Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phan tich 20 cau dau bai tho Viet Bac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.61 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt <i>Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12 </i> - Trang | <b>1 </b>-

<b>PHÂN TÍCH PHẦN ĐẦU BÀI THƠ VIỆT BẮC </b>



<i>Việt Bắc</i> ra đời năm 1954, sau chiến thắng điện Điên, khi trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ đã rời “<i>thủ </i>
<i>đơ gió ngàn</i>” về với “<i>thủ đơ hoa vàng nắng Ba Đình</i>”. Bài thơ vừa là tiếng hát ngọt ngào thấm đẫm chất trữ tình và
tấm lịng ân nghĩa thuỷ chung của miền ngược và miền xuôi, của tác giả, cán bộ kháng chiến đối với quê hương Việt
Bắc, vừa là bản anh hùng ca về thế ra trận đầy sức mạnh, chiến cơng của cả một dân tộc quyết “<i>chín năm làm một </i>
<i>Điện Biên; nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng</i>”. <i>Việt Bắc</i> xứng đáng là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu
nói riêng và của thơ Cách mạng nói chung.


<b>I. Vài nét về cấu tứ của bài thơ. (xem phần Đặc sắc của cặp đại từ "mình" - "ta") </b>
<b>II. Khung cảnh buổi chia ly </b>


1. Người ở lại lên tiếng trước: khúc dạo đầu.


Mở đầu bài thơ là một khung cảnh chia tay của hai người với tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, xao xuyến,
lưu luyến, vấn vương… khi hồi tưởng về những kỉ niệm gắn bó bền lâu, sâu nặng. “Hình như quá nhạy cảm với sự
đổi thay nên người ở lại đã lên tiếng trước để gợi nhắc những kỉ niệm khó quên, những cội nguồn tình nghĩa”:


“<i>Mình về mình có nhớ ta </i>
<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng </i>


<i>Mình về mình có nhớ khơng </i>
<i>Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn</i>”


Nhưng bao trùm lên tậm trạng của kẻ ở, người đi là nỗi nhớ, nhớ cồn cào, da diết. Nỗi nhớ ấy cứ thấm đượm
tất cả, lan toả cả cỏ cây, mây núi. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ “<i>nhớ</i>”. Qua hoài niệm, qua lời
hỏi của người ở lại, nỗi nhớ tha thiết ấy đã làm sống dậy biết bao kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Qua đó, bài thơ tái
hiện được một cách chân thật và sinh động mấy bức tranh hiện thực hoà nhập thống nhất, khó có thể tách rời. Đó là
thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, thắm tươi đang cùng con người đánh giặc; cuộc sống kháng chiến gian khổ vui tươi,
thắm đượm nghĩa tình; khung cảnh cả nước ra trận đầy hào khí với những chiến cơng dồn dập; hình ảnh chiến khu


kháng chiến, điểm tựa tinh thần của nhân dân cả nước. Ở đây, Tố Hữu đã mượn người ở lại hỏi người ra đi như để
nhắc nhở mọi người cũng là nhắc nhở chính mình, hãy nhớ lấy đạo lý ân tình, chung thuỷ, “<i>uống nước nhớ nguồn</i>”
vốn là đạo lý tốt đẹp nhất của con người Việt Nam. Đoạn mở đầu gồm bốn câu tạo thành hai cặp lục bát và cũng là
hai câu hát rất cân đối, hài hoà. Một câu hỏi hướng về thời gian:


“<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng</i>”


của nghĩa tình Cách mạng kháng chiến; một câu hỏi hướng về không gian của một vùng chiến khu thiêng
liêng:


“<i>Quê hương Cách mạng dựng nên cộng hồ”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hocmai.vn – Ngơi trường chung của học trò Việt <i>Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12 </i> - Trang | <b>2 </b>-
2. Cảnh tiễn đưa đầy lưu luyến của kẻ ở người đi.


Sau khúc dạo đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng, tha thiết đến bồn chồn của bước đi cả hai ngươi, như thể
người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến, vấn vương:


“<i>Tiếng ai tha thiết bên cồn </i>
<i>Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi</i>”


Đại từ “<i>ai</i>”, một đại từ rất quen thuộc trong ca dao, dân ca; một đại từ vừa phiếm chỉ, vừa cụ thể làm cho lời
thơ trở nên trữ tình, tha thiết như khúc hát giao duyên quan họ. Chỉ hai câu thơ lục bát đã diễn tả được ba trạng thái
tình cảm sâu sắc thường chỉ có trong trái tim của những cặp tình nhân say đắm. “<i>Tha thiết</i>” như tiếng nói cất lên từ
đáy lòng đầy yêu thương; “<i>bâng khuâng</i>” như một sự tiếc nuỗi, hụt hẫng; rồi “<i>bồn chồn</i>” không yên như trạng thái
nơn nao, phấp phỏng của tấc lịng. Những từ láy và cũng là tính từ, cùng với phép đảo ngữ, cặp tiểu đối đã làm tăng
lên biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Nó khơng chỉ thấm sâu vào trong lòng mà còn hằn lên từng bước
đi:


“<i>Áo chàm đưa buổi phân li </i>


<i>Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay?” </i>


Hình ảnh hoán dụ “<i>áo chàm</i>” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm, vừa cụ thể, vừa trượng trưng.
Màu áo chàm của người Việt Bắc không phai, đậm đà như tấm lòng thuỷ chung, sắt son của họ vậy. Trong tâm thức
của người Việt Nam, màu áo chàm còn tượng trưng cho sự giản dị, chân thành, đơn sơ “<i>cầm tay nhau biết nói gì hơm </i>
<i>nay</i>”.


Cái tình “<i>tha thiết</i>”, “<i>bâng khuâng</i>”, “<i>bồn chồn</i>” thì có lời nào tả cho hết được. Tình cảm càng thắm đượm,
nồng nàn thì ngơn từ càng bất lực. Cho nên, nói gì đó cho đủ thoả khi trái tim đầy ắp cảm xúc khó nói nên lời chứ
khơng phải là khơng biết nói gì. Cái cử chỉ “<i>cầm tay</i>” cũng rất xúc động. Bàn tay ấm nóng trao cảm thương với trái
tim run rẩy vì xúc động đã nói được nhiều hơn mọi lời bằng âm thanh ríu rít. Nhịp thơ 3/3/3/3/2 diễn tả rất tài tình
một cái gì đó như một thống ngập ngừng, bối rối trong tâm trạng và cử chỉ.


Như thế, chỉ bằng mấy câu thơ giản dị, Tố Hữu đã dựng lên được cảnh chia tay rất giàu màu sắc trữ tình, đầy
đủ thời gian, không gian và của kẻ ở người đi.


<b>III. Lời người ở lại: những kỉ niệm kháng chiến gian khổ nhưng sâu nặng tình nghĩa </b>


Sai khi dàn dựng xong khung cảnh chia tay, Tố Hữu đã để cho người ở lại lên tiếng. Những cảm xúc về sự
chia ly như một nỗi day dứt toát lên từ trái tim thành những câu hỏi đầy băn khoăn:


<i>“Mình đi có nhớ những ngày </i>
<i>Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùa </i>


<i>Mình về có nhớ chiến khu </i>


<i>Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? </i>
<i>Mình về rừng núi nhớ ai </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Hocmai.vn – Ngơi trường chung của học trị Việt <i>Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12 </i> - Trang | <b>3 </b>-


<i>Hắt hiu lau xám đậm đà lịng son </i>


<i>Mình về có nhớ núi non </i>


<i>Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh </i>
<i>Mình đi mình có nhớ mình </i>


<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?” </i>


Chỉ mười hai câu thơ nhưng đều xoáy sâu vào kỉ niệm của những ngày Cách mạng còn nòn yếu (còn trứng
nước), tuy tươi vui, lạc quan nhưng cũng lắm gian nan, cơ cực. Hỏi là “<i>mình về có nhớ</i>” nhưng thực ra đã biết rõ tâm
trạng người ra đi cũng trĩu nặng nỗi nhớ thương về những năm tháng không thể nào quên. Quên sao được những
chuỗi ngày khó khăn, gian khổ chồng chất ấy:


“<i>Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù</i>”


Những ngày “<i>miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai</i>”, những ngày chia ngọt sẻ bùi, đắng cay, gian khổ mà
ấm áp tình người:


“<i>Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son</i>”


Đoạn thơ gồm những câu hỏi liên tiếp cất lên từ trong lòng người đọc, gợi lên sự khắc nghiệt của thiên nhiên
Việt Bắc. Có những câu hỏi gợi về những sinh hoạt gian khổ nhưng sâu nặng nghĩa tình “<i>miếng cơm chấm muối</i>”…
“<i>Miếng cơm chấm muối</i>” là hình ảnh chân thực được rút ra từ kháng chiến đầy gian nan. Hình ảnh “<i>mối thù nặng </i>
<i>vai</i>” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết lại với
nhau tạo nên một ý nghĩa mới mẻ, sâu xa: mối tình đồn kết chiến đấu cùng chung gian khổ, cùng mang một mối thù
thực dân là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vang dội, chiến cơng chói lọi. Có câu hỏi lại gợi về hình ảnh
thiên nhiên gắn bó với đời sống sinh hoạt kháng chiến, giờ cách xa chúng cũng như mang hồn người và trở nên ngẩn
ngơ, buồn vắng:



“<i>Mình về rừng núi nhớ ai </i>
<i>Trám bùi để rụng, măng mai để già” </i>


Câu thơ “<i>hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son</i>” là câu thơ tuyệt hay. Cái hay trước hết là sự chân thực, giản dị.
Những mái nhà lợp bằng tranh, bằng lá cọ nghèo nàn, những ngon lau xám hắt hiu trước gió, những bữa ăn chỉ tồn
bằng sắn, khoai… nhưng tấm lịng của người dân đối với Cách mạng, với kháng chiến thật “<i>đậm đà lòng son</i>”, thuỷ
chung ân nghĩa. “<i>Hắt hiu lau xám</i>” đối với “<i>đậm đà lòng son</i>” cùng với thủ pháp đảo ngữ càng làm nổi rõ tấm lòng
cao quý, đùm bọc, chở che của nhân dân với cán bộ. Hồn cảnh càng gian nan, thiếu thốn, lịng dân với Cách mạng,
kháng chiến càng sắt son, gắn bó. Thật cảm động biết bao:


“<i>Mình về có nhớ núi non </i>


<i>Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh </i>
<i>Mình đi, mình có nhớ mình </i>
<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa</i>”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt <i>Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12 </i> - Trang | <b>4 </b>-
đồng nghĩa với chính mình. Cho nên, người cán bộ về xi chỉ xa cách về không gian địa lý nhưng không có sự xa
cách trong tâm hồn. Những “<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa</i>” từ nay đã trở thành một phần máu thịt, trái tim
tác giả.


Sáu cặp lục bát nói trên được tác giả sử dụng cách ngắt nhịp đều đặn, vận dụng nghệ thuật tiểu đối tài tình
làm cho đoạn thơ có nhạc tính réo rắt ngân vang, dễ thấm vào tâm hồn người đọc. Lời thơ Tố Hữu vì thế vừa phảng
phất màu sắc cổ điển như những câu Kiều, vừa bình dị gần gũi thân quen như những câu ca dao, dân ca rất hấp dẫn.


<b>IV. Lời người về xuôi: nhớ về nhân dân Việt Bắc đã chia ngọt sẻ bùi, đùm bọc trở che cho cách mạng, </b>
<b>kháng chiến và cuộc kháng chiến tươi vui lạc quan. </b>


Đoạn thơ dành cho người về xuôi gồm 22 câu:



“<i>Ta với mình, mình với ta </i>
<i>… Chày đêm nện cối đều đều suối xa</i>”


Tố Hữu đã để lại cho người về xuôi trả lời nhiều hơn. Vì suốt 15 năm thiết tha mặn nồng ấy, trong trái tim
của người sắp phải xa cách chất chứa biết bao nỗi nhớ về những kỉ niệm kháng chiến, về “<i>Quê hương Cách mạng </i>
<i>dựng nên cộng hồ</i>”. Cho nên


“<i>Mình đi mình lại nhớ mình </i>


<i>Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu</i>”


Trong tiềm thức của người dân Việt Nam, nước nguồn chảy ra được vì cơng lao, tình nghĩa vơ bờ bến của
người mẹ tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình
cha. ““<i>Bao nhiêu</i>” được so sánh với “<i>bấy nhiêu</i>”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận.” Đọc câu
thơ, ta có cảm giác, dường như đó khơng còn là những dòng chữ im lặng, lạnh lùng nữa mà là tiếng lòng thốt lên từ
một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong phút giây li biệt. Qua đó, những tháng ngày gian khổ mà tươi
vui cứ lần lượt hiện lên theo nỗi nhớ da diết, cháy bỏng:


“<i>Nhớ gì như nhớ người yêu </i>


<i>Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương</i>”


Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ nồng nàn, bồn chồn, khắc khoải nhất trong mỗi con người. Nỗi nhớ ấy vừa được
so sánh với “<i>trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương</i>”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm. Đúng là:


“<i>Khi ta ở chỉ là nơi đất ở </i>
<i>Khi ta đi đất đã hố tâm hồn </i>


Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa khi ta đã sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dào lên biết
bao nỗi vấn vương, thương nhớ, nhớ cả những vật vơ tri tầm thường nhất mà vơ tình bắt gặp:



<i>“Nhớ từng rừng nứa bờ tre </i>
<i>Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Hocmai.vn – Ngơi trường chung của học trị Việt <i>Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12 </i> - Trang | <b>5 </b>-
<i>động lên rồi!”(Thơ Tố Hữu) càng nhớ cảnh,càng nhớ người vì trong cảnh lại nghĩ đến người</i>”. Nhớ nhất là nếp sống
kháng chiến vô cùng gian khổ mà ấm tình, ấm nghĩa:


“<i>Thương nhau chia củ sắn lùi </i>
<i>Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng </i>


<i>Nhớ người mẹ nắng cháy lưng </i>
<i>Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngơ</i>”


Hình ảnh thơ thật mộc mạc, chân thực mà giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây khơng phải sẻ
chia những gì lớn lao như tính mệnh hay máu xương, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày: “<i>củ </i>
<i>sắn lùi</i>”, “<i>bát cơm</i>”, chiếc chăn vỏ cây xù xì, thơ nhám. Nhưng trong bối cảnh lúc bấy giờ, chúng là hiện thân của sự
sống, của tình nghĩa. Quả là của chẳng đáng bao nhiêu, nhưng tình thì rất nặng. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm
thía cái đẹp nhất của đời này là tình nghĩa của con người, sự san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh
vác nhiệm vụ; nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc sống gian nan, thiếu thốn, càng thấm thía trong khó khăn, thử
thách.


Từ những hình ảnh khắc hoạ chân thực cuốc sống đời thường nơi bản nhỏ, mạch thơ chuyển sang mô tả cuộc
sống kháng chiến và Cách mạng gian khổ mà vui tươi, lạc quan:


“<i>Nhớ sao ngày tháng cơ quan </i>
<i>Gian nan đời vẫn ca vang núi rừng </i>


<i>Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều </i>
<i>Chày đêm nện cối đều đều suối xa</i>”



Trong tiếng “<i>ca vang núi rừng ấy”,</i> có tiếng mõ trâu tìm về bản tận rừng sâu và có cả tiếng “<i>đều đều</i>” của
chày giã gạo từ cối xa vọng lại tạo thành một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Tất cả làm nên một bài
ca trong trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể dập tắt được.


<b>KẾT LUẬN </b>


Tóm lại, thơng qua nỗi nhớ những ngày kháng chiến gian khổ, cùng chia ngọt sẻ bùi, người cán bộ đã bày tỏ
được tình cảm chân thành, tha thiết với Việt Bắc. Và cũng qua hồi niệm đó, cuộc sống và con người Việt Bắc hiện
lên thật đơn sơ, bình dị, gian khó, nhưng ấm áp tình nghĩa và vô cùng lạc quan yêu đời.


Về nghệ thuật, tác giả đã sử dụng tài tình cặp đại từ xưng hơ "mình-ta", ngơn ngữ mộc mạc, giản dị,
nhưng rất gợi hình, gợi cảm, cùng điệp từ "nhớ" với những câu thơ lục bát ngọt ngào, tha thiết mang đậm âm hưởng
ca dao dân ca truyền thống dân tộc.


<b> </b> <b>Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh </b>


</div>

<!--links-->
Cảm nhận 10 câu đầu bài thơ Việt bắc của Tố hữu potx
  • 8
  • 5
  • 58
  • ×