Tải bản đầy đủ (.doc) (168 trang)

Tài liệu Chủ nghĩa Mac- Lênin ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 168 trang )

Chương mở đầu
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
1. Ba bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác – Lênin
- Triết học: nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy; định hướng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Kinh tế chính trị: nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những
quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận
triết học và kinh tế chính trị để làm sáng tỏ những quy luật của quá trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa, bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ
nghĩa cộng sản.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin
a. Những điều kiện, tiền đề sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây
Âu đã phát triển mạnh mẽ. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước
chuyển hóa từ nền tảng sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và
phát triển của giai cấp vô sản.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 kéo theo hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân
chống lại chủ nghĩa tư bản, tiêu biểu là:
+ Cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liông (Pháp) năm 1831 va 1834
+ Phong trào Hiến chương (Anh) từ năm 1838 đến năm 1848
+ Cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Silêdi (Đức) năm 1844.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản yêu cầu khách quan là nó cần phải có lý luận
khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực
tiễn cách mạng đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển lý luận cua


chủ nghĩa Mác
- Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân
loại như:
+Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của G.Hêghen (George W.Friedrich
Hegel, 1770-1831) và L.Phơ bách (Ludwig Feuerbach, 1804-1872).
1
G.Hêghen đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận thông
qua hệ thống các quy luật, phạm trù. Trên cơ sở phê phán C.Mác và Ph.Ăngghen đã thừa để
xây dựng phép biện chứng duy vật.
Với Phơ bách, mặc dù còn nhiều hạn chế về quan điểm liên quan đến các vấn đề xã
hội; song, C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò tư tưởng của Phơ bách trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại
vĩnh viễn, không phụ thuộc vào ý thức của con người. đã tạo tiền đề cho bước chuyển biến
của C.Mác và Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật.
+ Kinh tế chính trị cổ điển Anh như A.Xmít (Adam Smith, 1723-1790) và Đ.Ricácđô
(David Ricardo, 1772-1823) đã góp phần tích cực vào quá trình hình thành quan niệm duy vật
về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
A.Xmít và Đ.Ricácđô là những người mở đầu lý luận về giá trị trong kinh tế chính trị
học bằng việc xây dựng học thuyết về giá trị lao động. Các ông đã đưa ra những kết luận
quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận, về tính chất của quá trình sản xuất vật chất,
về những quy luật kinh tế khách quan để Mác kế thừa xây dựng nên lý luận về giá trị thặng
dư, luận chứng về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng có các nhà tư tưởng tiêu biểu như: H.Xanh Ximông
(Henri De Saint Simon, 1760-1825), S.Phuriê (Charles Fourier, 1772-1837) người Pháp và R.
Ôoen (Robert Owen, 1771-1858) người Anh. Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét
tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản trên cơ sở vạch trần cảnh khốn cùng
cả về vật chất lẫn tinh thần của người lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã đưa
ra nhiều quan điểm cũng như dự đoán về xã hội tương lai. Song, chủ nghĩa xã hội không
tưởng đã không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản,

không phát hiện được quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản và vai trò, sứ mệnh của giai
cấp công nhân với tư cách là lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây
dựng một xã hội bình đẳng, không có bóc lột. Trên tinh thần nhân đạo đó nó đã trở thành
những tiên đề lý luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những điều kiện kinh tế – xã hội, tiền đề lý luận, thì những thành tựu khoa
học tự nhiên cũng khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng ( Ra đời vào giữa TKXIX do Mayer,
Helmholt, Faraday, Joule, Lence…) chứng minh về các hình thức vận động không tách rời
nhau của vật chất, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn
+ Thuyết tiến hóa ( Ra đời giữa TKXIX do Charles Darwin, nhà sinh vật học người
Anh) đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến dị
và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
+ Thuyết tế bào ( Ra đời năm 1839, do hai nhà sinh vật học người Đức là Scheiden và
Schwan) đã xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể
thực vật, động vật và giải thích quá trình phát triển trong mối liên hệ của chúng.
Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào là
những thành tựu khoa học bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học về vai trò của ”
2
Đấng sáng tạo”; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về thế giới vật chất vô cùng, vô tận, tự
tồn tại, tự vận động, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện chứng; khẳng định tính
khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức và thực tiễn.
Như vậy, sự ra đời cuả chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là sản
phẩm của điều kiện kinh tế xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh
vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những người sáng
lập ra nó.
b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
-Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện diễn ra từ những năm 1842, 1843 đến những năm 1847, 1848.
C.Marx: 5/5/1818 - 14/3/1883. Friedrich Engels: 28/11/1820 - 5/8/1895.

Những tác phẩm chính: như Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 (C.Mác), Gia đình
thần thánh (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845), Luận cương về Phơ bách (C.Mác, 1845), Hệ tư
tưởng Đức (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845 - 1846), v.v… đã thể hiện rõ nét việc C.Mác và
Ph.Ăngghen kế thừa tinh hoa quan điểm duy vật và phép biện chứng của các bậc tiền bối để
xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (C.Mác, 1847) và Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1848), chủ nghĩa Mác đã được trình bày như một chỉnh
thể các quan điểm nền tảng với ba bộ phận lý luận cấu thành. Trong tác phẩm Sự khốn cùng
của triết học, C.Mác đã đề xuất những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa xã hội khoa học và bước đầu thể hiện tư tưởng về giá trị thặng dư. Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm
này, cơ sở triết học được thể hiện sắc sảo trong sự thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh
tế và các quan điểm chính trị - xã hội. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm bước đầu
đã chỉ ra những quy luật vận động của lịch sử, thể hiện tư tưởng cơ bản về lý luận hình thái
kinh tế – xã hội. Theo tư tưởng đó, sản xuất vật chất có vai trò quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội; phương thức sản xuất vật chất quyết định quá trình sinh hoạt, đời sống chính
trị và đời sống tinh thần của xã hội. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng cho thấy từ khi có
giai cấp thì lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản chỉ có
thể tự giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể nhân loại. Với những
quan điểm cơ bản này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu toàn diện phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra rằng: việc tách những người sản xuất nhỏ khỏi
tư liệu sản xuất bằng bạo lực là khởi điểm của sự xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Người lao động không còn tư liệu sản xuất để tự mình thực hiện các hoạt động lao
động, cho nên muốn lao động để có thu nhập, người lao động buộc phải bán sức lao động của
mình cho nhà tư bản. Sức lao động đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, người bán nó
trở thành công nhân làm thuê cho nhà tư bản. Giá trị do lao động của công nhân tạo ra lớn
hơn giá trị sức lao động của họ, hình thành nên giá trị thặng dư nhưng nó lại không thuộc về
người lao động mà thuộc về người nắm giữ tư liệu sản xuất, là nhà tư bản.
3

Như vậy, bằng việc tìm ra nguồn gốc của việc hình thành giá trị thặng dư, C.Mác đã
chỉ ra bản chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, cho dù bản chất này đã bị che đậy bởi quan
hệ tiền - hàng.
Lý luận về giá trị thặng dư được C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu và trình bày toàn
diện, sâu sắc trong bộ Tư bản. Lý luận này đã trình bày hệ thống các quy luật vận động và
phát triển của xã hôi, cho thấy sự vận động và phát triển ấy là một quá trình lịch sử - tự nhiên
thông qua sự tác động biện chhứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển trong tác
phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (C.Mác, 1875). Trong tác phẩm này, những vấn đề về nhà
nước chuyên chính vô sản, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, những
giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản, v.v…
c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
- Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang một
giai đoạn mới là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư
bản ngày càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng sâu sắc mà điển hình là
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản. Tại các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc tạo nên sự thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô
sản, giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp công nhân ở chính quốc. Trung tâm của
các cuộc cách mạng giai đoạn này là nước Nga. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga
dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích đã trở thành ngọn cờ của cách mạng thế giới.
- Vai trò V.I.Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
Vladimir Ilich Lenin, sinh ngày 22/4/1870 tại Xim biếc (Simbirsk) nước Nga trong một gia
đình trung lưu, cha là giáo viên dạy lịch sử và tiếng Latinh có tư tưởng tiến bộ. V.I.Lênin tốt
nghiệp thủ khoa ngành Luật Đại học Saint Peterburg năm 1891. V.I.Lênin là người kế sự
nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen.
Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành ba thời kỳ,
tương ứng với ba nhu cầu cơ bản khác nhau của thực tiễn, đó là:
+ Thời kỳ từ 1893 đến 1907

+ Thời kỳ từ 1907 đến 1917
+ Thời kỳ từ sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công (1917)
đến khi V.I.Lênin từ trần ( 21/1/1924).
Những tác phẩm Những “người bạn dân là thế nào” và họ đấu tranh chống những
người dân chủ – xã hội ra sao? (1894) của V.I.Lênin vừa phê phán tính chất duy tâm và
những sai lầm nghiêm trọng của phái dân túy khi nhận thức những vấn đề lịch sử – xã hội,
vừa vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa ranh giới
giữa phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm Làm gì? (1902) V.I.Lênin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác
về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành chính quyền.
4
Cuộc cách mạng Nga 1905 – 1907 thất bại. Thực tiễn cuộc cách mạng này được
V.I.Lênin tổng kết trong tác phẩm Hai sách lược của đảng dân chủ – xã hội trong cách mạng
dân chủ (1905). đã được Lênin phát triển những vấn đề về phương pháp cách mạng, nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan, vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của các đảng chính
trị, v.v… trong cách mạng tư sản giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Những năm 1907 – 1917 là những năm vật lý học có cuộc khủng hoảng về thế giới
quan đã tác động đến việc xuất hiện nhiều tư tưởng duy tâm theo quan điểm của chủ nghĩa
Makhơ phủ nhận chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin đã tổng kết toàn bộ thành tựu khoa học tự nhiên
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; tổng kết những sự kiện lịch sử giai đoạn này để viết tác
phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909). Bằng việc đưa ra định
nghĩa về vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
những nguyên tắc của nhận thức, v.v…
Trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác (1913), về
phép biện chứng trong Bút ký triết học (1914 – 1916), về nhà nước chuyên chính vô sản, bạo
lực cách mạng, vai trò của Đảng Cộng Sản và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
Nhà nước và cách mạng (1917), v.v…
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời đại mới – thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Sự kiện này làm nảy sinh
những nhu cầu mới về lý luận mà C.Mác, Ph.Ăngghen chưa được đặt ra. V.I.Lênin đã tổng

kết thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác về sự thắng lợi của giai cấp vô sản, về chiến lược và sách lược của các đảng vô sản
trong điều kiện lịch sử mới, về thời kỳ quá độ, về kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
chính sách kinh tế mới (NEP), v.v… qua một loạt các tác phẩm nổi tiếng như: Bệnh ấu trĩ
“tả khuynh” trong phong trào cộng sản (1920), Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt
và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki và Bukharin (1921), Về chính sách kinh tế
mới (1921), Bàn về thuế lương thực (1921), v.v…
Ngày 30/8/1918, V.I.Lênin bị bọn” xã hội cách mạng” mưu sát. Ong mất ngày
21/1/1924 tại làng Gorki( ngoại ô Matxcơva).
Với những cống hiến to lớn ở cả ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác, tên tuổi
của V.I.Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa này, đánh dấu bước phát triển toàn diện của chủ
nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
d. Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Cuộc cách mạng tháng 3 năm 1871 ở Pháp (Công xã Pari) có thể coi đây một nhà nước
kiểu mới – nhà nước chuyên chính vô sản được thành lập.
Tháng 8 năm 1903 Đảng Bônsêvích Nga được thành lập đến năm 1905 đã thực hiện một
cuộc diễn tập đầu tiên của giai cấp vô sản, đến tháng Mười năm 1917, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa thắng lợi mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng minh tính hiện thực của
chủ nghĩa Mác – Lênin trong lịch sử. Năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập; năm
1922, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô - viết ra đời. Với sức mạnh của liên minh,
công cuộc chống phát-xít trong Chiến tranh thế giới lần thứ II không chỉ bảo vệ được thành
quả của giai cấp vô sản mà còn đưa chủ nghĩa xã hội phát triển ra ngoài biên giới LiênXô,
5
hình thành nên cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu, với các thành viên
như Mông Cổ, Ba Lan, Rumani, Hunggari, Việt Nam, Tiệp Khắc, Nam Tư, Anbani, Bungari,
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa dân chủ Đức, Trung Quốc, Cu Ba. Sự kiện
này đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là hệ thống duy nhất.
Những sự kiện trên đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
toàn thế giới; thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân các
nước thuộc địa. Vai trò định hướng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đem lại những thành quả

lớn lao cho sự nghiệp vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, và ngay cả khi
hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào thoái trào thì tư tưởng xã hội chủ nghĩa
vẫn tồn tại, chủ nghĩa xã hội vẫn được khẳng định ở nhiều quốc gia và chiều hướng đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa ở các nước khu vực Mỹ Latinh.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa Mác – Lênin, bao gồm triết học, kinh tế- chính
trị, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mục đích của việc học tập, nghiên cứu môn học “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin” là: nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ
nghĩa Mác – Lênin; hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lý tưởng cách mạng.
2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu
- Thứ nhất, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin được thể hiện trong những
bối cảnh cụ thể khác nhau, nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể khác nhau; học tập, nghiên
cứu chủ nghĩa Mác – Lênin cần phải hiểu thực chất của nó; chống học theo lối kinh viện,
giáo điều.
- Thứ hai, sự hình thành, phát triển những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là
một quá trình. Trong quá trình ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin có quan hệ
mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ nhau; vì vậy, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin phải đặt chúng trong mối liên hệ với các luận điểm khác để thấy được sự
thống nhất trong tính đa dạng và nhất quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ nghĩa
Mác – Lênin nói chung.
- Thứ ba, học tập, nghiên cứu những nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin là để hiểu rõ
cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong từng giai đoạn lịch sử.
- Thứ tư, học tập, nghiên cứu, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin để
đáp ứng những yêu cầu của con người Việt Nam trong giai đoạn mới; vì vậy, phải tự giáo
dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình trong đời sống cá nhân cũng như

trong đời sống cộng đồng xã hội.
- Thứ năm, chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là hệ thống lý luận bất biến, mà trái lại
đó là hệ thống lý luận không ngừng phát triển trên cơ sở phát triển của thực tiễn thời đại; vì
vậy, quá trình học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin đồng
6
thời cũng phải là quá trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa
học vốn có của nó.
7
Chương I
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Sự đối lập của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong quá trình nhận thức thế giới, mọi triết học đều phải trả lời cu hỏi thế giới xung
quanh ta l gì, do đâu mà có, chúng có thực hay không? Vì vậy, vấn đề tồn tại của thế giới
có thực hay không đ được đặt ra cho cả triết học Phương Đông lẫn triết học Phương Tây,
cả duy tâm lẫn duy vật. Nhìn chung cc nhà triết học duy tâm đều xem tồn tại của thế giới
là do có một lực lượng tinh thần siêu nhiên có trước, sáng tạo ra thế giới. Thế giới vật chất
đang tồn tại chỉ là bản sao của thế giới tinh thần. Chủ nghĩa duy vật phủ nhận giả thuyết
này và cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, không sinh ra, không mất đi, luôn luôn
vận động từ trạng thái này sang trạng thái khác, tồn tại khách quan. Trên cơ sở đó mà mọi
triết họcđều phải giải quyết hai vấn đề:
+ Một là, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào?
+ Hai là, tư duy của con người có phản ánh trung thực thế giới khách quan không? Con
người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
- Để giải đáp hai vấn đề nêu trên mà trong lịch sử triết học đ hình thnh cc trường phái
triết học khác nhau, nhưng chung quy, cũng chỉ có hai trường phái là duy tâm và duy vật.
2. Các trường phái triết học
a. Triết học duy tâm:
Cùng là chủ nghĩa duy tâm, nhưng triết học duy tâm khch quan coi ý thức như là một

cái gì huyền bí, cĩ trước thế giới vật chất, sinh ra mọi sự vật. Được Pla-tôn gọi là “ý niệm”
cịn Hê-ghen gọi là “ý niệm tuyệt đối” (Có thể coi đó là một lực lượng siêu nhiên huyền bí
có quyền năng tuyệt đối ). Cịn triết học duy tâm chủ quan đại biểu là Béc – cơ – li, Hi –
um, Phích – tơ cũng cho rằng ý thức có trước, nhưng không phải là một lực lượng siêu
nhiên huyền bí từ bên ngoài đưa vào mà họ coi cảm giác của con người quyết định tồn tại (
không“ cảm giác” được, thì sự vật không có ). Ngoài ra còn có thuyết nhị nguyên, coi vật
chất và ý thức là hai nguyên thể đầu tiên, cùng tồn tại độc lập. Thực chất, thuyết nhị
nguyên cũng là một dạng của chủ nghĩa duy tâm.
Tóm lại: triết học duy tâm đã tuyệt đối hoá vai trị của ý thức, phủ nhận hiện thực
khách quan, phủ nhận khả năng nhận thức của con người, làm cho con người trở nên thụ
động, bất lực trước mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội. Do đó triết học duy tâm thường được
8
tôn giáo sử dụng làm cơ sở lý luận để giải thích thế giới xung quanh chúng ta do đâu mà
có, con người từ đầu sinh ra, chết rồi sẽ đi về đâu. Tuy nhiên cũng có sự khác nhau giữa
duy tâm trong triết học với duy tâm trong tôn giáo. Thế giới quan tôn giáo, lịng tin đóng
vai trị chủ đạo, cịn chủ nghĩa duy tm trong triết học lại là sản phẩm của tư duy trừu tượng.
b.Triết học duy vật:
+ Mở đầu là triết học duy vật ngây thơ chất phác thời cổ đại. Tiêu biểu là triết học
Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Thời kỳ này các nhà triết học duy vật cũng đ khẳng định
thế giới xung quanh chúng ta là thế giới vật chất, không do ai sinh ra, không mất đi, nhưng
lại đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể nào đó.
+ Triết học duy vật siu hình đại biểu là Tô – mát – hốp – xơ người Anh (1588-1679
). Quan niệm, các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập không phụ thuộc vào nhau, không coi
đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc là động lực của sự phát triển. Tuy không phản
ánh đúng hiện thực, nhưng triết học duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vô việc
chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo thời bấy giờ.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăng – ghen xây dựng vào những năm
40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Ngay từ khi mới ra đời nó đã khắc phục
được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình, vì
nó đã phản ánh đúng hiện thực khách quan, nó đã trở thành công cụ giúp những lực lượng

tiến bộ chinh phục và cải tạo thế giới
II. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Phạm trù vật chất.
a. Các quan điểm duy vật trước Mác quan niệm về vật chất.
Ngay từ thời cổ đại các nhà triết học duy vật cũng đã phủ nhận vai trị của thần linh
sinh ra thế giới vật chất. Nhưng, để trả lời cho câu hỏi cái gì đã sinh ra mọi sự vật trong
thế giới này. Trên tinh thần ấy mà các nhà triết học duy vật thời cổ đại đã cố gắng đi tìm
và giải thích cội nguồn của thế giới vật chất. Do trình độ của khoa học chưa phát triển, sự
hiểu biết còn giới hạn, vì vậy hầu hết các nhà triết học thời đó đều cho rằng cái đầu tiên
tạo nên thế giới vật chất là một dạng vật chất cụ thể nào đó như: nước, lửa, không khí…
về sau Đê –mô – crít ước đoán dạng vật chất đầu tiên tạo nên các sự vật, hiện tượng trong
thế giới vật chất là nguyên tử, và từ đó dẫn đến thói quen xem vật chất là một vật thể ban
đầu nào đó, có giới hạn cuối cùng, không biến đổi, không thể phân chia. Quan điểm này
càng được khẳng định ở thế kỷ XVIII khi Niu – tơn phát hiện dạng vật chất có khối lượng
9
nhỏ nhất là nguyên tử và từ đó trở đi người ta đ đồng nhất vật chất với nguyên tử. Nhưng
đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
khoa học vật lý. Ví dụ: năm 1895 Rơn – ghen phát hiện ra tia X. 1896 Béc – cơ – nen pht
hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uran; 1897 Tôm – xơn phát hiện điện, điện tử;
1898 – 1902 ơng b Ma – ri – quy – ri khám phá ra các chất phóng xạ. Tất cả những phát
hiện đó đã nói lên rằng, nguyên tử không phải l phần tử nhỏ nhất, mà nó còn có thể bị
phân rã chuyển hóa, lợi dụng cơ hội này các nhà triết học duy tâm đã phản công. Rằng:
không có thế giới vật chất, vật chất đã biến mất, đã gây ra một cuộc khủng hoảng về thế
giới quan của chủ nghĩa duy vật, từ đó đã có một số nhà triết học đang từ chủ nghĩa duy
vật siêu hình máy móc đã chuyển sang chủ nghĩa hoài nghi rồi ngã về chủ nghĩa duy tâm.
Lênin cho rằng: đó là “một bước ngoặt nhất thời, là một thời kỳ ốm đau của lịch sử khoa
học và triết học, một chứng bệnh của trưởng thành ”. Để giải quyết cuộc khủng hoảng
này. Lênin đã khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời đó, ông đã đưa ra
định nghĩa về vật chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn phải thừa

nhận tính đúng đắn của nó.
b. Định nghĩa vật chất của Lênin: “ vật chất là một phạm trù (khái niệm ) triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta sao lại, chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác ”.
- Định nghĩa vật chất của Lênin có hai vấn đề cơ bản cần nắm vững:
+ Vấn đề thứ nhất: vật chất là một khái niệm dùng để chỉ thực tại khách quan...
Có nghĩa là thế giới xung quanh chúng ta có vô vàn các sự vật và hiện tượng khác nhau
nhưng chúng đều có chung một đặc tính giống nhau, là tính vật chất (tồn tại khách quan,
không sinh ra, không mất đi). Do đó, chúng ta không được nhầm lẫn khái niệm vật chất
nói chung với các sự vật cụ thể. Các sự vật cụ thể nó có quá trình sinh ra rồi mất đi, nhưng
tính vật chất của nó không mất đi mà nó chỉ chuyển từ dạng vật chất cụ thể này sang dạng
vật chất cụ thể khác thông qua vận động, do đó, một hình thức vận động nào đó của vật
chất mất đi, tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế. Như vậy, vật chất
không biến mất, vật chất không phải là vô hình mà người ta vẫn có thể biết được vật chất
tồn tại dưới dạng các sự vật cụ thể khác thông qua vận động.
+ Vấn đề thứ hai: vật chất là một khái niệm dùng để chỉ thực tại khách quan, đem
lại cho con người cảm giác, có nghĩa là, thế giới khách quan tác động vào các giác quan
của con người, nhờ có sự phản xạ của hệ thần kinh chuyển về bộ óc mà con người nhận
10
biết được nó là cái gì, (tức ý thức). Như vậy, vật chất là cái phải có trước, ý thức cĩ sau. Ý
thức chỉ là sự sao lại, chụp lại, chép lại (lưu giữ lại trong bộ óc). Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
- Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội cơ bản sau đây:
+ Một là, định nghĩa đã khái quát được thuộc tính bản chất nhất của vật chất là tồn
tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người, không sinh ra không mất đi, mà
chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
+ Hai là, định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp được vấn đề cơ bản của triết
học. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
+ Ba là, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được tính siêu hình của chủ

nghĩa duy vật cũ quy vật chất vo một dạng tồn tại cụ thể no đó, bác bỏ những quan niệm
sai lầm của chủ nghĩa duy tâm ( ý thức có trước ).
+ Bốn là, định nghĩa vật chất của Lênin là cơ sở cho các khoa học phát triển, đem
lại niềm tin cho con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới bằng chính sức lực, trí
tuệ của chính mình chứ không phải chờ đợi ở một phép màu nào đó.
Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát được cả về thế giới quan cũng
như về phương pháp luận, cả về lý luận và thực tiễn. Nó đã khắc phục được tư tưởng của
triết học duy vật chất phác, triết học siêu hình, là cơ sở lý luận vững chắc để bác bỏ triết
học duy tâm một cách triệt để, vạch đường cho khoa học và những tư tưởng tiến bộ.
c. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó
- Theo Ph.Ăng - ghen: “ Vận động được hiểu theo nghĩa chung nhất là bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy ”,
vận động là sự biến đổi nói chung. Vận động “ là thuộc tính cố hữu của vật chất ”. Vận
động “ là phương thức tồn tại của vật chất ”. Điều này có nghĩa là người ta biết được vật
chất tồn tại dưới các dạng cụ thể thông qua vận động ở giai đoạn đứng im tương đối.
Thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện, bộc lộ nó là cái gì. Do đó, không thể
có vật chất mà không có vận động và ngược lại không có sự vận động nào lại không phải
là vận động của vật chất, không thuộc về vật chất.
Với tính cách vận động “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, tự thân vận động.
Nguyên nhân của sự vận động ấy là do kết quả sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố
nội tại trong cấu trúc của vật chất gây ra. Do đó vận động của vật chất là vô tận, không
sinh ra, không mất đi là một thuộc tính không thể tách rời vật chất. Nếu một hình thức vận
11
động nào đó của vật chất mất đi, tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế.
Trên tinh thần đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, vận động là phương thức tồn
tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm tất cả mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, từ
sự vật nhỏ như là nguyên tử, tế bào của thực vật, động vật cho đến các thiên thể, các hành
tinh trong vũ trụ cho đến tư duy đều vận động không ngừng...Trong quá trình tồn tại các
sự vật, hiện tượng không những vận động mà chúng còn có liên hệ với nhau, không tách
rời nhau, ràng buộc lẫn nhau, mối liên hệ ấy không những chỉ xảy ra giữa sự vật này với

sự vật khác mà ngay trong bản thân một sự vật, hiện tượng cũng đã có mối liên hệ.
Ví dụ, trong một nguyên tử có các hạt prôtôn và nơtron tạo thành hạt nhân (mang
điện dương +), còn các lectrơn xoay xung quanh hạt nhân với tốc độ rất lớn (mang điện
âm -) đối lập với nhau, nhưng những mặt đối lập trái ngược nhau ấy chúng lại có liên hệ
với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, không thể thiếu nhau. Hoặc trong một tế
bào ta cũng thấy, mỗi bộ phận của tế bào đảm nhận những chức năng riêng biệt, nhưng
chúng đều có mối liên hệ với nhau thành một chỉnh thể.
Hoặc giữa trái đất của chúng ta với các hành tinh trong hệ mặt trời cũng không
ngừng vận động và có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau bằng lực hút và lực đẩy, còn trong x
hội thì những mối liên hệ lại càng phức tạp hơn, như sự liên hệ giữa công nghiệp với nông
nghiệp, giữa chăn nuôi với trồng trọt, giữa sản xuất với tiêu dùng, và trong sự phát triển
cũng là kết quả của sự liên hệ nối tiếp kế thừa của quá trình trước với các quá trình sau.
Những mối liên hệ đó hình thành khách quan ngồi ý chí của con người, nó là hiện tượng
khách quan vốn có của các sự vật hiện tượng cả ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc của mọi sự vận động nằm ngay bên trong bản thân của sự vật, chứ
không phải từ bên ngoài, tức “tự thân vận động”. Nhờ có sự vận động, vật chất mới bộc lộ
ra là cái gì. Cho nn muốn nhận thức được sự vật phải nghiên cứu chúng trong trạng thái
vận động, vì vậy nhiệm vụ của mọi khoa học không có gì khác là nghiên cứu sự vận động
của vật chất.
d. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:
+ Một là, vận động cơ học của các vật thể trong không gian.
+ Hai là, vận động vật lý, là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản
+ Ba là, vận động hóa học là các quá trình hóa hợp và phân giải các chất.
+ Bốn là, vận động sinh vật là sự trao đổi chất trong cơ thể sống.
+ Năm là, vận động xã hội là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội.
12
Mỗi hình thức vận động cơ bản lại bao hàm rất nhiều hình thức vận động khác
nhau, song lại có quan hệ với nhau. Hình thức vận động cao được thực hiện thông qua các
hình thức vận động thấp. Nếu không có sự thay đổi hĩa học thì sẽ không có sự thay đổi về
nhiệt độ; nếu không có sự vận động của vô cơ, thì cũng không có đời sống hữu cơ.

e. Vận động và đứng im:
- Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, đứng im chỉ là tạm thời
- Đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định, ví dụ: con tàu đứng im là trong
mối quan hệ với bến cảng, còn trong mối quan hệ với mặt trời và các thiên thể khác thì nó
đang vận động trong sự vận động của trái đất.
- Đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, chứ không phải với mọi
hình thức vận động trong cùng một lúc. Nói con tàu đứng im nhưng trong bản thân nó thì
sự vận động về vật lý, vận động về hoá học vẫn đang diễn ra.
- Đứng im, tức là vận động trong thăng bằng, dưới dạng sự vật cụ thể.
- Đứng im chỉ là tạm thời, nghĩa là không có sự vật nó tồn tại vĩnh viễn.
f. Vật chất vận động trong không gian và thời gian
- Vật chất luôn luôn vận động trong không gian và thời gian, có nghĩa là, bất cứ sự
vật, hiện tượng nào trong quá trình tồn tại đều có kích thước to nhỏ khác nhau, thời gian
tồn tại của sự vật ngắn hay di.
+ Không gian có ba chiều, chiều di, chiều rộng, chiều cao.
+ Thời gian chỉ có một chiều từ quá khứ đến tương lai.
Còn khi niệm “ không gian nhiều chiều ” mà ta thường thấy trong tài liệu khoa học
là khái niệm trừu tượng của khoa học dùng để chỉ tập hợp một số đại lượng đặc trưng cho
các thuộc tính khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân theo những nguyên tắc biến đổi
nhất định. Đó là một công cụ toán học dùng để nghiên cứu chứ không phải để chỉ không
gian thực, không gian thực chỉ có ba chiều.
2. Ý thức, nguồn gốc, Kết cấu của ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức là gì, do đâu mà có, để trả lời cho câu hỏi này mà trong lịch sử triết học đã
có nhiều quan điểm khác nhau:
13
- Triết học duy tâm quan niệm, ý thức là một thực thể độc lập không phụ thuộc vào
thế giới vật chất, có trước thế giới vật chất, sáng tạo ra thế giới vật chất và chi phối thế
giới vật chất được Pla - tôn gọi là “ ý niệm ”, H - ghen gọi là “ ý niệm tuyệt đối ”
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên này của ý

thức, nhưng lại cho rằng tư tưởng được tiết ra từ óc cũng như gan tiết ra mật.
- Trên cơ sở tổng kết thành tựu của nhiều khoa học, đặc biệt là khoa học sinh lý hệ
thần kinh. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác bác bỏ những quan niệm sai lầm trên và đưa
ra nhận định mới về nguồn gốc của ý thức: ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng
không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ
chức cao là bộ óc người có chức năng phản ánh, nhưng không phải là phản ánh giản đơn,
mà là phản ánh năng động sáng tạo.
- Trước hết chúng ta đều biết: phản ánh là thuộc tính vốn có của mọi đối tượng vật
chất. Ví dụ:
+ Phản ánh của giới vô cơ như mặt nước, mặt gương phản chiếu ánh sáng. Sự phản
ánh này mang tính đơn giản, không phân biệt, không lựa chọn.
+ Phản ánh của thực vật như hoa hướng dương biết hướng về phía mặt trời để hấp
thụ được nhiều năng lượng, rễ cây phát triển mạnh về hướng có nhiều phân. Sự phản ánh
này đã có sự lựa chọn.
+ Phản ánh của động vật lại phát triển cao hơn một bậc dưới dạng cảm giác, tri giác
và biểu tượng là nhờ có hệ thống thần kinh và bộ óc .
Nếu vậy, các loài động vật chúng có ý thức không? Trả lời rằng không, chỉ con
người mới có ý thức. Phản ánh dưới dạng cảm giác, tri giác và biểu tượng đó mới chỉ là
hiện tượng sinh lý và tâm lý chung của động vật, chứ chưa phải là ý thức. Ý thức chỉ được
hình thành gắn liền với lao động và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới có thể xuất
hiện. Như vậy, sự ra đời của ý thức có hai nguồn gốc:
- Nguồn gốc tự nhiên là bộ óc người, có chức năng phản ảnh:
Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, nó cũng có một quá trình tiến hóa lâu
dài hàng tỷ năm cùng với sự hình thành của trái đất, từ mầm sống đầu tiên và phát triển
đến đỉnh cao nhất của sự tiến hoá là xuất hiện loài người. Bộ óc người (nặng trung bình
1,7 kg có khoảng15 tỉ tế bo), có chức năng thu nhận và điều khiển cơ thể với thế giới bên
ngoài, nhờ đó mà chúng ta mới biết được mùi vị, âm thanh, màu sắc, nóng lạnh. Được Páp
- lốp nhà sinh vật học người Nga gọi là phản xạ có điều kiện và không có điều kiện. Do
14
đó, khi bộ óc bị tổn thương thì phản xạ sẽ khơng chính xác nữa. Nếu vậy thì con vật có ý

thức không? Trả lời rằng không, chỉ có con người mới có ý thức. Như vậy, rõ ràng là ở
con người có một cái gì đó đặc biệt. Cái đặc biệt chính là thông qua lao động, vượn biến
thành người và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới xuất hiện.
b. Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể thiếu được,
nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là lao động .
- Lao động là điều kiện chủ yếu để con người tồn tại, phát triển. Đó là sự khác nhau
căn bản giữa con người với động vật. Nếu như ở động vật kinh nghiệm sống được truyền
qua bản năng di truyền, như đ được cài đặt sẵn trong bộ gien, chúng chỉ biết sử dụng các
sản phẩm có sẵn trong tự nhiên, nhưng những thứ đó không còn nữa thì con vật sẽ bị chết
đói, nhưng con người thì hoàn toàn khác, con người không những biết sử dụng các thứ có
sẵn trong tự nhiên mà còn tìm tòi, khám phá, chinh phục, cải tạo tự nhiên theo ý đồ của
mình, nhờ đó mà con người dần dần nhận biết được những thuộc tính, những kết cấu,
những quy luật vận động của tự nhiên, của xã hội dưới dạng những kinh nghiệm, những tri
thức, nhờ vậy mà kho tàng tri thức của loài người ngày càng được bổ sung thêm phong
phú. Vì vậy, ý thức không thể là từ bên ngoài đưa vào trong bộ óc, mà nó được hình thành
từ khám phá và cải tạo thế giới khách quan, từ lao động sản xuất gắn liền với sự ra đời của
ngôn ngữ.
- Lao động không phải là một hoạt động đơn lẻ, mà ngay từ buổi đầu sơ khai con
người đã biết quy tụ lại với nhau mang tính tập thể, tính xã hội. Vì vậy, trong quá trình lao
động tập thể đã nảy sinh nhu cầu cần phải trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động tập
thể mà từ đó cái cuống họng của loài vượn biến đổi dần dần thích ứng với một lối phát
âm ngày càng phát triển. Nhờ có lao động mà ngôn ngữ mới được hình thành. Nó đã trở
thành hệ thống tín hiệu mang nội dung của ý thức. Nếu không có hệ thống tín hiệu này thì
ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ là phương tiện, là công cụ để khái
quát hoá, trừu tượng hóa, ngôn ngữ dùng để giao tiếp, truyền kinh nghiệm từ người này
sang người khác, thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, ý thức không phải là hiện tượng
thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng mang tính lịch sử, tính xã hội. Nếu không có ngôn
ngữ thì xã hội không thể phát triển. Vì những lẽ trên, Ăng - ghen viết: “ Trước hết là lao
động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ

yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần biến chuyển thành bộ óc
con người ”.
15
c. Bản chất của ý thức
Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người nhưng không phải là sự
phản ánh giản đơn, mà phản ánh một cách năng động và sáng tạo. ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
- Để hiểu rõ hơn bản chất của ý thức, chúng ta phải biết rằng: cả vật chất và ý thức
đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Vật chất là cái được
phản ánh tồn tại khách quan, nhưng khi nó đã được chuyển vào trong đầu óc người ta thì
nó lại trở thành hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, (tức ý
thức). Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh (vật chất) với cái phản
ánh (ý thức).
- Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng nó
không phải như là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật, mà là sự phản
ánh năng động sáng tạo. Do đó chỉ con người mới có ý thức, ý thức được ra đời trong quá
trình con người hoạt động cải tạo thế giới, chính vì vậy C.Mc viết: ý thức “ chẳng qua chỉ
là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó ”.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện thống nhất của ba mặt sau:
- Một là, nhận thức của con người bao giờ cũng xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống
đặt ra, do đó những ý tưởng, tức sự suy tính phải có trước khi hành động, đó là quá trình
chọn lọc các thông tin, lựa chọn phương thức hành động, chứ không thụ động như ở động
vật.
- Hai là, những thông tin được sao, chép lại, dưới dạng hình ảnh tinh thần được
lưu giữ lại trong óc. Thực chất, đây là quá trình bắt đầu sáng tạo, có nghĩa là đối tượng vật
chất đã trở thành ý tưởng phi vật chất để rồi suy diễn, tưởng tượng theo ý tưởng của mình.
- Ba là, chuyển sự tưởng tượng từ trong óc ra bên ngoài, và bằng lao động con
người đã biến những ý tưởng thành hiện thực, giai đoạn này con người phải lựa chọn
những phương pháp, phương tiện, công cụ để tiến hành lao động nhằm đạt được mục tiêu

đề ra. Do đó chúng ta phải thấy được ý thức bao giờ cũng gắn liền với hoạt động thực tiễn,
chịu sự chi phối không chỉ bởi các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội, các
quy ước được hình thành trong quan hệ sản xuất, do đó ý thức mang bản chất xã hội và
lịch sử.
d. Kết cấu ý thức :
16
- Cấu trúc theo chiều ngang: gồm có tri thức và tình cảm.
+ Tri thức là kết quả nhận thức của con người về thế giới, được diễn đạt dưới hình
thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu. Được tách ra làm hai loại tri thức. Tri thức
thông thường, là những nhận thức thu nhận được từ hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân,
mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc chưa được hệ thống hoá. Tri thức khoa
học là những nhận thức đã được đúc kết từ thực tiễn thành lý luận, kinh nghiệm. Ngày
nay, tri thức đang là yếu tố giữ vai trị quyết định đối với sự phát triển kinh tế, vì vậy, đầu
tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bền vững.
+ Tình cảm là sự rung động của con người với xung quanh gây cho con người có
cảm giác vui buồn, yêu thương, căm giận… Vì vậy, một khi tri thức được gắn với tình
cảm thì hoạt động của con người sẽ được tăng thêm gấp bội lần.
-. Cấu trúc theo chiều dọc:
+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.
+ Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần như trở
thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng
tiềm tàng.
+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng
xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự kiểm tra, tính
toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau và chỉ là mắt khâu trong
cuộc sống có ý thức của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vai trò tác dụng của ý thức. Ý nghĩa
phương pháp luận
Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất
là cái có trước ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức,

song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người,
vì vậy con người phải tôn trọng thực tiễn khách quan, đồng thời phát huy tính năng động
chủ quan của mình.
a. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện :
+ Vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức, là cái có trước, cái được
phản ánh. Ý thức là cái có sau, là cái phản ánh
+ Vật chất là cái được phản ánh, nhưng khi những hình ảnh của vật chất, tức thế giới
khách quan đã được chuyển vào trong óc người ta ( sao chép, chép lại, chụp lại) thì nó lại trở
17
thành hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần của thế giới khách quan (tức ý thức). Chính vì
vậy, Mác viết “ Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó “.
+ Ý thức là cái phản ánh: Trước hết xét về nguồn gốc, ý thức là một thuộc tính của vật
chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất
sống có tổ chức cao là bộ óc người.
+ Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, có chức năng phản ánh, nhưng không
phải là sự phản ánh giản đơn, mà phản ánh mang tính năng động sáng tạo trên cơ sở gắn liền
với lao động và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới có thể xuất hiện, như vậy ý thức phụ
thuộc vo hoạt động của bộ óc người. Do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì nhận thức sẽ không
chính xác nữa. Vì vậy, khi chưa có bộ óc người thì không thể có ý thức.
b. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
Ý thức là sự phản ảnh thế giới khách quan hiện thực vào bộ óc con người, song ý
thức lại có khả năng cải tạo, làm thay đổi hiện thực khách quan, nhưng bản thân của ý thức
không thể tự nó làm thay đổi được hiện thực khách quan. Ý thức chỉ mới là khu nhận thức,
còn việc cải tạo hiện thực khách quan lại cần phải có sự nổ lực hành động của con người
thì lúc đó những ý tưởng, những sáng tạo mới có thể trở thành hiện thực được, do đó nhận
thức đúng được quy luật vận động của thế giới khách quan thì đó mới là cơ sở để hoạt
động của con người đạt được mục tiêu, và phương hướng đã đề ra. Ngược lại, ý thức của
con người phản ánh sai thế giới khách quan thì kết quả sẽ không thể đạt được như mong
muốn.

c. Vai trò của ý thức: nhờ có ý thức mà trong quá trình thực tiễn con người có thể
lựa chọn phương án, phương thức nào có hiệu quả nhất để hoạt động và biết phân biệt
được cái nào đúng, cái nào sai, lợi hại, cái gì nên làm, cái gì nên tránh.
d. Ý nghĩa và phương pháp luận:
Để phát huy được tính năng động chủ quan của con người thì trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, phải tôn trọng tính khách quan, do đó trong hoạt động nhận
thức, hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy thực tế khách
quan làm căn cứ cho hoạt động của mình chứ không được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chương trình hành động, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Trên cơ sở đó Đảng ta đã rút ra bài học “Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật khách
18
quan”. Để phát huy được nhân tố chủ quan, vai trò tích cực sáng tạo của ý thức nhằm đáp
ứng được yêu cầu xây dựng lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội mà nhiệm vụ trung tâm là phải công nghiệp hóa và hiện đại hoá, phải “lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, muốn
vậy “phải khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của
người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu”.


Chương II
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
19
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
- Khi niệm biện chứng: Biện chứng có nghĩa là, trong quá trình tồn tại các sự vật,
hiện tượng đều có liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, tác động
lẫn nhau trong trạng thái vận động biến đổi theo khuynh hướng phát triển đi lên. Nguồn
gốc của mọi sự vận động thay đổi ấy đều có nguyên nhân là do đấu tranh của các mặt đối

lập nằm ngay bên trong của sự vật.
- Có hai loại biện chứng: biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, (còn
được gọi là biện chứng siêu hình), quan niệm của biện chứng siêu hình cho rằng, các sự
vật hiện tượng trong quá trình tồn tại chúng không phụ thuộc vào nhau và không coi việc
đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc là động lực của sự phát triển, vì vậy, thuật ngữ
siêu hình cũng được dùng để chỉ những người có tư tưởng và hành động khi xem xét giải
quyết sự việc không đặt chúng trong mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác, mà coi
chúng tồn tại độc lập, tách rời không có liên hệ với nhau, mọi sự vật đều tồn tại ở trạng
thái tĩnh tại, không biến đổi.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
- Phép biện chứng thời cổ đại: các nhà triết học phương Đông và phương Tây thời
kỳ cổ đại đều cho rằng các sự vật, hiện tượng của thế giới luôn ở trạng thái sinh thành,
biến hóa trong mối liên hệ chằng chịt. Những quan niệm này mới chỉ là dựa trên cơ sở
quan sát trực quan, chưa có điều kiện để kiểm chứng bằng khoa học, mang tính ngây thơ
chất phác nhưng về cơ bản là đúng
- Phép biện chứng duy tâm: khởi đầu là triết học của Can - tơ, sau đó đã được Hê -
ghen trình bày thành một hệ thống. Song biện chứng của H - ghen là biện chứng duy tâm,
quan niệm thế giới tinh thần sản sinh ra thế giới vật chất, và cuối cùng thế giới vật chất lại
trở về với thế giới tinh thần.
- Phép biện chứng duy vật: trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa
học thời đó, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại, Mác và Ăng - ghen đã sáng
lập chủ nghĩa duy vật biện chứng, sau đó đã được Lênin tiếp tục phát triển hoàn thiện
thành một hệ thống hoàn chỉnh. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản: nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên lý về sự phát triển. Từ đó rút ra ba quan điểm: toàn
diện, phát triển, lịch sử cụ thể.
2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
- Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập trên nền
tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
20
- Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất

giữa thế giới và phương pháp luận, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn
là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
II. HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Những nhà triết học siêu hình cho rằng giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới
chúng không có liên hệ với nhau, tách rời nhau, cái nào riêng cái ấy, cái này bên cạnh cái
kia, nếu chúng có liên hệ với nhau thì cũng chỉ là mối liên hệ bên ngoài.
- Xuất phát từ quan điểm, thế giới thống nhất ở tính vật chất, có chung một nguồn
gốc. Triết học duy vật biện chứng khẳng định: các
sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại chúng
đều có liên hệ với nhau. Mối liên hệ được biểu
hiện dưới các dạng: không thể thiếu nhau, không
tách rời nhau, ràng buộc lẫn nhau, tác động qua lại
lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, sự vật này tồn tại
được là nhờ dựa vào sự vật hiện tượng khác, nếu
sự vật này thay đổi thì sự vật hiện tượng khác sớm
muộn cũng sẽ thay đổi theo. Những mối liên hệ ấy
không những chỉ xảy ra giữa sự vật này với sự vật khác mà ngay trong bản thân một sự
vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ. Ví dụ, trong nguyên tử có những êlectrôn mang điện
âm, xoay xung quanh hạt nhân mang điện dương, đối lập với nhau, nhưng chúng lại có
liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, không thể thiếu nhau bằng lực
hút và lực đẩy. Nếu vỏ nguyên tử mất đi một hoặc nhiều êlectrôn thì sẽ làm cho nguyên tử
đó không còn cân bằng về điện, sẽ trở thành Ion dương, và ngược lại .
Hoặc trong một tế bào ta cũng thấy (tế bào động vật) gồm có:
1/ Màng tế bào: bảo vệ các bào quan bên trong tế bào.
2/ Tế bào chất:
- Mạng lưới nội chất:
+ Có hạt: tổng hợp protein cho tế bo.
+ Không hạt: tổng hợp lipit, gluxit cho tế bo.
- Ribosome: tham gia quá trình sinh tổng hợp protein.

- Ty thể: tổng hợp năng lượng cho tế bào hoạt động.
- Lyzosome: thực hiện chức năng tiêu hoá cho tế bào.
21
electron
proton
neutron
- Bộ Golgi: tham gia quá trình bài tiết cho tế bào (thải các chất cặn bã).
- Trung thể:
trung tâm điều khiển và
tham gia vào quá trình
phân chia tế bo.
3/ Nhân:
- Màng nhân:
bảo vệ nhân bên trong.
- Hạt nhân: tổng
hợp và hình thành
ribosome.
- Chất nhiễm sắc: là cơ sở chủ yếu của sự di truyền.
- Chức năng của nhn:
+ Lưu trữ và truyền đạt thông tin di truyền.
+ Duy trì sự sống cho tế bo.
Chúng ta thấy mỗi bộ phận của tế bào đảm nhận những chức năng riêng biệt, nhưng
chúng đều có mối liên hệ với nhau không thể tách rời nhau để tạo thành một chỉnh thể. Do
đó, nếu có một chức năng nào đó của tế bào hư hỏng thì các bộ phận khác của tế bo cũng
sẽ không hoạt động bình thường được nữa.
- Hoặc giữa trái đất của chúng ta với các hành tinh trong hệ mặt trời cũng có mối
liên hệ ràng buộc lẫn nhau bằng lực hút và lực đẩy, nếu có một hành tinh nào đó bị huỷ
diệt thì nó sẽ ko theo cả hệ mặt trời thay đổi. Còn trong xã hội thì những mối liên hệ lại
càng phức tạp hơn, Ví dụ: Người nông dân muốn cày ruộng phải có cái cày, cái bừa,
nhưng những thứ đó lại do người công nhân sản xuất. Để sản xuất cày, bừa phải có

nguyên liệu như sắt, thép, v.v… sắt thép lại phụ thuộc vào người khai thác quặng, nghĩa
là con người không thể sản xuất đơn độc được mà phải dựa vào nhau, phụ thuộc vào
nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi.
Tóm lại, liên hệ là một khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện
tượng. Liên hệ là khách quan, phổ biến, đa dạng vốn có của các sự vật hiện tượng cả ở
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
22
- Thế nào là mối liên hệ phổ biến: tính phổ biến được biểu hiện nó xảy ra ở cả tự
nhiên, xã hội và tư duy.
- Thế nào là tính khách quan của mối liên hệ: tính khách quan của mối liên hệ biểu
hiện nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Thế nào là mối liên hệ đa dạng, phong phú: tính đa dạng, phong phú được biểu
hiện liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ yếu, liên hệ bản chất,
liên hệ không bản chất, liên hệ tất nhiên, liên hệ ngẫu nhiên…
+ Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trị quyết
định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật.
+ Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Mối
liên hệ này nhìn chung không giữ vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động, phát triển
của sự vật, và nếu có nó cũng phải thông qua mối liên hệ bên trong mới thực hiện được.
Ví dụ, sự lĩnh hội tri thức của người học được quyết định bởi chính người đó, còn
sự tác động bên ngoài dù có tốt mấy đi chăng nữa mà người học không chịu học thì không
có cách nào đưa tri thức vào anh ta được, hoặc thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức
nó vừa tạo nên thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước chậm và kém phát triển như
nước ta. Đất nước ta có tranh thủ thời cơ, vượt qua được thử thách để trở thành con rồng,
con hổ của Châu Á hay không, trước hết phải phụ thuộc vào trình độ của nhân dân ta, và
nếu chúng ta không vượt qua được thử thách này thì cũng sẽ không xây dựng được một
nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Nguyên lý về sự phát triển

Để trả lời cho câu hỏi, các sự vật và hiện tượng trong thế giới trong quá trình vận
động diễn ra như thế nào mà từ đó trong lịch sử triết học đã có những quan điểm khác
nhau:
a. Quan điểm siêu hình:
Những nhà triết học duy vật trước Mác xem sự vận động phát triển của thế giới chỉ
là sự tăng lên hay giảm đi về lượng mà không có sự thay đổi về chất, tức là sự vật ra đời
như thế nào thì trong quá trình vận động, chất của nó vẫn được giữ nguyên, nếu có thay
đổi thì cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới,
chất mới. Sự phát triển là một qua trình tiến lên liên tục.
b. Quan điểm biện chứng (nội dung của nguyên lý):
23
Đối lập với phương pháp siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: mọi
sự vật hiện tượng trong thế giới đều vận động biến đổi, chuyển hoá từ trạng thái này sang
trạng thái khác. Sự vận động biến đổi ấy là vô cùng tận không có kết thúc, có nhiều tính
chất, khuynh hướng khác nhau, có sự vận động biến đổi từ thấp tới cao, trái lại có sự vận
động biến đổi dẫn đến tan rã, đi xuống thụt lùi. Do đó, khái niệm vận động nói chung và
khái niệm phát triển không đồng nghĩa với nhau. Vì vậy, chúng ta phải xác định: phát
triển là nói về sự vận động theo một xu hướng đi lên, có đặc điểm tiến lên từ thấp tới cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, cái mới thay thế cho cái
cũ đã lỗi thời, nhưng không loại bỏ hoàn toàn cái cũ mà kế thừa, chọn lọc cái cũ.
+ Phát triển không phải diễn ra theo một con đường thẳng tắp mà quanh co, phức
tạp theo đường vòng xoáy trôn ốc giống như lặp lại cái cũ nhưng cao hơn.
+ Phát triển là quá trình tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Nguồn gốc của sự phát triển là do mâu thuẫn nằm ngay bên trong của sự vật đấu
tranh với nhau, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí của con người.
+ Phát triển là khách quan phổ biến, vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực từ tự nhiên cho
đến xã hội và cả trong tư duy.
Chứng minh và phân tích nguyên lý phát triển:
+ Phát triển là một quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Ví dụ: Trái Đất của chúng ta đã trải qua

hàng tỷ năm biến đổi phức tạp, đến một mức phát triển nào đó, trên mặt đất xuất hiện sự
sống, từ đơn bào đến đa bào và đỉnh cao nhất của sự tiến hoá là con người, trong xã hội
loài người, sự biến đổi và phát triển lại càng diễn ra nhanh chóng bằng nhiều phương thức
sản xuất kế tiếp trong lịch sử. So với thời thượng cổ, thời đại ngày nay đã đạt đến trình độ
phát triển với tốc độ phi thường, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ
trên mọi lĩnh vực. Do đó phép biện chứng yêu cầu chúng ta phải hướng tới cái mới, phát
hiện ra nó, nhìn về phía trước, bồi dưỡng cho cái mới mau lớn mạnh, hoạt động theo
hướng tiến lên.
+ Phát triển là một quá trình tích luỹ dần dần về lượng, dẫn đến sự thay đổi về chất,
nhưng do điều kiện mà có thể có những khuynh hướng vận động dẫn đến sự thay đổi về
chất. Ví dụ: trong giới sinh vật, do điều kiện hoàn cảnh mà có sự đột biến về gien thì
những đặc trưng trước đây của sự vật cũ không còn nữa chúng dần dần ổn định và thích
ứng với môi trường làm xuất hiện một giống loài mới, chẳng hạn như vi rút cúm gà chúng
24
chỉ có thể lây qua gia cầm lông vũ, nhưng do điều kiện nó đã biến thể thành vi rút H5N1
nó đã thích ứng với môi trường và trở thành một dòng vi rút mới lây lan qua người.
+ Phát triển không phải diễn ra theo một con đường thẳng tắp, mà quanh co theo
đường vòng xoáy trôn ốc giống như lặp lại ban đầu nhưng cao hơn.
Tóm lại: phát triển là một khái niệm dùng để chỉ sự biến đổi theo chiều hướng đi
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
3. Ý nghĩa và phương pháp luận
- Liên hệ và phát triển đi lên không ngừng là đặc điểm chung vốn có của giới tự
nhiên, xã hội và nhận thức của con người cho nên khi xem xét sự vật phải có quan điểm
phát triển, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể.
+ Về quan điểm toàn diện đòi hỏi khi phân tích sự vật phải xem xét sự vật trong
mối quan hệ giữa sự vật đó với cái khác; và phải phân biệt được cái nào là tất yếu, cái nào
là cơ bản, chủ yếu, cái nào là ngẫu nhiên, không cơ bản, không chủ yếu. Đồng thời phải
chống lại quan điểm siêu hình. Vì phương pháp siêu hình là trái với khoa học.
+ Về quan điểm phát triển: quan điểm này đòi hỏi khi xem xét sự vật phải vạch ra
được cái tương lai trong cái hiện tại, cái mới trong cái cũ, nhưng không phải là hoàn toàn

loại bỏ cái cũ, mà có sự chọn lọc kế thừa những cái gì còn tiến bộ của cái cũ, phải biết ủng
hộ cái mới. Đồng thời nắm vững quan điểm này còn giúp cho chúng ta tránh được hoang
mang dao động khi sự phát triển gặp lúc thoái trào và giữ vững được niềm tin của sự phát
triển đi lên
+ Về quan điểm lịch sử cụ thể: giúp chúng ta nhận thức đúng đắn sự phát triển bao
giờ cũng xảy ra ở trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, không gian, thời gian xác định.
Cùng một sự vật nếu tồn tại ở trong những điều kiện hồn cảnh khác nhau, khơng gian thời
gian khác nhau thì tính chất của mối liên hệ và sự phát triển của nó sẽ thay đổi khác nhau.
III. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT
1. PHẠM TRÙ LÀ GÌ?
a. Phạm trù là khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của các sự vật hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất
định của hiện thực.
b. Đặc điểm của phạm trù
25

×