên cao hay tả hữu, ức năm vẫn thờ phụng
cùng núi sơng.

2. Thử địa chung anh hoa thảo đình tiền chiêm vũ lộ,
Dữ dân gian lạc gia gia hội thượng mộc thần lưu.
Đất này chung đúc tinh anh hoa cỏ trước sân được thấm hơn mưa móc,
Cùng dân vui vẻ nhà nhà dự hội đều tắm phúc thần ban.
3. Thuần túy dĩ tinh Hồng Lạc chí kim truyền thánh tích,
U minh hợp tán giang sơn tự cổ trọng thần công.
Thuần phác mà tinh tuý từ đời Hồng Lạc đến nay vẫn lưu truyền sự tích
thánh,

ở cõi u minh ln phù giúp sông núi này tự cổ mang nặng công lao thần.
+ Đốc đình ghi năm trùng tu:

Bảo Đại Tân Tỵ thất nguyệt thập nhật.
Ngày mùng 10 tháng 7 năm Tân Tỵ niên hiệu Bảo Đại 15 (1941).
+Ban thờ:
Mặt đứng ban thờ hình thang có chiều rộng trung bình 1, 65 mét, chiều cao
là 1, 3 mét, chiều sâu là 74cm. Ban thờ được sơn son, trang trí trạm trổ hình hoa
mai, ở giữa trạm trổ tứ quý long, ly, quy, phượng.


Hiện nay Ban quản lý Phố cổ Hà Nội đang có kế hoạch sưu tầm thêm những
tư liệu, hiện vật về nguồn gốc cũ kiến trúc ngơi đình, về đồ thờ tự đặc biệt là những
sản phẩm gắn với tên gọi “đình phường Đơng Lạc bán yếm lụa” để giới thiệu cho
khách tham quan được biết thêm về một trong những nghề thủ công truyền thống
cũng như về trang phục cổ Thăng Long xưa.
Có thể nói Đình Đồng Lạc - 38 Hàng Đào là một trong những cơng trình tơn
giáo hạt nhân trong hệ thống các cơng trình tơng giáo tín ngưỡng khu Phố cổ Hà
Nội. Tuy khơng cịn quy mơ như buổi đầu khởi dựng: khơng cịn nhiều di vật như
các di tích tơn giáo cùng loại khác, nhưng nó chứa đựng giá trị lớn lao đối với giá
trị lịch sử văn hố cũng như về kiến trúc đơ thị của khu Phố cổ Hà Nội.
Sự tồn tại của di tích trên mặt bằng khởi dựng ban đầu có niên đại thời Lê
góp phần làm sáng tỏ lịch sử khu phố cổ và lịch sử hình thành và phát triển các
vùng phía đơng và phía tây của khu vực này.
Tài liệu văn bia hiện cịn khơng chỉ xác định niên đại khởi dựng, trung tu của
di tích mà cịn cho biết vào thời Lê, nơi đây là “chợ bán yếm lụa” Cùng với đình
Tú Thị (chợ đình thợ thêu), đình Đồng Lạc là những di tích hiện tồn minh chứng
cho các hoạt động thương mại, hoạt động sản xuất thủ công truyền thống của
Thăng long - Hà Nội. Nơi đây cũng sẽ là một trong những địa chỉ cho việc tìm hiểu
trang phục cổ Thăng Long - Hà Nội của nhiều nhà nghiên cứu.

Thưa quý khách, Đình Đồng Lạc là một trong khơng nhiều di tích được phục
hồi trong khu phố cổ Hà nội, nó được bảo tồn nguyên vẹn cả về mặt bằng không
gian cũng như các chi tiết kiến trúc. Cùng các di tích khác trong khu vực này, đình
Đồng Lạc có bố cục nhà hình ống với cấu trúc không gian chia thành các lớp nhà
bằng các sân trong (bố cục mặt bằng đặc trưng nhà phố cổ Hà Nội). Bên cạnh đó
qui mơ nhà 2 tầng và đưa hệ thống thờ tự lên tầng 2 cũng là một trong các yếu tố
cơ bản tạo nên đặc điểm chung của hệ thống di tích trong mơi trường đô thị.
Với cách thức xây dựng đơn giản với nghệ kỹ thuật xây dựng cổ truyền với
các hệ vì kèo gỗ trang trí trạm khắc, kỹ thuật xây tường gạch chịu lực , cũng như
hệ thống dẫm sàn gỗ cùng với sự kết hợp của công nghệ và vật liệu xây dựng ngày
nay. Có thể nói, giá trị về kỹ thuật xây dựng ở giai đoạn lịch sử này đã được gìn
giữ cùng với hình thức kiến trúc đã được sáng tạo ra trên cốt cách của kỹ thuật đã
được sử dụng
Bên cạnh đó các mảng trang trí khắc nổi hoa văn trên ban thờ, các chữ viết
trên hoành phi câu đối, trên tấm bia đá đã mang lại giá trị nghệ thuật đặc trưng và
đánh dấu hình thức nghệ thuật văn hố và trang trí thời nhà Lê thế kỷ XVII.
Ngày nay, ngơi đình vẫn được gìn giữ và bảo tồn là nơi thờ cúng cũng như
thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm về kiến trúc, văn hố và các cuộc hội thảo
nhỏ trong và ngồi nước.
Thưa quý khách, bây giờ đoàn chúng ta sẽ đến tham quan ngơi nhà cổ 87 Mã
Mây- một di tích ko thể bỏ qua trong cụm di tích phố cổ Hà nội.
Phố Hàng Bạc


Phố Hàng Bạc do ơng Lưu Xn Tín được nhà vua cho phép mở lò đúc bạc
thành nén cho triều đình, kéo người trong họ hàng và nguời làng Trâu Khê (huyện
Bình Giang - Hải Dương) ra đây mở phường đúc bạc, thành lập trường đúc ở số
nhà 58 Hàng Bạc. Ngày nay phố này vẫn nổi tiếng với nghề chế tác các sản phẩm
vàng, bạc. Hi vọng lần sau tơi có thể cùng q khách tìm hiểu rõ hơn về con phố
được coi là cổ nhất này!

Nhà hát Chuông Vàng
Nhà hát là một địa điểm dành cho sân khấu cải lương ở Hà Nội. Nhà hát
được xây dựng từ thời Pháp thuộc, nằm trong khu vực trung tâm phố cổ Hà Nội.
Trước đây, nó vốn là rạp Thăng Long, nơi diễn tuồng và chèo. Khoảng năm 1925,
nhà hát truyển sang diễn cải lương nên mang tên Cải lương Hý Viện. Hiện nay Nhà
hát Chuông vàng nằm tại 72 Hàng Bạc, Quận Hồn Kiếm. Nhà hát có 250 ghế
ngồi. Vào các tối thứ bảy và chủ nhật hàng tuần, Đoàn cải lương Hà Nội trình diễn
các tiết mục dân gian và lịch sử Việt Nam.
Phố Mã Mây
Thời xưa là hai phố tên gọi khác nhau: Hàng Mây và Hàng Mã.
Hàng Mây là đất của Giáp Hương Tượng thuộc phường Hà Khẩu cũ, tức là
phần đất giáp Hàng Buồm; đình Hương Tượng ở số 64 phố Mã Mây thờ Nguyễn
Trung Ngạn, cịn có tên là Tử ý Đại Vương. Gọi là Hàng Mây vì ở gần bến sơng,
nơi thuyền bè đậu chở từ miền ngược về các thứ lâm sản: song mây tre nứa bán
cho Hàng Mây và Hàng Mã; gỗ đem lên Bè Thượng; vỏ gió củ nâu đưa lên phố
Thanh Hà. Thời thuộc Pháp, hai phố Hàng Mây - Hàng Mã nơi trên được gọi
chung là Rue Des Pavillons Noirs (phố qn Cờ Đen). Có tên đó là vì năm 1882, ở
Mã Mây những tháng tiếp theo trận Cầu Giấy, quân Pháp bị bao vây ở Đồn Thuỷ
và trong Thành thì qn Cờ Đen hồnh hành ở khắp các phố Hà Nội, một đơn vị
của chúng đến đóng ở phố Mã Mây. Tuy nhiên người Việt Nam vẫn cứ tên cũ mà
gọi hai phố này là phố Mã Mây.
Thời kỳ đầu thế kỷ 20, những thập niên trước và sau chiến tranh thế giới
1914 - 1918, quang cảnh phố Mã Mây vần giữ các hình ảnh một phố cổ của Hà
Nội. Đoạn phố Hàng Mây có những cửa hàng nhỏ bán thứ đồ gia dụng bằng song
mây tre như quang thừng; họ bán những sợi mây sợi song làm ngun liệu. Sau
1920 có một số ít nhà làm đồ hàng như ghế mây bàn mây, ghế xích đu theo kiểu
đặt hàng của khách nước ngoài, thợ là người làng Sơn Đồng học lại được nghề làm
ghế mây theo kiểu hàng Nhật có bày bán ở Bảo tàng khu Maurice Long khu Đấu
Xảo.



Ngày nay qua nhiều biến động của lịch sử, các nghề thủ công truyền thống
cũng như các mặt hàng buôn bán ở phố Mã Mây đã thay đổi nhưng cấu trúc đường
phố cũng như kiến trúc của những ngôi nhà ven đường vẫn cịn giữ được nét truyền
thống của nó như thủa ban đầu.
NHÀ 87 MÃ MÂY
Trước tiên tôi xin giới thiệu với quý khách qua về kiến trúc của nhà cổ Hà
Nội. Xen lẫn với các cơng trình tơn giáo, lịch sử, văn hóav.v. là các cơng trình kiến
trúc nhà ở. Những cơng trình kiến trúc nhà ở chủ yếu được xây dựng vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dựa trên cơ sở nền móng được hình thành từ những thế kỷ
trước. Đó là những ngơi nhà có kiến trúc truyền thống, nhà hình ống và có nhiều
lớp nhà; giữa các lớp nhà có sân để lấy ánh sáng và khơng khí, đây cũng là nơi bày
cây cảnh, uống nước, ngắm trăng. Kết cấu chủ yếu chủ yếu của cơng trình là gỗ,
mái lợp ngói với hệ thống vì kèo gỗ và có nhiều hoạ tiết trang trí.
Nhìn vào những ngơi nhà ở này ta vẫn dễ dàng nhận thấy là những ngôi nhà
ba hoặc năm gian đã có biến đổi đi, được bố trí thành nhiều lớp cách nhau bằng
một sân nhỏ phát triển chủ yếu theo nhu cầu cụ thể cuộc sống một gia đình có
người vợ là tiểu thương hay người chồng là thợ thủ công chuyên nghiệp.
Do yêu cầu về việc buôn bán ở thành thị nên việc mở cửa hàng để bán hàng
ở những nhà có mặt cửa hàng rộng quay ra phố là một vấn đề quan trọng và tất
yếu. Vì vậy, đại đa số các nhà chỉ có bề ngang từ 2m đến 6m, tức là bằng bề rộng
một gian trong ngôi nhà 3 hoặc 5 gian khi xưa, nhưng lại được phát triển mạnh
theo chiều sâu mà vẫn dùng kết cấu mái cũ của nhà dân gian nên không gian mái
sẽ lớn và để tận dụng người ta thường làm thêm những gác lửng leo lên bằng cách
để lỗ sàn và gác một cầu thang một vế với độ dốc 70° đến 75° làm bằng gỗ.
Gác lửng để chứa hàng dự trữ hay kê giường ngủ nên có độ cao không quá
2, 2m. Nếu cần phát triển hơn nữa về diện tích để ở thì họ phát triển theo chiều cao
nhà để thành những tầng nhà hẳn hoi, do đó ta thấy có những nhà chiều ngang chỉ
một vài mét nhưng làm cao đến 2, 3 tầng và có chiều sâu đến vài chục mét. Chính
vì vậy mà nó được gọi với cái tên là “nhà hình ống”. Kiểu kiến trúc đó nhằm đảm

bảo thơng gió và lấy sáng tốt cho các buồng - phòng, lớp trong cùng tiếp xúc với
sân bếp, khu vệ sinh và chỗ ở của người giúp việc gia đình.
Quan hệ nội bộ các phịng đều là quan hệ xun phịng, lợi dụng khoảng
khơng kê đồ sát một mặt tường dọc làm lối đi.
Nhu cầu ở của người dân lúc đó cịn đơn giản, họ chưa cần những khoảng
không gian riêng tư như ngày nay vì vậy việc xun suốt từ khơng gian phịng này
tới phịng khác là đặc trưng nổi bật khơng gian nhà ở trong khu 36 phố phường.
Để thích nghi với cuộc sống gia đình có vợ bn bán hoặc chồng làm thợ thủ
công, người ta vẩy thêm một mái đua ra phố dùng làm cửa hàng buôn bán.


Có thể thấy ở đây khơng gian sản xuất, kinh doanh ngành nghề thủ công đan
xen dưới cùng một mái nhà cùng với không gian ở. Phù hợp với tập quán của
người dân là: ở + sản xuất + kinh doanh bn bán nhỏ.
Các giai đoạn hình thành và phát triển kiểu nhà ở kiêm bán hàng trong khu
Phố cổ Hà Nội (khu “36 phố phường”):
- Nhà xây trước năm 1890 :
Là loại nhà ở cổ truyền thống của khu Phố cổ Hà Nội, loại này có đặc điểm
chung sau:
Đây là loại nhà hình ống, phát triển theo chiều sâu, tường nhà nọ liền kề với
tường nhà kia. Mặt tiền hướng ra phố bề ngang chỉ khoảng 2 mét đến 5 mét và sâu
từ 20 mét đến 60 mét. Bên trong nhà có các sân trong để lấy ánh sáng thơng
thống. Số sân phục thuộc vào chiều sâu nhà thường có phổ biến từ 1 đến 2 sân
trong.
Hình dáng kiến trúc phổ biến là nhà lợp mái.? hai đầu đỉnh mái ngói của
ngơi nhà là hai khối nhơ lên hình chữ nhật, xây bằng gạch gọi là trụ đấu mái.
Tường giữa mái nhà nọ với nhà kia xây gạch cao lên 1, 0 mét đến 1, 5 mét hình
tam cấp để chống cháy lan, chống thấm cho tường, nhà loại cổ nhất đa phần có 1
tầng, hoặc 1 tầng có gác xép nhỏ ở trên để làm kho chứa hàng.
Tường ngồi gác xép thường bịt đặc hoặc có lỗ hoa để thơng thống lấy ánh

sáng.
- Nhà xây từ 1890 - 1930 :
Đến cuối thế kỷ 19, lịch sử Việt Nam đã có những biến đổi rõ rệt và mạnh
mẽ. Nhưng trong khu Phố cổ Hà Nội nhà cửa vẫn còn đủ sức tồn tại, thường của
những thương nhân. Như vậy những ngơi nhà xây trước 1890 có thể coi là nhà cổ
truyền. Nhìn chung những ngơi nhà này được xây dựng vng góc với đường phố.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta và Hà Nội được chọn là trung tâm kinh tế
chính trị cho tồn bộ Đơng Nam Á. Khu 36 phố phường được mở rộng như một
trung tâm bn bán, do vậy loại nhà có cửa hàng được phổ biến rộng rãi, bắt đầu ở
khu Phố cổ, phần lớn là nhà 2 tầng (trong đó 1 tầng dành riêng cho cửa hàng).
Trong nhóm này, một đặc điểm đặc trưng nhất là các cầu thang bằng gỗ hay
gạch cổ thay cho những thang gỗ di động trước kia.
Một số ngôi nhà sử dụng gạch đúc sẵn. Đôi khi bê tông được dùng cho mái
chảy, không gian cổ truyền là như trước nhưng kỹ thuật xây dựng tiên tiến hơn. Nhà xây từ 1931 - 1954 :
Những phương thức xây dựng nhà truyền thống vẫn tương tự như trước,.
-Nhà xây từ 1955 - 1975 :
Do ảnh hưởng của chiến tranh, nhà cửa thời gian này không được phát triển.
Vật liệu vẫn là vật liệu cổ truyền như trước.
-Nhà xây từ sau năm 1975 :
Là những nhà có hình thức kiến trúc cổ truyền được xây dựng, cải tạo theo
hình thức kiến trúc hiện đại trung bình là 2 tầng với sàn bê tông và bất cứ nơi nào


×