Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc tại trường tiểu học lê hồng phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.53 KB, 31 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

MỤC LỤC
I.

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................3
1.

Lý do chọn đề tài.......................................................................................................3

2.

Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài...................................................................................3

3.

Đối tượng nghiên cứu................................................................................................4

4.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu...................................................................................4

5.

Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................4

II. PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................4
1.


2.

3.

Cơ sở lý luận..............................................................................................................4
1.1.

Cơ sở thực tiễn...................................................................................................4

1.2.

Cơ sở lý luận khoa học......................................................................................5

Thực trạng.................................................................................................................5
2.1.

Thuận lợi và khó khăn......................................................................................5

2.2.

Thành công và hạn chế.....................................................................................6

2.3.

Mặt mạnh và mặt yếu........................................................................................7

2.4.

Các nguyên nhân, các yếu tố tác động..............................................................8


2.5.

Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng và đề tài đã đặt ra..........................8

2.5.1.

Khác biệt về ngơn ngữ và văn hóa...............................................................8

2.5.2.

Hạn chế về điều kiện kinh tế và nhận thức của đồng bào dân tộc................9

2.5.3.

Khó khăn của đội ngũ giáo viên.................................................................11

Giải pháp, biện pháp...............................................................................................11
3.1.

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp..................................................................11

3.2.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp..................................12

3.2.1.

Tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em học sinh dân tộc.......12

3.2.2.


Tạo môi trường tâm lý an tồn, thoải mái và tơn trọng..............................12

3.2.3.

Quan tâm đến những khó khăn của học sinh..............................................15

3.2.4. Tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn
luyện ở lớp, ở nhà.....................................................................................................20
3.2.5. Tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán.....................22

1


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

3.2.6. Rèn luyện các thói quen và hành vi văn minh.................................................26
3.5.7. Phối hợp kịp thời với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.......28

4.
III.

3.3.

Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.......................................................29

3.4.


Mối liên hệ giữa các giải pháp, biện pháp......................................................29

Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu....29
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.....................................................................30

1.

Kết luận.................................................................................................................... 30

2.

Kiến nghị.................................................................................................................. 31

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DTTS

Dân tộc thiểu số

HSDTTS

Học sinh dân tộc thiểu số

TCTV

Tăng cường tiếng việt

GDTH

Giáo dục tiểu học


HS

Học sinh

GV

Giáo viên

2


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định vị thế cùng sự bình đẳng giữa các
quốc gia, dân tộc trong cùng khu vực hay trên thế giới là chất lượng nguồn nhân lực. Việc
tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học - kỹ thuật và kỹ năng làm
việc cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong xu thế quốc tế
hố, tồn cầu hố nền kinh tế thế giới như hiện nay là một đòi hỏi khách quan.
Để đáp ứng yêu cầu khách quan ấy, giáo dục - đào tạo là cơng cụ quan trọng bậc nhất,
có ý nghĩa quyết định trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Vai trò quan
trọng của giáo dục - đào tạo thể hiện ở chỗ nó phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực
khơng chỉ trên bình diện xã hội rộng lớn, mà cịn có khả năng tiếp cận đến từng cá nhân, từ
đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trị tạo nguồn trực tiếp về mặt chủ thể cho các quá trình
phát triển kinh tế - xã hội và đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, cơ hội học tập và

nâng cao trình độ của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng nhiều hơn. Đến nay, các tỉnh
miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống tái mù chữ. Tuy nhiên chất
lượng giáo dục của học sinh dân tộc thiểu số nhìn chung cịn thấp so với mặt bằng của cả
nước.
Ở địa bàn huyện KrơngAna nói chung và trường Tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng
tỷ lệ số học sinh dân tộc thiểu số khá cao, đặc biệt tại Phân hiệu Buôn Đrai. Bản thân tôi là
một giáo viên đã nhiều năm gắn bó với nghề, với trường nên tôi nhận thức được rất rõ chất
lượng giáo dục cũng như các điểm hạn chế của các em học sinh dân tộc thiểu số.
Để củng cố và chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng giáo
dục cho các em học sinh dân tộc, tôi chọn nghiên cứu và xây dựng đề tài “ Một số biện pháp
nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc tại trường Tiểu học Lê Hồng Phong”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Xác định được thực trạng về chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất, chất lượng của các em học sinh dân tộc thiểu số của nhà trường.
- Đưa ra được một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho các em học sinh dân
tộc thiểu số trong nhà trường.
3. Đối tượng nghiên cứu

3


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

-

Nghiên cứu một số phương pháp truyền thống, phương pháp mới mà giáo viên nhà
trường đã thực hiện trong quá trình giảng dạy những năm học vừa qua đối với học
sinh trường Tiểu học Lê Hồng Phong, một số hoạt động ngoài giờ lên lớp có liên

quan đến việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh DTTS.
- Học sinh DTTS ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong, chất lượng và hiệu quả đào tạo
của nhà trường trong những năm gần đây, những thuận lợi – khó khăn và điều kiện
dạy học của nhà trường.
- Chất lượng đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
- Thực trạng về cơ sở vật chất của nhà trường, đặc điểm kinh tế và xã hội của khu vực.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số phương pháp dạy và học, những thành tựu trong việc đổi mới
phương pháp dạy học đối với học sinh dân tộc thiểu số ở tất cả các khối từ lớp 1 đến lớp 5
đặc biệt là kết quả của việc nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số của các giáo viên
đứng lớp và các giáo viên bộ môn ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp số liệu về thực trạng chất lượng học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học
Lê Hồng Phong, tổng hợp các số liệu về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất.
- Phân tích, so sánh chất lượng, hiệu quả đào tạo trước khi thực hiện biện pháp và sau
khi áp dụng các biện pháp mới.
- Tham khảo ý kiến của giáo viên và học sinh về những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả
đạt được và những hạn chế khi thực hiện những giải pháp để nâng cao chất lượng
giáo dục học sinh DTTS.
II.PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở thực tiễn
Nâng cao chất lượng học sinh DTTS là một yêu cầu trọng tâm trong đường lối phát
triển giáo dục của nước ta hiện nay. Chính phủ và Nhà nước đã và đang đưa ra nhiều đường
lối, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các em học sinh dân tộc thiểu số được
học tập, được nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo dục tiểu học đối với các em học sinh dân
tộc thiểu số là một nền tảng vô cùng quan trọng để các em tiếp cận tốt hơn với kho tàng tri
thức của nhân loại. Giai đoạn tiểu học sẽ là bước để các em tiếp thu ngôn ngữ Tiếng Việt,
các kiến thức cơ bản và là một bước để các em thay đổi tư duy vốn có về mục đích và ý
nghĩa của việc học tập.

1.2. Cơ sở lý luận khoa học

4


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Giáo dục là hoạt động hướng tới con người, bằng những biện pháp hướng
tới truyền thụ: Tri thức và khái niệm, kỹ năng và lối sống, tư tưởng và đạo
đức. Từ đó hình thành năng lực, phẩm chất, nhân cách, phù hợp với mục đích, mục tiêu, hoạt
động lao động, sản xuất và lối sống xã hội.
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của giáo dục: Là nhằm
đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi:
-

Đảng và nhà nước luôn quan tâm coi trọng công tác dân tộc và giáo dục dân tộc có
đường lối chính sách rõ ràng, pháp luật rõ ràng, các văn bản dưới luật chi tiết cụ thể.

-

Các cấp quản lí ngành Giáo dục luôn quan tâm chỉ đạo sát sao, đặc biệt là chất lượng
giáo dục HSDTTS.


-

Cơng tác xã hội hóa giáo dục ở thôn buôn được nâng cao, các tổ chức đồn thể tham
gia nhiệt tình.

-

Đội ngũ giáo viên nhiệt tình đa số có năng lực và tâm huyết đối với chất lượng giáo
dục nói chung và chất lượng HSDTTS nói riêng.

-

Bản thân sống gần gũi với người dân Ê đê, có hiểu biết về ngơn ngữ, phong tục tập
qn, lối sống, thông thạo địa bàn.

-

Về cộng đồng dân cư đồng bào DTTS và HSDTTS. Ngày nay, hoạt động kinh tế xã
hội, phong tục tập quán, một số nếp sống trong cộng đồng dân cư đã thay đổi theo
hướng tiến bộ làm cho cha mẹ học sinh và HSDTTS xóa bản tính tự nhiên, dựa vào
thiên nhiên mà họ đã có nhu cầu phải học, trước hết là học để biết “cái chữ”.

-

Về cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt và TCTV cho HSDTTS
ngày càng được trường và các cấp quan tâm đầu tư. Đặc biệt là ở 2 điểm trường buôn
Eana và Buôn Drai.

b. Khó khăn:


5


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

-

Có sự bất đồng về ngôn ngữ giữa giáo viên với học sinh; giữa giáo viên với phụ
huynh.

-

Nhận thức và nhu cầu học tập của một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số
cò thấp, tỉ lệ chuyên cần của HSDTTS vẫn chưa cao.

-

Phong tục tập quán, đặc điểm tâm lí, văn hóa dân tộc cũng tác động, ảnh hưởng đến
chất lượng học tập của các em.

-

Đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc Ê-đê ở hai buôn Eana và buôn Drai cịn gặp
nhiều khó khăn cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của các em.

2.2. Thành công và hạn chế
a. Thành công:

-

HSDTTS được huy động đến trường cao. Trường Tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng
và xã Eana nói chung được cấp trên cơng nhận đạt Phổ cập GDTH đúng độ tuổi.

-

HSDTTS có cơ hội học tập và hòa nhập nhiều hơn.

-

Cộng đồng người đồng bào dân tộc đã có thay đổi nhận thức về việc học và nhu cầu
được học.

-

Chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt cho HSDT ngày càng được nâng cao, hầu hết
các em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học, đa số các em có vốn tiếng Việt đủ
để làm phương tiện tìm hiểu kiến thức các mơn học khác.

-

Khi nghiên cứu đề tài này bản thân tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ hợp tác của đồng
nghiệp, HSDTTS và ban tự quản.

b. Hạn chế:
Tuy với sự nỗ lực của thầy và trò, các em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng mơn học
theo quy định nhưng vẫn cịn một số hạn chế cần phải khắc phục:
-


Học sinh hạn chế về hưởng nền giáo dục gia đình và cộng đồng nơi cư trú, có ít cơ
hội được giao tiếp tiếng Việt ở cộng đồng .

-

Phụ huynh chưa tích cực giúp con em mình giao tiếp và sử dụng tiếng Việt.

-

Chất lượng sử dụng tiếng Việt của các em HS DTTS chưa cao.

-

Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Việt – Mường có nhiều đặc điểm khác hẳn so với tiếng Êđê
thuộc ngữ hệ Môn – Khơ Me về cấu trúc, cú pháp, … nên các em HSDT tiếp thu
tiếng Việt rất khó.

6


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

2.3. Mặt mạnh và mặt yếu
a. Mặt mạnh:
-

Bản thân đã nhiều năm phụ trách lớp có tỷ lệ HSDTTS cao, giao tiếp trực tiếp với
HSDTTS và phụ huynh nên nắm bắt được nhiều thông tin phản hồi từ phía gia đình

học sinh.

-

Cơng tác xã hội hóa giáo dục được Cấp ủy và Ban tự quản thơn bn, các tổ chức
Đồn Thanh niên, hội Phụ nữ quan tâm, ủng hộ.

-

Đội ngũ giáo viên được tập huấn đầy đủ về TCTV và có tinh thần tích cực học tập,
bồi dưỡng thường xun; có tình thương u đối với học sinh, ln nhiệt tình, trách
nhiệm trong cơng tác giáo dục HSDT và TCTV cho HSDT.

-

Bản thân sống gần gũi với cộng đồng người Ê-đê, tìm hiểu, học tập được ngôn ngữ,
phong tục tập quán, đời sống của người dân Ê-đê nên thuận tiện nhiều trong việc giáo
dục học sinh dân tộc Ê-đê.

-

Công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục cũng được thực hiện thường xuyên.

-

Trường có giáo viên chuyên dạy tiếng Ê-đê.

b. Mặt yếu:
-


Các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo sự gần gũi giữa giáo viên và các học sinh dân
tộc thiểu số chưa đạt hiệu quả cao.

-

Chất lượng học tập của các học sinh dân tộc thiểu số chưa đạt được kết quả tốt nhất

2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Các nguyên nhân, các yếu tố tác động dẫn đến những thành cơng là:
-

Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước luôn đề cao coi trọng công tác giáo dục
dân tộc.

-

Được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của các cấp quản lí giáo dục.

-

Đội ngũ giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tích cực đổi mới phương
pháp dạy học và trăn trở với chất lượng HSDT.

7


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
-

GV: Thái Thị Luận


Một số tập tục lạc hậu trong cộng đồng dân tộc bị bãi bỏ, điều kiện tự nhiên khơng
cịn ưu đãi cho cuộc sống tự nhiên mà yêu cầu sản xuất, phát triển kinh tế, giao lưu
văn hóa,.. cần phải biết thơng tin, khoa học kĩ thuật cũng là yếu tố tác động khiến
đồng bào DTTS thay đổi nhận thức và có nhu cầu cần phải học.

Nguyên nhân, các yếu tố tác động làm cho chất lượng học tập tiếng Việt của HSDT
còn hạn chế là:
-

Nội dung chương trình học chưa thực sự phù hợp, người dạy thì hạn chế về ngơn ngữ,
văn hóa, tâm lí,… của học sinh nên khó có biện pháp TCTV.

-

Người học cũng học bằng ngôn ngữ thứ hai nên gặp nhiều rào cản.

2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng và đề tài đã đặt ra.
2.5.1. Khác biệt về ngơn ngữ và văn hóa.
Giáo dục ngơn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy
học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là nhiệm vụ
hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học tiếng Việt với tư
cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại dải đất này, các dân
tộc như Jrai, Bahnar... Mục đích của việc giáo dục ngôn ngữ này là nhằm cung cấp cho các
em một công cụ giao tiếp, một phương tiện tư duy, nhanh chóng hịa nhập cộng đồng, cùng
sống dưới mái nhà chung Việt Nam, cùng chung tiếng nói, cùng sử dụng một ngơn ngữ, phát
huy sức mạnh của tồn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng mới. Thế nhưng xét về mặt chất
lượng, hiệu quả giáo dục ngôn ngữ hiện nay ở các tỉnh Tây Nguyên, như Gia Lai, KonTum,
ĐăkLăk vẫn còn thấp.
Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân

tộc thiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự chăm
sóc của vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn
giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm Non đã trang
bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã khơng cịn theo các em bước vào
lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như các em chỉ sử
dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngồi, vào mơi trường giáo dục phổ thơng,
tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy
cô giáo đã khó khăn, và cũng có khi là khơng thể, việc nghe giảng những kiến thức về các
môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến
lớp là các em bước đến một mơi trường sinh hoạt hồn tồn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn
thường trực trong các em, làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.

8


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em,
trường Tiểu học vẫn là một mơi trường hồn tồn mới, tiếng Việt là một ngơn ngữ hồn tồn
xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ
trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản
năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ sử dụng
ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ q ít
ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngơn ngữ mẹ đẻ thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các
cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc họp nào đó ở bn, làng, họ phát biểu bằng tiếng Việt
rất khó khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia
đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các
em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp,

từ đó, đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt
khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.
2.5.2. Hạn chế về điều kiện kinh tế và nhận thức của đồng bào dân tộc.
Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số, tôi nhận thấy rằng, các em học sinh ở
đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo luôn nhắc nhở con người sống trong
cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc, về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân.
Nghèo đã giúp con người ta vươn lên nhưng nghèo cũng làm cho con người ln mặc cảm,
tự ti, bằng lịng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người khơng thể thốt
khỏi những thiếu thốn vật chất, khơng thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học
sinh tiểu học người dân tộc thiểu số nơi đây không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, khơng chỉ
có "ngày hai buổi đến trường", các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa, trồng
ngô,...lo cho cuộc sống vật chất. Nghe những đồng nghiệp tâm sự, rằng "chúng tôi phải vào
tận buôn lùng sục các em, đưa các em đến trường."; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, "Tơi
phải dùng tiền lương của mình để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các
em trở lại trường. Nhưng có lúc cũng khơng thành cơng!",... Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề
là ở chỗ, cái nghèo truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn
từng bữa cịn chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của
các em là vậy! Họ khơng hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thốt khỏi cuộc sống
nghèo khó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng,
số lượng học sinh trên lớp học rất ít. Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng
xin phép giáo viên chủ nhiệm, nhà trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên
trở lại trường khi mùa hái cà phê kết thúc. Giáo viên lại phải nhọc cơng tìm đến tận nhà, vận
động các em đến trường.

9


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận


Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là sự
sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về điều kiện
sống, hồn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu học dân tộc thiểu
số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản ngăn cách hoạt động sống
của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em khó tiếp xúc, hịa nhập cộng
đồng. Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở một
mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối quan hệ
trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hồn cảnh thực tại
nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số phận, làm thui chột
hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số đến trường trong
tâm thế "hèn mọn" đó. Các em cũng đã biết nhìn ngắm những trang phục của các bạn học
sinh người Kinh, nhìn lại trang phục của mình. Nhiều em học sinh đến trường bằng những
đôi dép cũ kỹ, hoặc trong trang phục không lành lặn, hay với những đồng phục bắt buộc
nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với những cuốn tập bị bỏ
quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thần học tiếng Việt của các
em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.
Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em
một mơi trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các em
ý thức học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là điều hiển
nhiên. Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây
dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các em
rất khó tiếp thu bài ở những mơn học khác. Điều này đồng nghĩa với việc kiềm hãm sự phát
triển tư duy ở các em, khó tạo ra một mơi trường giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo
lắng cho mỗi giờ đến lớp, "sợ" phải đến trường. Học tập lúc này là cơng việc q khó khăn
đối với các em. Đối với người dân tộc Ê-đê, không gian sống của họ rất đặc trưng, khơng có
ranh giới giữa khơng gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ khơng có khơng gian sống cá
nhân. Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Ngun. Khơng gian sống đặc
thù này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn hóa, về cội
nguồn. Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở của họ, một

không gian chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy, việc tạo một không
gian học tập cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này đã không tạo điều kiện học
tập cho các em, mà còn làm cho chất lượng học tập của các em ngày càng giảm sút. Đối với
các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia đình hoặc khơng có
khả năng hướng dẫn, hoặc khơng có ý thức trách nhiệm đôn đốc nhắc nhở quản lý, hay do

10


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

hồn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã khơng chú trọng tới việc học của con, em mình.
Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trên một cái nền học vấn nhất định nào đó
của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờ đến sự tận tâm của giáo viên, nhờ vào kế
hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ý thức học tập là đặc tính rất cần được chúng ta xây
dựng cho các em.
2.5.3. Khó khăn của đội ngũ giáo viên
Đa số giáo viên người Kinh giảng dạy đều không biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì
cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không thể so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những
huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về
phong tục tập qn, họ lại càng khơng có điều kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận
với phụ huynh, gia đình các em, khó có thể tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh
giới khơng cần thiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Các giải pháp và biện pháp được đưa ra dưới đây nhằm hướng đến các mục tiêu cơ
bản sau:
- Tạo được sự gần gũi giữa giáo viên và các em học sinh dân tộc thiểu số.

- Xây dựng môi trường tốt nhất về vật chất và tinh thần để các em học sinh dân tộc
thiểu số có điều kiện học tập tốt hơn.
- Tạo điều để các em học sinh dân tộc thiểu số có cơ hội học tập, nâng cao kiến thức
ngoài thời gian học ở lớp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
3.2.1. Tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em học sinh dân tộc
Giáo viên nói chung, giáo viên chủ nhiệm nói riêng muốn có những biện pháp giáo
dục phù hợp với học sinh và có hiệu quả thì rất cần tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng
của học sinh về lớp học. Việc tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh về lớp
học không những giúp giáo viên hiểu rõ hơn về từng học sinh trong lớp mà còn biết được
những mong muốn của các em về tập thể lớp học của mình cũng như hiểu rõ mức độ hài
lòng của học sinh đối với lớp học, đối với từng môn học. Từ đó giáo viên có thể đưa ra
những đề nghị, sự giúp đỡ đối với mỗi cá nhân một cách phù hợp nhất .
Để tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh về lớp học có thể có nhiều
cách khác nhau như trao đổi, trò chuyện, lấy ý kiến cá nhân qua phiếu thăm dò… Để thực
hiện hoạt động này, giáo viên cần chuẩn bị trước các câu hỏi về thơng tin muốn hỏi. Ngay cả
khi có một vài học sinh nào đó khơng sẵn sàng chia sẻ tâm tư, tình cảm thì giáo viên cũng

11


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

không nên ép buộc các học sinh đó phải trả lời. Có thể tìm hiểu về những học sinh này qua
các bạn cùng lớp, cùng địa bàn. Cần kiên trì trong một số trường hợp cụ thể.
3.2.2. Tạo mơi trường tâm lý an tồn, thoải mái và tôn trọng
Môi trường tâm lý thoải mái trong học tập và hoạt động sẽ tạo điều kiện cho HS tham
gia hiệu quả hơn vào bài học và các hoạt động của lớp học nói chung. Nó cịn góp phần kiến

tạo nên một bầu khơng khí tâm lý, tinh thần hài hòa, cân bằng trong lớp học, giúp HS được
làm quen với một “xã hội thu nhỏ” lành mạnh, có văn hóa, có sự tơn trọng và chia sẻ của
mọi thành viên. Điều này khơng chỉ giúp ích cho q trình học tập trong nhà trường, mà cịn
mang lại lợi ích thiết thực về sau khi các em gia nhập cuộc sống của những người trưởng
thành, thực sự tham gia vào môi trường xã hội rộng lớn.
GV cũng thu nhận được nhiều lợi ích nếu cùng HS tạo ra được một mơi trường tâm lí
thuận lợi cho việc học tập, như: dễ dàng hơn trong quản lý hành vi và hoạt động của HS, huy
động được HS tham gia tốt hơn vào quá trình học tập, HS đạt được kết quả học tập tích cực
hơn, xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, giúp đỡ, giúp GV quản lý lớp hiệu quả hơn,…
Về phía nhà trường nói chung, một môi trường học tập thoải mái, tin cậy, và hứng thú
mà các lớp học kiến tạo được sẽ mang lại cho nhà trường một bầu khơng khí sư phạm lành
mạnh, tạo điều kiện lý tưởng nhất cho mọi hoạt động của HS, GV, cán bộ nhà trường cũng
như sự tham gia của phụ huynh HS. Đây chính là một trong những điều kiện cốt lõi để thực
hiện chủ trương “trường học thân thiện, HS tích cực”, làm cho mỗi một ngày tới trường của
cả HS và GV đều là một ngày hứng thú, hiệu quả.
Một số cách thức tạo mơi trường tâm lý an tồn, thoải mái, tin tưởng, tơn trọng trong
lớp học:
- Nỗ lực xây dựng, duy trì lòng tin của HS với GV và với tập thể lớp ngay từ những
ngày đầu tiếp cận lớp học: Lòng tin là một trong những cơ sở quan trọng cho bất kỳ hoạt
động tập thể, hoạt động nhóm nào giữa các cá nhân. Một số GV, do vị trí và quyền lực nhất
định của mình, có thể làm cho HS cảm thấy sợ và nể, nhưng không được các em tin tưởng,
u q, và ngược lại, có những GV hết sức bình thường nhưng ln được các em tìm đến
chia sẻ mọi điều khó khăn, khúc mắc. Vì vậy, có thể nói tạo dựng được lịng tin của HS đối
với mình tức là GV đã xây dựng được nền tảng quan trọng nhất của công việc quản lý lớp
học và kiến tạo bầu khơng khí tâm lý, tinh thần thoải mái, tin cậy trong tập thể lớp. Thiếu sự
tin tưởng ở GV, HS sẽ chỉ thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ GV đề ra vì trách nhiệm hoặc sự
phục tùng mà thiếu vắng yếu tố nhiệt huyết, tình yêu và sự tận tụy đối với công việc được
giao.

12



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Một điều lưu ý đối với GV là mặc dù tạo dựng lòng tin ở HS là khơng dễ dàng, song
nếu để lịng tin đó một lần bị phá vỡ hay sứt mẻ thì sẽ vơ cùng khó khăn để khơi phục lại,
thậm chí là bất khả thi (Trong dân gian có câu: một lần bất tín, vạn lần bất tin). Do vậy, duy
trì sự tin tưởng của HS và bầu khơng khí tin cậy, chia sẻ trong mọi thành viên lớp học là một
nhiệm vụ quan trọng mà GV phải cùng cả lớp thường xuyên nỗ lực để thực hiện trong suốt
quá trình học tập, làm việc cùng nhau.
- Tăng cường mối quan hệ thầy-trò và tạo sự gắn kết, hiểu biết, tin tưởng giữa HS
trong lớp thơng qua nhiều hình thức hoạt động sáng tạo và đa dạng: Mối quan hệ thầy-trò là
một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo nên bầu khơng khí tâm lý của lớp học và có
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của quản lý lớp hcoj. Ngoài hoạt động học tập hàng ngày, trong
điều kiện và hồn cảnh cho phép, GV có thể cùng HS và một số GV khác tổ chức các hoạt
động nhóm nhỏ, trò chơi tương tác, câu lạc bộ, hoạt động ngoại khóa và giáo dục ngồi giờ
lên lớp theo các chủ đề do HS đề xuất hoặc có sự tham gia và gợi ý của nhà trường/phụ
huynh HS,… Qua những hoạt động đa dạng như vậy, GV tạo điều kiện tốt nhất cho HS dần
dần học cách tự quản, tự tổ chức hoạt động của mình; biết liên kết và giao lưu với lớp và
khối lớp khác, trường khác để cùng tổ chức hoạt động chung.
Một số dạng hoạt động khác cũng có thể giúp gắn kết HS và tạo điều kiện cho GV
hiểu thêm về HS của mình, như: thăm gia đình HS, thường xuyên trao đổi với ban cán sự lớp
để có hướng giúp đỡ các HS gặp khó khăn đột xuất hoặc thuộc diện phải trợ giúp thường
xuyên; xây dựng các cặp đơi và nhóm “bạn giúp bạn” về hoạt động học tập hoặc trợ giúp
khó khăn trong cuộc sống hàng ngày; tổ chức các buổi sinh hoạt lớp trong đó HS được “nói
về mình”, thể hiện cá tính, những năng lực, sở trường bản thân hoặc chỉ đơn giản là tranh
luận, đóng góp ý kiến cá nhân về một chủ đề nào đó đang được bàn luận trong lớp/trường/xã
hội, v.v.

- Bản thân GV luôn cư xử một cách tơn trọng, hiểu biết, chan hịa và thân thiện với
HS. Sự gương mẫu của người giáo dục luôn luôn và vẫn sẽ là một trong những phương pháp
sư phạm quan trọng nhất của khoa học dạy học và giáo dục – môn khoa học đặc biệt của con
người và vì con người. Nếu bản thân GV khơng cảm thấy thoải mái, hứng thú mỗi khi bước
vào lớp học, không hành xử gương mẫu như chính những gì mình mong muốn HS phải thể
hiện, thì khó có thể tin rằng GV đó sẽ tạo ra được một mơi trường học tập hứng khởi và bầu
khơng khí tâm lý thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và sự tiến bộ của HS. Sự gương mẫu
địi hỏi GV khơng chỉ cần có chun mơn, có hiểu biết về khoa sư phạm và nghiệp vụ sư
phạm, mà cịn phải có sự nhất quán, đúng mực trong lời nói và hành động, sự ý thức rõ ràng
về tác động, ảnh hưởng của việc làm và ngơn ngữ của mình tới mỗi HS.

13


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

- Cá nhân hóa quá trình dạy học và GD, đặc biệt lưu tâm đến những điểm đặc trưng
về văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh… của HSDTTS. Việc cá nhân hóa hoạt động dạy học và
GD phải dựa trên cơ sở hiểu biết về phong cách học tập của những HS khác nhau cũng như
hoàn cảnh, điều kiện sống của từng em. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh kết quả học tập và
khả năng lĩnh hội kiến thức của HS phụ thuộc một phần đáng kể vào phong cách học tập cá
nhân, như có em học tốt nhất với hình ảnh, biểu tượng, có em lại thể hiện ưu thế với ngôn
ngữ, cách diễn đạt, v.v. Nếu nắm bắt được những đặc điểm này của từng nhóm HS trong lớp,
GV có thể tạo điều kiện tốt nhất cho mỗi em phát triển khả năng, thế mạnh của mình trong
học tập cũng như hoạt động tập thể, giúp các em tự tin và ngày càng tiến bộ hơn.
Bên cạnh đó, những hiểu biết của GV về đặc điểm văn hóa, tinh thần, tín ngưỡng…
của các DTTS trong địa phương cũng sẽ là một thế mạnh giúp GV tiếp cận HS của mình tốt
hơn, quản lý lớp học hiệu quả hơn, tạo được sự tin cậy và chia sẻ đối với nhóm HSDTTS

trong lớp. Việc tìm hiểu này đương nhiên sẽ tốn thời gian và công sức của GV, song hiệu quả
mang lại đối với lớp và với bản thân công tác quản lý lớp học của người GV thì khơng thể
phủ nhận.
- Bài trí, sắp xếp không gian và bối cảnh lớp học theo phong cách thân thiện với
người học, tích cực, sáng tạo. Khơng chỉ đơn thuần là nơi diễn ra các hoạt động học tập hàng
ngày, không gian lớp học tác động không nhỏ tới tâm lý, tinh thần, động cơ và hứng thú học
tập của HS. Bàn ghế trong lớp nên bố trí theo các nhóm với khoảng từ 4-6 người để HS dễ
dàng thực hiện các hoạt động học theo nhóm nhỏ. Bố trí những góc trưng bày nho nhỏ ở
cuối lớp như góc thư viện, góc trị chơi, góc cây xanh, huy động HS tự cung cấp sản phẩm
của mình để trang trí, bày biện cho các góc này, hoặc GV tìm cách liên hệ với các đơn vị
trong trường như Đoàn thanh niên, thư viện trường… để yêu cầu hỗ trợ về nguồn tài liệu.
GV nên hỏi ý kiến của chính HS trong việc bài trí lớp học và tôn trọng nguyện vọng, sáng
kiến, ý tưởng riêng của các em trong sự hài hòa với điều kiện và qui định của nhà trường.
Một không gian lớp học sinh động, hấp dẫn sẽ làm cho HS yêu quí lớp của mình hơn và cảm
thấy vui thích, phấn khởi mỗi khi đến trường.
- Kết hợp việc dạy học hàng ngày với các hoạt động “khởi động”, “thư giãn” nhỏ
hoặc trò chơi đơn giản để tạo hứng thú học tập và tăng cường tinh thần đồng đội, tính hợp
tác cũng như rèn luyện nhiều kỹ năng khác nhau cho HS. Một số thầy cô giáo chúng ta
thường chỉ coi trọng chất lượng giờ giảng dạy trên lớp mà không chú ý nhiều đến những
dạng hoạt động “xây dựng tinh thần nhóm” hoặc mang tính “khởi động”, “thư giãn”, giúp
HS tạo cảm giác thỏai mái, hứng thú trước, trong, hoặc giữa các tiết học. Đó có thể là những
trị chơi nho nhỏ, một vài động tác thể dục vui đơn giản, đôi ba câu đố vui/đố mẹo… được

14


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận


GV hoặc chính HS đưa ra và chỉ cần 5-7 phút để thực hiện. Thời gian đầu, nếu HS chưa
quen, GV chủ động chuẩn bị trước một số hoạt động để tổ chức cho HS. Sau đó, căn cứ vào
năng lực của HS trong lớp, GV có thể cử ra một nhóm nhỏ HS (bao gồm thành viên đại diện
của từng tổ trong lớp) chuyên phụ trách các hoạt động khởi động như vậy của lớp, và các
thành viên của nhóm lần lượt thay nhau tổ chức hoạt động cho lớp.
Những dạng hoạt động này không chỉ giúp HS ‘tái tạo’ lại năng lượng cho việc học
tập, mà cịn có thể làm cho các em thêm gắn bó, đồn kết, nâng cao tinh thần tập thể và kỹ
năng hợp tác nhóm thơng qua sự tương tác cá nhân để giải quyết nhiệm vụ mà các hoạt động
đặt ra. Những hoạt động như vậy nếu được tổ chức thường xuyên chắc chắn sẽ giúp khích lệ
tinh thần chung của tập thể lớp, góp phần tích cực vào việc kiến tạo một bầu khơng khí tâm
lý thoải mái, an toàn, thân thiện cho lớp học.
3.2.3. Quan tâm đến những khó khăn của học sinh
Nếu xem nhà trường giống như một ‘xã hội’ thu nhỏ, thì mỗi một tập thể lớp học có
thể được xem như một ‘tập con’, một cộng đồng thành viên của xã hội lớn đó, và vì vậy mỗi
lớp học cũng hàm chứa những vấn đề, những khó khăn, thách thức mà bất kỳ một cộng đồng
nào có thể gặp phải trong quá trình tương tác giữa các cá nhân. Một trong những vấn đề đó
là việc GV tìm cách quan tâm phát hiện và giúp HS giải quyết những khó khăn, trở ngại các
em gặp phải trong suốt quá trình học tập của mình. Sự quan tâm sâu sắc đối với HS được
đánh giá như một trong bốn yếu tố cốt lõi khắc họa nên chân dung một người giáo viên hiệu
quả . Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh lớp học có sự đa dạng về văn hóa,
bao gồm tồn bộ hoặc một số HS người DTTS với những điểm đặc thù về hồn cảnh sống,
thói quen, và khả năng nhận thức Trong mỗi lớp học, HS có thể gặp phải một hoặc nhiều loại
khó khăn nhất định, như: hồn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế hoặc thiếu sự quan tâm về
tinh thần của cha mẹ; các vấn đề liên quan đến sức khỏe hoặc tình trạng thể chất nói chung
(như khuyết tật, nói ngọng, nói lắp, chứng khó đọc, tự kỷ…); khó khăn về khả năng học tập
và nhận thức, khả năng giao tiếp với người khác; khủng hoảng tâm lý tuổi dậy thì; mâu
thuẫn hoặc xung đột với cha mẹ, bạn bè; gia đình q chăm chút, nng chiều làm cho trẻ
thiếu những kỹ năng sống cần thiết; gia đình tan vỡ, ly tán, …
Với riêng đối tượng HS người DTTS, một số khó khăn đặc thù có thể bao gồm: trở
ngại trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, sự tự ti, mặc cảm tâm lý trong giao tiếp với bạn bè

thuộc cộng đồng đa số, ảnh hưởng của một số phong tục, tập quán và thói quen nhất định
của cộng đồng DTTS

15


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Việc GV phát hiện ra những trở ngại, khó khăn của HS trong lớp và hỗ trợ các em
vượt qua chúng sẽ tạo cho HS có cảm giác được bảo vệ, chăm sóc và quan tâm, giúp các em
có thêm nghị lực vượt khó. Bên cạnh đó, khi được GV chú ý đến những vấn đề khó khăn của
mình, bản thân HS có thêm động lực để cố gắng hơn trong học tập và rèn luyện. Đồng thời,
GV cũng được HS thêm yêu mến, tin cậy để có thể sẵn lịng chia sẻ nhiều hơn những khó
khăn, khúc mắc của mình trong cuộc sống hoặc học tập.
Quan tâm đến khó khăn của HS cịn góp phần giúp GV xây dựng và duy trì được một
tập thể lớp đoàn kết, tương trợ, nơi HS cảm thấy mình là một phần có ý nghĩa của cộng đồng
lớp học và tích cực tham gia các hoạt động chung. Từ đó, từng bước hình thành, củng cố tinh
thần trách nhiệm và ý thức tập thể cho HS. Điều này càng có ý nghĩa đối với nhóm thiểu số
HS dân tộc thường hay mặc cảm, tự ti và ngại giao tiếp trong một tập thể có đơng HS người
Kinh hơn.

Một số cách thức thực hiện việc quan tâm đến những khó khăn của học sinh
- Lập hồ sơ chi tiết của từng HS và thường xuyên cập nhật, bổ sung. Hồ sơ HS ở đây
không chỉ thuần túy là một bản ‘trích ngang’ những thơng tin về hồn cảnh cá nhân, gia đình
của HS như quan niệm truyền thống, mà còn bao gồm cả các sản phẩm trong quá trình học
tập và hoạt động của HS như bài tập/bài thi các môn học, các bản thu hoạch, tranh vẽ sáng
tác, bài thơ dự thi, bài báo tường, các nhận xét của những GV khác về HS, bằng chứng về
việc khen thưởng/kỷ luật, v.v. Túi hồ sơ hoàn thiện của một HS chính là “cửa sổ để quan sát

tư duy và q trình học tập của HS”, mà GV thơng qua đó có thể nhìn rõ hơn bức tranh sinh
động, chân thực về các HS của mình bao gồm cả những thuận lợi, khó khăn mà em đó gặp
phải trong học tập và cuộc sống.
Việc xây dựng, quản lý và cập nhật hồ sơ HS có thể hiệu quả hơn nếu GV huy động
được sự tham gia của hội đồng tự quản lớp trong cơng việc này, vì hơn ai hết, HS hiểu rõ
hồn cảnh và một số khó khăn, trở ngại trong cuộc sống của bạn bè mình. Hội đồng tự quản
lớp hoặc một số HS có trách nhiệm trong lớp học có thể cung cấp những nguồn thơng tin xác
thực, cập nhật nhất về hoàn cảnh, điều kiện, những thay đổi trong cuộc sống của các thành
viên trong lớp, giúp GV hiểu rõ hơn về tập thể HS của mình và những khó khăn mà các em
phải đối mặt.
Dựa trên thơng tin có được về từng HS, GV có thể đánh dấu những hồ sơ, trường hợp
đặc biệt cần sự quan tâm riêng để có sự hỗ trợ sau này trong quá trình giảng dạy, tiếp cận em

16


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

HS đó, hoặc tìm cách huy động sự trợ giúp từ bên ngoài, từ chính gia đình HS. Những cơng
việc liên quan đến việc xây dựng, quản lý hồ sơ của từng HS như vậy thường tiêu tốn khá
nhiều thời gian, nỗ lực của GV, song lại là một công cụ hữu hiệu và không thể thiếu để giúp
GV quản lý tốt tập thể lớp mình và quan tâm đến những khó khăn của các em một cách cụ
thể, thiết thực.
- Thiết lập và thường xun duy trì, cập nhật kênh thơng tin liên lạc giữa GV và gia
đình HS. Đây là nhiệm vụ hầu như đương nhiên đối với GV, đặc biệt là GV chủ nhiệm, song
không phải tất cả mọi GV đều ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc làm
này. Mặt khác, do GV thường quá bận rộn với khối lượng cơng việc của mình nên lơ là hoặc
coi nhẹ việc duy trì thơng tin với gia đình mọi HS trong lớp. Thơng thường, GV hay quan

tâm đến một số trường hợp cần sự lưu ý nhiều hơn như HS học quá yếu, HS quá quậy phá,
HS khuyết tật hay một số em khó khăn đặc biệt về kinh tế… Song trên thực tế, khi đã giao
phó những đứa con u q của mình cho nhà trường, hầu hết mọi gia đình đều kỳ vọng sẽ
nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của GV đối với con cái mình để các em ngày càng tiến bộ
trong học vấn cũng như phát triển tính cách cá nhân. Vì vậy, trong điều kiện và khả năng của
mình, GV nên chú ý để làm sao có thể thiết lập và duy trì một kênh thơng tin thường xun,
liên tục cập nhật tới gia đình của từng HS về những thay đổi, sự tiến bộ hay thụt lùi của các
em về các mặt khác nhau mà GV quan sát, đánh giá hoặc cảm nhận được. Với sự tiến bộ của
khoa học, công nghệ ngày nay, không chỉ ở thành phố lớn mà một số vùng sâu, vùng xa cũng
đã có thể liên lạc bằng internet hoặc tin nhắn điện thoại di động – GV cần tận dụng những
tiến bộ này trong việc duy trì liên lạc với gia đình HS, bên cạnh những cách truyền thống
như sổ liên lạc, thư gửi qua HS,… Công việc này chắc chắn lấy của GV khá nhiều thời gian,
công sức, song lại tạo được hiệu quả to lớn trong việc phối hợp giữa gia đình HS và GV, nhà
trường nói chung. Mặt khác, thơng qua mối quan hệ chặt chẽ với gia đình HS, GV cũng có
thể phát hiện và góp phần cùng gia đình giải quyết những khó khăn, trở ngại của HS trong
lớp, tạo được sự tin cậy lớn hơn đối với cả HS lẫn gia đình các em.
- Thiết lập và duy trì mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa GV với HS, từ đó biết và
hiểu rõ hơn những khó khăn đặc thù của từng HS. Một số GV thường e ngại rằng việc duy
trì mối quan hệ thân thiện, gần gũi giữa GV-HS có thể phần nào làm cho HS quên mất
khoảng cách cần thiết giữa thầy và trị theo truyền thống lễ nghi phương Đơng, hoặc khiến
HS cảm thấy “nhờn” với thầy cơ, từ đó khó khăn hơn trong giáo dục các em. Tuy nhiên, nếu
GV có bản lĩnh, thực sự hiểu tâm sinh lý tuổi HS và có sự nhạy cảm nghề nghiệp cần thiết để
cân bằng được mối quan hệ với HS thì nỗi lo ngại đó sẽ khơng thành hiện thực.

17


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận


- Tăng cường sự tham gia và ý thức trách nhiệm của hội đồng tự quản và tập thể HS
để HS có ý thức tự quan tâm đến thành viên lớp mình và tìm cách hỗ trợ nhau. Trong một số
trường hợp nhất định, HS tự giúp nhau sẽ hiệu quả và thiết thực nhất.
Giao trách nhiệm cụ thể cho Ban cán sự lớp trong việc tìm hiểu hồn cảnh một số HS
đặc biệt trong lớp để có hướng giúp đỡ hiệu quả. Tuy nhiên việc tìm hiểu cần tế nhị, tránh
gây tổn thương, mặc cảm đến em HS đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, GV cũng khơng thể
phó mặc hồn tồn việc này cho Ban cán sự lớp, mà cần thường xuyên theo dõi, đôn đốc và
giám sát công việc của các em để có những chỉ dẫn hoặc can thiệp kịp thời.
- Chú trọng xây dựng và duy trì bầu khơng khí tập thể lớp học đồn kết thân ái, ln
tương trợ giúp đỡ nhau. Muốn vậy, trước hết bản thân GV phải làm gương tốt cho HS bằng
cách luôn cư xử đúng mực với người khác, tận tình giúp đỡ người gặp khó khăn bất kể đó là
đồng nghiệp, HS, hay những hồn cảnh khơng may khác xung quanh mình. HS rất có ấn
tượng với cách cư xử, lối sống hàng ngày của GV, do vậy một gương GV nhân ái, luôn biết
quan tâm giúp đỡ những người xung quanh sẽ là bài học ‘sống’ giá trị nhất để tác động tới
các em. Mặt khác, GV có thể phối hợp với Đoàn thanh niên và Ban cán sự lớp để phát động
những phong trào, hoạt động tương thân tương ái trong lớp, trường hoặc có phạm vi rộng
hơn nhà trường như: thu gom và trao đổi đồ dùng học tập, quần áo cũ; tiết kiệm tiền ‘bỏ ống’
cho các bạn khó khăn; tổ chức thăm hỏi, tặng q định kì những gia đình có hồn cảnh éo le,
bất hạnh; tham gia hoặc khởi xướng các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng như trồng cây,
giúp đỡ người già, người neo đơn, giúp nạn nhân chất độc da cam, lao động cơng ích trong
các cơng trình cơng cộng,…
Thơng qua các hoạt động thiện nguyện trợ giúp những người khó khăn trong lớp,
trường của mình cũng như ngồi xã hội như vậy, HS sẽ phát triển được những nét tính cách
nhân ái, bao dung, biết quan tâm giúp đỡ người khác. Đồng thời, việc cùng nhau tổ chức
hoạt động tập thể còn giúp các em tăng cường tinh thần đồng đội, hợp tác hiệu quả - những
yếu tố quan trọng giúp xây dựng một tập thể lớp thân ái, đoàn kết.
- Trang bị cho HS, và Hội đồng tự quản lớp những kỹ năng sống quan trọng để biết
cách giao tiếp, ứng xử phù hợp và quan tâm đến người khác, như các kỹ năng giao tiếp, tự
nhận thức, hợp tác, thương lượng, làm việc nhóm, ra quyết định, giải quyết vấn đề, lãnh đạo

nhóm... Để làm được điều đó, trước hết GV cũng phải có hiểu biết, tự trang bị cho mình
những kiến thức, kỹ năng này, hoặc phải tham gia vào những khóa tập huấn chuyên sâu về
kỹ năng sống, sau đó biết cách tổ chức các hoạt động cụ thể để huấn luyện lại cho HS.

18


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

- Tổ chức những hoạt động nhóm nhỏ theo các chủ đề mà HS quan tâm (hoặc theo sở
trường của từng HS) để giúp HS gắn bó hơn với nhau và với tập thể lớp. Ví dụ: nhóm Thể
thao, nhóm Văn thơ, nhóm Hội họa, nhóm Anh ngữ, nhóm Tin học, nhóm Kỹ năng sống,
nhóm Điện ảnh, v.v. Trong mỗi nhóm, GV lựa chọn một hoặc một số HS có khả năng nhất
về lĩnh vực đó làm người hướng dẫn hoặc tổ chức chính, giúp nhóm đề xuất các hoạt động
chung và chia sẻ với cả lớp. Thơng qua những hoạt động nhóm nhỏ như vậy, bản thân HS có
điều kiện hiểu rõ hơn về tính cách, hồn cảnh, những thuận lợi, khó khăn của nhau, và GV
cũng sẽ nắm được nhiều thông tin hơn về HS của mình.
- Tích cực tìm kiếm những cách thức tác động, phối hợp với các lực lượng trong và
ngồi nhà trường để góp phần giải quyết những khó khăn của HS. Đơi khi những vấn đề,
khó khăn mà HS gặp phải trong học tập, đời sống vượt quá khả năng giải quyết, xử lý của
GV, ví dụ HS có những cú sốc nặng nề về tinh thần, tình cảm phải cần tới sự hỗ trợ và tư vấn
chun mơn của chun gia tâm lý, HS có khả năng học tập tốt nhưng gia đình gặp khó khăn
về kinh tế có thể sẽ phải bỏ học giữa chừng nếu khơng được trợ giúp chi phí học tập, v.v.
Với những trường hợp như vậy, GV không chỉ cần phát hiện được khó khăn của HS mà cịn
giữ vai trị quan trọng trong việc làm cầu nối để tác động, liên kết với các lực lượng, cá nhân
trong và ngoài nhà trường có thể cung cấp sự trợ giúp tới HS.
3.2.4. Tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện ở
lớp, ở nhà

Tạo cơ hội giúp các em học sinh biết được các biểu hiện về tinh thần trách nhiệm đối
với bản thân, gia đình, và trường lớp, biết thực hiện công việc với tinh thần trách nhiệm và
quý mến, trân trọng những bạn có tinh thần trách nhiệm là một việc làm có ý nghĩa lớn lao.
Cha ơng ta có câu “Học thầy không tày học bạn”, thông qua những việc làm cụ thể khi chia
sẻ trách nhiệm và giúp đỡ nhau trong học tập các em có thể học được nhiều điều từ bạn bè.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực chủ động của người học lại càng cần có sự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập ở lớp, ở
nhà. Những bài tập có tính hợp tác cao mà các thầy cô giáo giao cho các em thực hiện rất
cần sự giúp đỡ của các bạn học sinh có học lực khá với các bạn học sinh có học lực trung
bình, yếu.
Đối với học sinh DTTS thì lại càng có rất nhiều việc cần chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ
nhau trong học tập, rèn luyện ở lớp, ở nhà. Đó là sự giúp đỡ nhau trong cuộc sống như cùng
nhau chia sẻ sách vở, tài liệu, cùng nhau đi rừng lấy củi về nấu ăn, cùng thổi cơm hay rửa
bát, cùng làm các bài tập, ...

19


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Tổ chức các nhóm học tập, đơi bạn cùng tiến
Học nhóm là một phần quan trọng để tạo ra một lớp học hiệu quả. Tuy nhiên, đây
không chỉ là học sinh “làm việc cùng nhau” đơn thuần mà là cùng hợp tác học tập dưới hình
thức học nhóm. Mục tiêu chính yếu của học nhóm là giúp học sinh chủ động học tập để đạt
được một mục tiêu học tập chung. Việc tạo nhóm học tập như vậy cho phép học sinh làm
việc cùng nhau để tối ưu hóa việc học tập của mình và của các bạn khác trong nhóm.
Thơng qua việc học nhóm người học có thể được:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tạo cảm giác thoải mái cho người học:

Xun suốt q trình học nhóm là các hoạt động học tập mang tính hợp tác. Khi học theo
nhóm, người học cảm thấy thoải mái, khơng bị căng thẳng như lúc học một mình. Các em
nhận được sự hỗ trợ, hợp tác của những người trong nhóm nên sẽ trở nên tự tin hơn và vì
thế, việc học của các em sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
- Phát triển kỹ năng giao tiếp: Bên cạnh việc đạt được mục tiêu học tập là phát triển
kỹ năng ngôn ngữ, người học tham gia vào các hoạt động học tập của nhóm cịn có điều kiện
để phát triển kỹ năng giao tiếp. Các em sẽ học được cách trình bày và bảo vệ quan điểm của
mình, biết cách thuyết phục và thương lượng trong việc giải quyết vấn đề. Các em trở nên
mềm dẻo và linh hoạt hơn trong giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp của các em vì thế mà ngày càng
được hoàn thiện đáng kể.
- Phát triển tư duy sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và khả năng giải quyết vấn
đề: Trong khi học nhóm, người học phải tham gia vào các hoạt động như thuyết trình, thảo
luận, tranh luận, giải quyết vấn đề,... Các hoạt động này địi hỏi người học phải sáng tạo,
lơgic, linh hoạt và nhạy bén. Người học còn phải đánh giá các hoạt động mà nhóm mình
thực hiện để có những điều chỉnh hợp lý.
Các hoạt động nêu trên đã giúp người học phát triển tư duy sáng tạo cũng như khả
năng phân tích, tổng hợp và khả năng giải quyết vấn đề.
Để việc học nhóm của học sinh có hiệu quả, trước hết giáo viên cần giúp từng học
sinh xác định trách nhiệm của bản thân, ngoài ra các thành viên trong nhóm cần có ý thức tự
giác: tự giác về thời gian, bài vở, tự giác “phát biểu”...
- Hãy hồn thành tất cả các bài tập có thể, dàn ý bài học thuộc và các bài đọc tham
khảo, đối với các mơn xã hội.
- Trình bày những gì mình đã chuẩn bị và biết đặt ra các câu hỏi

20


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận


- Tham gia, nỗ lực làm việc để hiểu quan điểm của các thành viên khác, cũng như ý
kiến của họ.
- Mỗi thành viên đều có quyền u cầu người khác phải trình bày ý kiến, phát biểu và
đóng góp.
- Có trách nhiệm với các thành viên khác và họ cũng có trách nhiệm đối với bạn.
Một nhóm học tập cần biết
- Mỗi nhóm học chỉ từ 3-5 người. Nhóm đơng hơn sẽ khó quản lý và giao cơng việc.
- Mỗi nhóm học cần phải làm quen với cách thức hoạt động của cả nhóm, cần đưa ra
những nguyên tắc chung thống nhất mà mọi người đều đồng ý.
- Phải luôn chia sẻ những kinh nghiệm cũng như hiểu biết của mình về vấn đề đang
thảo luận với cả nhóm.
- Cố gắng để hiểu ý kiến, quan điểm của các thành viên khác. Không chỉ trích người
khác nếu người đó đưa ra một quan điểm trái ngược với mình hoặc mình khơng đồng ý.
- Khơng ngại hỏi những điều mình chưa biết hoặc cịn thắc mắc.
- Bản thân mỗi người nên xem trước bài, tìm hiểu sơ lược những kiến thức ngày mai
sẽ thảo luận để không bị bỡ ngỡ và mất thời gian khi giải quyết vấn đề cùng nhóm...
- Ghi chép lại những thắc mắc không thể trả lời để hôm sau có thể hỏi và trao đổi
cùng nhóm...
Đặc trưng của một nhóm học thành cơng
Để bắt đầu, một nhóm học nên có những đặc trưng sau để thành cơng:
- Mỗi thành viên nhóm đều xây dựng để thảo luận chung
- Những thành viên nhóm nghe chủ động từ những thành viên khác mà khơng được
cắt ngang. Chỉ đúng một người nói vào một thời điểm.
- Những thành viên khác làm việc cộng tác để giải lại mọi sự thắc mắc từ một thành
viên trong nhóm.
- Thành viên nhóm nên tích cực chuẩn bị cơng việc của mình.
- Thành viên nhóm thể hiện sự tôn trọng với các thành viên khác.
- Thành viên nhóm phải cảm thấy thoải mái khi đặt câu hỏi.


21


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

- Vào cuối mỗi buổi học, một thời khóa biểu bao gồm cơng việc của các thành viên
cho bài học sắp tới.
- Trên tất cả là quan điểm: Mọi người cùng giúp nhau tiến bộ.
3.2.5. Tơn trọng bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán.
Mỗi dân tộc đều có những bản sắc, phong tục tập quán riêng được hình thành, tạo
dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa dân
tộc là biểu hiện sống động của cốt cách dân tộc qua bao thăng trầm của lịch sử. Giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc cũng chính là giữ gìn cốt cách dân tộc. Cốt cách dân tộc được coi là
"chất", là "bộ gien" của mỗi dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là bảo vệ, giữ
gìn bộ gien q đó.
Đối với các lớp học ở vùng có học sinh DTTS, việc tìm hiểu và tơn trọng bản sắc văn
hóa dân tộc, nhất là phong tục tập qn có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Có thể thấy, mỗi dân
tộc, mỗi địa phương lại có những nét bản sắc, phong tục tập quán riêng, việc tơn trọng bản
sắc văn hóa dân tộc, các phong tục tập qn khơng chỉ để giữ gìn và phát huy bản sắc văn
văn hóa của mỗi dân tộc mà cịn giúp cho các em học sinh thấy được giá trị, vẻ đẹp của
những nét bản sắc riêng đó để giữ gìn và phát huy đồng thời giúp các em nhận thấy được
những phong tục, tập quán lạc hậu tồn tại lâu đời của cộng đồng thiểu số đang cản trở sự
phát triển của cộng đồng, xã hội để các em có thức thay đổi, điều chỉnh nhằm hướng tới một
sự phát triển tốt đẹp hơn.
Việc tôn trọng bản sắn văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán vừa là để giữ được
cốt cách của dân tộc mà người giáo viên đang sống và làm việc với nó, vừa là thể hiện sự
hiểu biết của mình với dân tộc đó, có như vậy việc giáo dục, rèn luyện các em học sinh
DTTS mới có thể thực hiện được một cách tốt nhất, hiệu quả nhất.

Tổ chức các hoạt động vui chơi có liên quan đến phong tục tập quán, trò chơi dân
gian của các dân tộc trên địa bàn. Nhà trường cần tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí cho
học sinh DTTS để đem lại niềm vui cho các em. Các hoạt động vui chơi lành mạnh ln
mang lại niềm vui cho học sinh, tạo khơng khí sôi động trong trường học. Đối với học sinh
DTTS, các trò chơi nên gắn với những phong tục tập quán và các trò chơi dân gian của các
dân tộc trên địa bàn mà các em đang sinh sống. Các trò chơi này nên có sự tham gia của cả
giáo viên và học sinh. Học sinh có thể đề nghị các trò chơi, đặc biệt là những trò chơi của
dân tộc các em, những trò chơi này được tập thể đồng ý. Giáo viên sẽ là người xem xét nếu
trò chơi nào nguy hiểm, khơng thích hợp thì gợi ý học sinh các trò chơi khác, trò chơi nào
mà giáo viên chưa biết thì học sinh có thể mơ tả và hướng dẫn cách chơi cho mọi người.

22


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Giáo viên cũng có thể là người đề nghị các trò chơi cho học sinh và cũng phải được học sinh
chấp nhận. Các buổi tham quan, dã ngoại, các hoạt động thể dục thể thao… đều đem lại sự
bổ ích cho học sinh. Các hoạt động này được diễn ra thường xuyên và đều đặn (có thể kết
hợp với các tiết sinh hoạt ngoại khoá của trường học). Các ngày hội theo chủ điểm cần tính
đến điều kiện và tao cơ hội cho học sinh tham gia bình đẳng.
Tổ chức các buổi sinh hoạt, trao đổi về các nét dân tộc truyền thống dành cho học sinh.
Nhà trường và giáo viên cần đổi mới nội dung và hình thức các buổi sinh hoạt nhằm
giúp học sinh cảm thấy thoải mái khi bày tỏ suy nghĩ, ý kiến về các chủ đề liên quan bản sắc
văn hóa và phong tục tập qn.
Hình thức sinh hoạt cần chuẩn bị chu đáo, cụ thể, có phân cơng rõ ràng… Có thể tổ
chức vào giờ cuối tuần, giờ sinh hoạt ngoại khố, trong lớp hoặc ngồi trời… giáo viên
chuẩn bị chủ đề, các câu hỏi gợi ý, phim ảnh, sách báo, tình huống… học sinh có thể trao đổi

nhóm, góp ý kiến cá nhân… có xen kẽ những trò chơi, tạo hứng thú cho học sinh khi tham
gia. Nội dung cần biên soạn phù hợp lứa tuổi, ngắn gọn, dễ hiểu, nhiều hình ảnh minh họa để
học sinh dễ theo dõi…
Giáo viên cần tổ chức các buổi sinh hoạt lớp, gợi ý học sinh tham gia ý kiến về các
chủ đề liên quan đến học sinh như: “nét đẹp văn hóa dân tộc em” hay “những điều bạn chưa
biết về phong tục tập quán dân tộc tôi”, ...
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam.
Cuộc thi là hoạt động nâng cao nhận thức rất hiệu quả do có khả năng lôi cuốn sự
tham gia của học sinh. Rất nhiều học sinh tham gia cuộc thi vì sự hấp dẫn của giải thưởng, vì
muốn thể hiện sự hiểu biết, tài năng của mình. Ngồi ra, khá nhiều học sinh tham gia cuộc
thi vì bị ảnh hưởng của bạn bè cùng nhóm, cùng lớp. Ưu điểm của hình thức hoạt động này
là cho phép mọi học sinh tham gia. Đồng thời việc tổ chức cuộc thi cũng không mất quá
nhiều thời gian và nguồn lực.
Nội dung liên quan đến phong tục tập qn các dân tộc, có nhiều hình thức thi khác
nhau. Đó có thể là các cuộc thi vẽ, viết, kể chuyện, hùng biện, hái hoa dân chủ, biểu diễn văn
nghệ (kịch, hát, thơ…), thiết kế vật trưng bày, sưu tầm mẫu vật…
Các cuộc thi thường được phát động trong một thời gian, ít nhất là 1 tháng, lâu nhất là
1 năm học. Không nên phát động cuộc thi kéo dài hơn 1 năm học trong nhà trường vì sẽ làm
giảm hứng thú của học sinh. Thời gian phát động cuộc thi cũng là lúc học sinh tìm hiểu về
nội dung liên quan đến phong tục tập quán các dân tộc để có ý tưởng dự thi. Trong thời gian

23


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

này, tuỳ từng nội dung và hình thức cuộc thi, giáo viên cần có kế hoạch hướng dẫn, giúp học
sinh thu thập tài liệu và tìm hiểu nhằm đảm bảo chất lượng tác phẩm dự thi.

Trước khi phát động cuộc thi, giáo viên cần xác định các thành phần ban tổ chức. Nếu
là cuộc thi ở cấp lớp, ban tổ chức có thể là giáo viên chủ nhiệm và một vài giáo viên liên
quan. Nếu là cuộc thi cấp trường, nhà trường cần xác định một số cán bộ và giáo viên đóng
vai trị ban tổ chức. Ban tổ chức cần xây dựng và thống nhất thể lệ cuộc thi trong đó xác
định rõ: hình thức và nội dung dự thi, đối tượng dự thi, cơ cấu giải thưởng, thời gian dự thi,
nơi nộp bài hoặc trình bày bài dự thi, thời gian cơng bố giải thưởng, người liên lạc.
Đối với các cuộc thi vẽ, viết, lễ trao giải cuộc thi là cơ hội rất tốt để nâng cao nhận
thức cho học sinh về phong tục tập quán các dân tộc. Nên tổ chức lễ trao giải dưới hình thức
buổi giao lưu văn nghệ. Ngồi việc cơng bố và trao giải thưởng, cần giải thích rõ tại sao
những bài dự thi lại được giải. Đồng thơi, bố trí các tiết mục văn nghệ (hát, kịch, thơ…) với
nội dung liên quan đến phong tục tập quán các dân tộc trong buổi lễ trao giải. Tạo điều kiện
để học sinh được thảo luận về các tác phẩm dự thi.
Đối với các cuộc thi hùng biện, hái hoa dân chủ, kể chuyện, biểu diễn văn nghệ, thiết
kế vật trưng bày, sưu tầm mẫu vật… cần tổ chức ngày hội thi để học sinh biểu diễn/trình bày
các tác phẩm dự thi của mình. Tổ chức cho học sinh thảo luận về các tác phẩm dự thi. Cuối
hội thi, cần cơng bố giải thưởng và giải thích rõ tại sao những tác phẩm dự thi đó được giải.
Sau cuộc thi, các tác phẩm dự thi có thể được tiếp tục trưng bày tại trường học hoặc
nơi công cộng, hoặc được tập hợp lại thành tuyển tập các tác phẩm dự thi. Nếu có điều kiện,
hãy in các tuyển tập tác phẩm dự thi này và phát cho học sinh.
Biểu diễn văn nghệ (Kịch, thơ, hát, múa...)
Diễn kịch là phương pháp hiệu quả trong việc giáo dục học sinh về tơn trọng bản sắn
văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán. Diễn kịch có thể do người hoặc con rối đóng
vai. Diễn kịch cho phép dựng lại những khía cạnh tế nhị hay những vấn đề gây tranh cãi
trong cuộc sống mà bình thường mọi người ngại đề cập.
Giáo viên có thể thảo luận với học sinh để các em tự xây dựng nội dung vở kịch và
biểu diễn trước lớp hoặc trước tồn trường. Có thể tư vấn cán bộ văn hóa về nội dung và tính
chính xác của các thông tin trong vở kịch. Mỗi vở kịch nên tập trung vào một vấn đề cụ thể
liên quan đến tơn trọng bản sắn văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán. Nếu đó là vở
kịch do học sinh đóng vai, các em có thể tự làm đạo cụ biểu diễn và thiết kế trang phục cho
nhân vật của mình. Nếu đó là vở rối, học sinh cũng có thể tự làm con rối, biểu diễn và lồng

tiếng cho nhân vật rối của mình.

24


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Thái Thị Luận

Học sinh và giáo viên có thể diễn kịch ngay trong lớp, trong sân trường hoặc bất cứ
nơi nào phù hợp. Có thể mời cha mẹ học sinh và người dân địa phương đến xem vở kịch.
Sau khi diễn kịch, ln có phần thảo luận với khán giả về những gì diễn ra trong vở kịch và
hỏi khán giả xem họ sẽ làm gì nếu họ là nhân vật trong vở kịch.
3.2.6. Rèn luyện các thói quen và hành vi văn minh
Đối với các em HS vùng sâu, vùng xa, hoặc vùng DTTS, việc rèn luyện cho các em
những thói quen, hành vi văn minh càng có ý nghĩa quan trọng. Do phần lớn thời gian chỉ
sinh sống trong cộng đồng nhỏ bé của mình, hầu hết các em ít có mối quan hệ, giao tiếp với
những cộng đồng, nền văn hóa khác. Vì vậy, hiểu biết và thực hành của các em về những
thói quen, hành vi văn minh được chấp nhận rộng rãi trong xã hội rộng lớn nói chung cịn rất
hạn chế. Đơi khi, chính những phong tục, tập qn lạc hậu tồn tại lâu đời của cộng đồng
thiểu số cũng cản trở các em thực hiện những thói quen, hành vi văn minh mà bản thân biết
là cần thiết (ví dụ, ốm nặng nhưng vẫn không được đến bác sĩ khám chỉ vì buộc phải nghe
theo lời gia đình, mời thầy cúng đến làm lễ để ‘đuổi con ma trong người ra’ thì mới khỏi…)
Rèn luyện các thói quen, hành vi văn minh khơng có nghĩa là các em phải hồn tồn
phủ nhận, gạt bỏ những lề thói, tập tục, thói quen truyền thống của cộng đồng mình, mà là
giúp các em hiểu được những tác dụng tích cực, ý nghĩa của những thói quen, hành vi văn
minh trong xã hội con người nói chung, để từ đó bản thân HS có ý thức tự giác thực hiện.
Bởi trong thực tế, nhiều HS trong số các em DTTS sau này trưởng thành sẽ tham gia vào các
hoạt động xã hội đa dạng bên ngồi cộng đồng của mình, đi học hoặc đi làm xa, thậm chí
sang các quốc gia khác… Do vậy, việc hiểu biết và thực hành được những thói quen, hành vi

văn minh là bước chuẩn bị quan trọng giúp các em hội nhập tốt hơn trong cuộc sống sau này,
trong những môi trường, với những dân tộc và nền văn hóa khác. Điều này cịn giúp các em
tránh được sự bỡ ngỡ hoặc những ‘cú sốc văn hóa’, giảm khả năng có thể bị kỳ thị, phân biệt
đối xử.
Một số thói quen, hành vi văn minh mà GV có thể giúp HS rèn luyện bao gồm: xây
dựng và duy trì nề nếp học tập qui củ - giờ nào việc nấy, đi học đúng giờ, ăn mặc gọn gàng
sạch sẽ, giữ vệ sinh cá nhân, tôn trọng sự riêng tư của mình và người khác, vứt rác và đi vệ
sinh đúng nơi qui định, không khạc nhổ nơi công cộng; không ngắt hoa, bẻ cành, phá cây
xanh; khơng nói xấu/nói sau lưng người khác; khơng ngắt lời khi người khác đang nói; v.v.
- Bản thân GV phải làm mẫu, thường xuyên thể hiện các hành vi và lối sống văn minh
trước HS: Muốn HS học được và làm theo những hành vi nào đó, trước hết chính GV phải
thực hiện những hành vi ấy trước HS, như McDanieal trong tác phẩm “Sách vỡ lòng về kỷ

25


×