Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tư tưởng triết học phật giáo và sự ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.99 KB, 28 trang )

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM

Năm 2016
1


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài..................................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.............................................................................................................3
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO.................................................................................................4
1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo................................................................................4
1.2 Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo.......................................................................................................6
1.2.1 Thế giới quan Phật giáo........................................................................................................................6
1.2.2 Nhận thức luận Phật giáo....................................................................................................................9
1.2.3 Nhân sinh quan Phật giáo..................................................................................................................13
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM............................................................................................................................................16
2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam........................................................................16
2.2 Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam........................18
2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực................................................................................................................18
2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực................................................................................................................23
2.3 Kế thừa những gia trị tích cực của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần người Việt
Nam..................................................................................................................................................................25
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................................27


TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................................28
5. Trần Huy Tạo, 2016, Vài nét về nhận thức luận trong triết học Phật giáo, Tạp chí nghiên cứu Phật học,
số 7/2016.........................................................................................................................................................28

2


1. Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng tơn giáo là một nhu cầu của đời sống văn hóa tinh thần của mỗi con
người, của cộng đồng xã hội. Phật giáo xuất hiện vào cuối thế kỉ thứ VI trước Công
nguyên, là một tôn giáo với nội dung cơ bản đề cập đến việc lý giải căn nguyên của nỗi
khổ và tìm con đường giải thốt con người khỏi nổi khổ triền miên đó. Phật giáo khởi
thủy ở Ấn Độ sau đó truyền đi khắp các xứ lân cận.Trước hết sang các nước Trung Á rồi
sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam Châu Á. Việt Nam cũng
thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Phật giáo ở mỗi nước có một tinh thần và đặc trưng
khác nhau như lịch sử nước ấy. Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào
khoảng nửa cuối thế kỉ thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xã, Phật giáo đã nhanh chóng tìm được
chỗ đứng vững chắc trên đất nước ta. Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ
tâm tư và nguyện vọng của con người nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt Nam
không chỉ từ trong giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà cịn kéo dài đến cuộc sống ngày
nay. Vì vậy việc tìm hiểu về Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn
hóa tinh thần của người Việt Nam là hết sức cần thiết.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học Phật giáo và sự ảnh hưởng đến đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để làm rõ nội dung nghiên cứu đã đề ra, đề tài dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng

thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp: Phân
tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, hệ thống hoá, diễn dịch, quy nạp...để nghiên cứu,
phân tích và trình bày đề tài.

3


Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo
Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên. Người sáng lập ra Phật giáo tên là Siddharta (Tất Đạt Đa), họ là Gơtama, dịng họ
này thuộc bộ tộc Sakya. Ơng là thái tử - con vua Tịnh Phạn, vua một nước nhỏ ở Bắc Ấn
Độ lúc đó (nay thuộc đất Nepal) sáng lập.
Ông sống trong cung điện suốt thời thơ ấu, nhưng khi thành niên ông đã khám phá
những sự việc bên ngồi cung thành. Trên đường phố nọ, ơng thấy một người bệnh, một
lão già, và một xác chết, khiến cho ông suy nghĩ về bản chất khổ đau của cuộc đời. Khi
nhìn thấy một vị khất sĩ thong dong tự tại, ơng qn xét đến khả tính giải thốt khỏi vịng
ln hồi. Và vì vậy, năm hai mươi chín tuổi, ông rời hoàng cung, rũ bỏ trang phục hoàng
gia, và thực hành đời sống của một vị khất sĩ thong dong.
Ông đã tham học với các vị đạo sư lớn của thời đại ông và thông đạt những kỹ
thuật thiền định của họ nhưng khám phá ra rằng chúng không đưa tới giải thốt. Trải qua
6 năm ơng thực hành khổ hạnh nghiêm khắc trong rừng, nhưng rồi nhận thấy rằng sự
hành hạ thân xác khơng thuần hóa được tâm, nên ơng tu theo con đường trung đạo giữ gìn
thân thể khỏe mạnh cho lợi ích của việc tu tập tâm linh mà khơng phóng túng chạy theo
các tiện nghi không cần thiết.
Ngồi dưới gốc cây bồ đề nơi mà ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) tại Ấn
Độ, ông nguyện không đứng dậy cho đến khi đạt thành giác ngộ viên mãn. Vào đêm trăng
tròn tháng tư âm lịch, ơng đã hồn thành tiến trình tẩy trừ tất cả vô minh và phát triển tất
cả thiện pháp, và ông đã trở thành đức Phật giác ngộ hoàn toàn. Lúc đó ơng đã 35 tuổi, và
45 năm kế tiếp ông đi giảng dạy giáo pháp mà ông đã chứng ngộ qua kinh nghiệm tự thân

cho những người đến để nghe.
Đạo Phật có hai nhánh chính. Tiểu thừa (Hinayana), hay Cỗ Xe Nhỏ, nhấn mạnh
đến sự giải thoát cá nhân, trong khi Đại thừa (Mahayana), hay Cỗ Xe Lớn, chú trọng đến
việc tu tập thành một vị Phật toàn giác để phổ độ chúng sinh một cách hoàn hảo nhất. Mỗi
nhánh lại có nhiều phân nhánh. Tuy nhiên, hiện nay, ba hình thức chính cịn tồn tại: một là
4


Tiểu thừa, được biết như Theravada, ở Đông Nam Á, và hai nhánh Đại thừa, đó là các
truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.
Truyền thống Tiểu thừa lan rộng từ Ấn Độ đến Tích Lan (Sri Lanka) và Miến Điện
(Mianma) vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, và từ đó đến Vân Nam (Yunnan), phía
Tây Nam Trung quốc, Thái Lan, Lào, Cao Miên (Cambodia), miền Nam Việt Nam và
Nam Dương (Indonesia). Khơng lâu sau đó, những chiếc túi của các thương nhân người
Ấn Độ theo đạo Phật đã được tìm thấy ở vùng duyên hải Bán Đảo Ả Rập, và thậm chí xa
hơn như Alexandria, Ai Cập. Các hình thức khác của Tiểu thừa cũng lan đi từ thời đó đến
Pakistan, Kashmir, A Phú Hãn (Afghanistan), vùng phía Đơng và dun hải của Iran,
Uzbekistan, Turkmenistan và Tajikistan ngày nay. Đây là những tiểu bang cổ xưa của
Gandhara, Bactria, Parthia và Sogdia. Từ căn cứ này ở vùng Trung Á, các hình thức đạo
Phật Tiểu thừa này lan rộng hơn vào thế kỷ thứ hai sau công nguyên đến phía Đơng
Turkistan (Xinjiang) và xa hơn vào Trung Quốc, rồi đến Kyrgyzstan và Kazakhstan vào
cuối thế kỷ thứ bảy. Các hình thức Tiểu thừa sau đó được kết hợp với những nét đặc trưng
của Đại thừa cũng đến từ Ấn Độ, để cuối cùng truyền thống Đại thừa trở thành hình thức
chiếm ưu thế của Phật giáo tại hầu hết vùng Trung Á.
Hình thức Đại thừa của Trung Quốc sau này lan đến Đại Hàn, Nhật Bản và Bắc
Việt Nam. Một làn sóng khác sớm hơn của Đại thừa, kết hợp với các hình thức Shaivite
của Ấn Độ giáo, lan truyền từ Ấn Độ đến Nepal, Nam Dương, Mã Lai và các vùng ở
Đông Nam Á, bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ năm. Truyền thống Đại thừa Tây Tạng, bắt
đầu từ thế kỷ thứ bảy, kế thừa toàn bộ lịch sử phát triển của Phật giáo Ấn Độ, trải rộng
khắp các vùng Hy Mã Lạp Sơn và đến Mơng Cổ, Đơng Turkistan, Kyrgyzstan,

Kazakhstan, phía Bắc Nội Trung Hoa, Mãn Châu, Siberia và vùng Kalmyk thuộc Mông
Cổ gần biển Caspian, thuộc phần Châu Âu của nước Nga.
Sự lan rộng của đạo Phật ở hầu hết Châu Á đã diễn ra một cách an hịa, theo nhiều
cách. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã lập ra tiền lệ. Trước tiên, là một vị thầy, ông đã đến
các vương quốc lân cận để chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của mình với những ai có lịng
quan tâm và muốn học hỏi. Tương tự như thế, ông chỉ thị các tăng sĩ của ơng đi khắp nơi
để giải thích những giáo huấn của mình. Ơng khơng kêu gọi người khác chỉ trích và từ bỏ
tơn giáo của họ hay cải đạo theo đạo mới, vì ơng khơng tìm cách thiết lập tôn giáo riêng
5


của mình. Ơng chỉ cố gắng giúp người khác vượt qua sự bất hạnh và khổ đau mà họ đang
tạo ra cho chính mình, vì thiếu sự hiểu biết. Các thế hệ môn đồ sau này nhận nguồn cảm
hứng từ tấm gương của đức Phật và họ chia sẻ với người khác các phương pháp của ông
mà họ thấy mang lại lợi lạc cho đời sống của họ. Đây là cách mà cái được gọi là “đạo
Phật” hiện nay đã lan rộng và xa như thế nào
1.2 Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo
1.2.1 Thế giới quan Phật giáo
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của
ba phạm trù là: vô thường, duyên và vô ngã.
Vô thường, tiếng Phạn là Anitya, hàm nghĩa sự biến chuyển, thay đổi, không cố
định. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian đều vơ thường. Nói cách khác, sự vật
khơng bao giờ đứng yên hoặc mang tính đồng nhất bất biến mà luôn vận động, lưu
chuyển. Từ sơn hà, đại địa cho đến cỏ cây, hạt bụi và cả thân tâm con người luôn biến đổi,
không bao giờ cố định và phải chịu sự tác động của vô thường. Không chỉ trong thế giới
vật chất mà ngay cả trong thế giới tâm thức, vô thường vẫn luôn hiện hữu.
Con người, theo Phật giáo, là hợp thể của năm uẩn. Trong đó, phần thân thể vật
chất tứ đại (sắc uẩn) thuộc về Sắc và phần tinh thần gồm cảm thọ, tri giác, tư duy và nhận
thức thuộc về Danh. Năm uẩn hay danh-sắc này ln ở trong trạng thái biến đổi như một
dịng sông chảy mãi không ngừng trong đời sống con người.

Thân thể con người nếu nhìn thật sâu vào bản chất, nó chỉ là một trạm trung
chuyển của các yếu tố tứ đại. Đất nước gió lửa từ bên ngồi đi vào thân, sau đó lại đi ra và
vịng trịn đó luân chuyển bất tận. Nhờ sự vận hành ấy, thân này được ni dưỡng, lớn lên,
già đi rồi hồn trả về cho tứ đại. Vì thế, khi các yếu tố tứ đại bị mất quân bình, bệnh tật
xảy ra và khi dòng chảy tứ đại ngừng luân chuyển, cái chết ập đến. Quá trình này, con
người chỉ điều khiển được một phần, cịn đa phần là mất tự chủ. Vì thế, chuyện sống chết,
cịn mất, có khơng của thân này như gió thoảng, mây bay.
Về tâm lý của con người cũng vậy, các trạng thái tâm lý luôn thay đổi, chuyển biến
trong từng sát na. Tâm thức con người với muôn ngàn ý niệm tuôn trào, trôi chảy như

6


thác lũ. Tất cả vui buồn, thương ghét, tha thứ hay hận thù v.v..., luôn hiện khởi và vận
hành trong tâm thức.
Tuy vậy, chúng ta cần phải cám ơn vô thường. Bởi thực tế, nếu khơng có vơ
thường thì sẽ khơng có sự sống và phát triển. Nếu hạt lúa thường tại thì nó khơng bao giờ
nảy mầm để trở thành cây lúa cho ra những hạt gạo trắng được. Nếu sự vật khơng vơ
thường thì lịch sử tiến hóa của nhân loại sẽ không phát triển. Nếu thân thể khơng vơ
thường thì con người sinh ra khơng thể lớn lên. Và nếu khơng có sự tác động của vơ
thường thì chúng ta sẽ khơng bao giờ có hy vọng chuyển hóa, đoạn tận các tập khí tham ái
phiền não đang tiềm ẩn sâu kín trong nội tâm chúng ta. Giáo lý vô thường đem lại tuệ
giác, nhận thức đúng về bản chất của các pháp đồng thời mang lại niềm tin cho mọi nỗ
lực chuyển hóa, sáng tạo và phát triển của con người. Vì thế, vơ thường là một khuôn dấu
của Chánh pháp; những giáo lý nào không mang đặc tính của ấn pháp này thì khơng phải
là Phật pháp.
Quan điểm về “duyên” (là điều kiện) giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Phật
giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều
khơng thốt khỏi sự chi phối của nhân duyên: cái nhân(hetu) nhờ có cái duyên (prattiya)
mới sinh ra mà thành quả (phla). Qủa lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác

lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế
giới, vạn vật mn lồi cứ sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật nhân quả. Nhân là năng
lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa thì hạt lúa là nhân,
nước, ánh sáng mặt trời, cơng cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra
cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa
là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên.
Nhân nào quả ấy. Con người do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành
phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của Ngũ Uẩn. Hai thành
phần tạo nên Ngũ Uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi con người cụ thể có danh
sắc(nâma-suna), Duyên hợp Ngũ Uẩn thì là ta, duyên tan Ngũ Uẩn thì khơng cịn ta, là
diệt. Nhưng khơng phải là mất đi mà trở lại với ngũ uẩn.Ngay các yếu tố của ngũ uẩn
cũng ln biến hóa theo quy lt nhân quả không ngừng.

7


Vô ngã (Anatma) là giáo lý đặc thù của Phật giáo. Giáo lý này là hệ quả của quá
trình quan sát một cách sâu sắc nguyên lý duyên khởi. Với quan điểm vô thường, chúng ta
thấy được sự vận động trong tự thân của sự vật và toàn thể. Nếu nhìn sâu hơn
qua lăng kính dun khởi, ngồi sự vận động thì bản chất của sự vật ln mang tính
khơng đồng nhất. Mỗi sự vật, hiện tượng đều do các điều kiện, nhân duyên kết hợp, tương
tác lẫn nhau mà tạo thành, do vậy tuyệt nhiên khơng có tính chủ thể, đồng nhất, bất biến
trong nó. Vì thế, Phật dạy: “Các pháp vô ngã”.
Khi thấy một chiếc lá vàng rơi, bình thường ta chỉ biết đó là chiếc lá vàng nhưng
nếu nhìn sâu thì trong chiếc lá kia có những khống chất của đất, có ánh sáng mặt trời, có
nước từ những đám mây, có gió của bầu trời… và có cả một chút bâng khng của lịng
người. Như thế, chiếc lá kia được tạo thành từ những yếu tố khơng phải là chiếc lá, trong
nó có đầy đủ cả vũ trụ. Từ chiếc lá xanh, theo thời gian chuyển qua lá vàng, đó là sự vận
động vơ thường, nhưng dù là lá xanh hay vàng thì trong bản chất của chúng cũng do
những yếu tố không phải lá tạo thành (duyên khởi), chiếc lá vốn Vô ngã.

Con người cũng vậy, là hợp thể ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bản chất
của ngũ uẩn là Không, không chủ thể, Vơ ngã. Tuy nhiên, vì nghiệp lực con người luôn
lầm chấp thân năm uẩn này là một hữu thể đồng nhất, có một “linh hồn” trường cửu, bất
biến, khơng thay đổi. Từ mê mờ về một cái “ngã, tôi” giả tạo ấy nên con người dễ dàng
sanh ra tâm lý tham đắm, say mê, ôm ấp, bảo thủ và chấp chặt vào những gì thuộc về năm
uẩn (cái của tôi). Thế nhưng, mọi sự vật hiện tượng luôn sinh diệt, chuyển biến trong từng
sát na. Sự sinh thành và hoại diệt của năm uẩn là kết quả của các điều kiện nhân duyên và
quá trình sanh già bệnh chết, hay hình thành, tồn tại-thay đổi, hoại diệt, tiêu hủy ln là
một sự thật cho mọi con người, mọi lồi và mọi vật.
Vì khơng nhận thức được tính vơ ngã của vạn sự, vạn vật (vô minh) nên chấp thủ,
tham ái phát sanh và đó cũng chính là cội nguồn của mọi tà kiến, khổ đau. Quan điểm vô
ngã không những xác quyết tính pháp định của Chánh pháp mà cịn mang tính đặc thù của
giáo lý đạo Phật.
Như vậy thông qua các phạm trù vô thường, duyên và vô ngã triết học Phật giáo đã
bác bỏ quan điểm duy tâm cho rằng thần Braham sáng tạo ra con người và thế giới. Phật

8


giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần , các
sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng.
1.2.2 Nhận thức luận Phật giáo
Phật giáo cho rằng, sự nhận thức của con người được hình thành từ sự kết hợp giữa
chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, thiếu một trong hai thứ này thì sự nhận thức
khơng thể có được. Trong đó, Phật giáo cho rằng con người có sáu năng lực nhận biết về
đối tượng, gọi là Lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Tương ứng với Lục căn là đối tượng
trong khách thể nhận thức (gọi là Cảnh) gồm Lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Khi Lục căn gặp Lục trần trong quá trình nhận biết thì Phật giáo gọi là Lục nhập. Sự gặp
gỡ của Lục căn và Lục trần trong quá trình nhận biết sinh ra cái biết, gọi là Thức, mà
trước hết gồm có Lục thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý

thức. Theo đó:
Nhãn căn lấy sắc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhãn thức.
Nhĩ căn lấy thính trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhĩ thức.
Tỷ căn lấy hương trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Tỷ thức.
Thiệt căn lấy vị trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thiệt thức.
Thân căn lấy xúc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thân thức.
Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi..., tác dụng thấy, nghe, ngửi ấy là Thức. Mỗi thức có
một tác dụng riêng, thức là một tác dụng vơ hình, vơ tướng. Thức ở đâu cũng có và ở đâu
có căn và có cảnh thì tác dụng ấy có thể được biểu hiện.
Phân biệt thuần tuý của năm thức ấy là một phân biệt bằng trực giác, nên không
phải là một phân biệt có tính cách suy tầm, đắn đo. Phân biệt suy tầm đắn đo là phân biệt
của thức thứ sáu tức ý thức rộng lớn vô cùng. Đối tượng của ý thức là Pháp trần sinh ra
các tư tưởng. Khi thức này hợp tác cùng năm thức trước thì đối tượng tổng hợp của nó là
ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc).
Nếu năm căn trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) có quan năng phát sinh mang hình
chất thì năng lực thứ sáu (ý) có quan năng phát sinh khơng mang hình chất gọi là Mạt na
(Mạt na thức). Phân tích các tác dụng của Mạt na, Phật giáo chia ra, Mạt na sinh ra cái
biết (phân biệt) mang tính gián đoạn (biết khi tỉnh, khơng biết khi ngủ) gọi là Ý thức, Mạt
9


na có tác dụng chấp ngã, tức chấp có. Mạt na chấp cái biết của bảy năng lực trên đây và
trở thành kho chứa của bảy thức gọi là Alaya thức (Tàng thức).
Cái mà thức thứ bảy (Mạt na) chấp làm bản ngã là một phần của thức Alaya. Thức
này là tất cả, là chỗ chứa đựng tất cả các hình ảnh do bảy thức trước khảm nhập vào, do
đó dường như khơng để mất đi một hình ảnh nào.
Như vậy, khi bàn về lý tám thức sẽ là những căn cứ xuất phát để đi vào làm rõ các
quan điểm trong nhận thức luận của triết học Phật giáo. Cụ thể thuyết Tam lượng hình
thức cơ bản của nhận thức luận Phật giáo.
Lượng là lượng tính, là tính tốn và so lường và cũng là sự phân biệt, cân nhắc vạn

pháp của Tâm thức để hiểu biết. Lượng còn gọi là năng phân biệt. Năng phân biệt có
nghĩa là tâm thức có sức, có lực phân biệt vạn pháp. Nói cách khác, lượng ở đây là chỉ
cho Tâm thức thuộc về chủ thể, có khả năng phân biệt vạn pháp và Tâm thức phân biệt có
tính cách so lường thiệt hơn, cân nhắc lợi hại, phân tích đúng sai để chọn lựa tinh tường,
sâu sắc cho sự hiểu biết. Tâm thức nhờ phân biệt mới có thể hiểu biết rõ tính chất, giá trị
và ý nghĩa của mọi vật nên gọi là Lượng.
Trong triết học Phật giáo Hiện lượng được xem là hình thái đầu tiên của quá trình
nhận thức. Hiện lượng nghĩa là hiểu biết trực tiếp những cảnh vật, đối tượng đã được hiện
bày đầu tiên và sự hiểu biết hiện lượng hồn tồn khơng có ý niệm diễn dịch và suy luận.
Tác dụng nhận thức ở đây chỉ thuần tuý trực cảm, trực quan mà chưa có tính cách phán
đốn và suy luận. Năm thức đầu và ALaya thức là hai loại tâm thức luôn luôn nhận biết
bằng Hiện lượng.
Hình thái nhận thức thứ hai là Tỷ lượng. Trong tiếng Hán, “tỷ” là so sánh, “tỷ
lượng” là nhận thức thông qua sự so sánh. Tỷ lượng cũng là xét đốn, tính tốn theo sự so
sánh đúng sai, cân nhắc lợi hại, phân biệt phải quấy, lựa chọn hơn kém... của tâm thức để
hiểu biết. Đây là sự hiểu biết của ý thức (thức thứ sáu). Ý thức hiểu biết vạn pháp qua ảnh
tử do năm tâm thức cung cấp. Không giống như sự hiểu biết trực tiếp của năm tâm thức
trước, ý thức hiểu biết vạn pháp qua sự suy luận, diễn giải, nghĩa là ý thức luôn luôn phân
biệt được danh xưng, ý nghĩa và tướng trạng từng sự vật một để nhận biết tính chất cũng
như giá trị mỗi loại.
10


Vậy, Tỷ lượng và Hiện lượng có hai đối tượng nhận thức khác nhau. Đối tượng của
Hiện lượng là Tự tướng với tính cách là cái riêng, cái đặc thù; trong khi đối tượng của Tỷ
lượng là Cộng tướng với tính cách là cái chung, cái phổ biến, tồn thể. Cộng tướng có sự
ngộ chấp chủ quan của chủ thể, sự phản ánh của Tỷ lượng về cộng tướng chỉ là “giả hữu giả có” (ước khơng, ước có)
Nhận thức theo Tỷ lượng có hai loại, đó là Chân tỷ lượng và Tợ tỷ lượng.
Chân tỷ lượng có nghĩa là ý thức hiểu biết chính xác về tính chất, giá trị và ý nghĩa
của vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy luận và diễn giải. Những hiện tượng

ảnh tử do năm thức đầu cung cấp đều phát sinh từ nơi những sự vật có thực chất trong thế
gian nên gọi là chân và ý thức hiểu biết đúng những hiện tượng ảnh tử đó bằng sự suy
luận và diễn giải nên gọi là Chân tỷ lượng.
Nếu Chân tỷ lượng là sự hiểu biết chính xác về tính chất, giá trị và ý nghĩa của ý
thức thứ sáu về vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy luận và diễn dịch thì Tợ
tỷ lượng là việc ý thức nhớ lại (hồi tưởng) và so sánh những quá trình nghiệm sống của
mình để hiểu biết tính chất, ý nghĩa và giá trị từng loại trong cuộc đời. Những q trình
nghiệm sống nói trên đã được đúc kết lại thành những hạt giống và cũng đã được tàng trữ
trong thể thức Alaya. Khi muốn nhớ lại thì ý thức phải nhờ thức Mạt na mang những hình
ảnh của hạt giống này từ trong thể thức Alaya đưa lên để trình diện cho ý thức thứ sáu so
sánh. Sự so sánh này của ý thức để hiểu biết được gọi là Tợ tỷ lượng, vì những hình ảnh
đem so sánh này có phần khơng thực chất và cũng khơng giống những sự vật hiện tượng
có mặt trong thế gian.
Hình thái nhận thức thứ ba trong triết học Phật giáo gọi là Phi lượng. Thực ra, đây
không phải là một hình thái nhận thức độc lập với hai hình thái nhận thức trước. Hiện
lượng và Tỷ lượng có khi đúng và cũng có khi sai, mà mỗi khi sai thì đều là Phi lượng.
Hiện lượng mà sai thì không phải là Chân hiện lượng mà là Tợ hiện lượng. Tỷ lượng mà
sai thì khơng phải là Chân tỷ lượng mà là Tợ tỷ lượng. Tợ ở đây là có vẻ giống như cái đó
nhưng thực ra khơng phải là cái đó. Chẳng hạn, khi ta đi trong đêm tối mà nhận lầm sợi
dây làm con rắn thì đó là Tợ hiện lượng; còn khi suy diễn sai một điều gì chẳng hạn thì đó
là Tợ tỷ lượng.

11


Như vậy, Phi lượng là sự xét đoán của Tỷ lượng và Hiện lượng nhưng sai lầm,
không đúng sự thật. Đây thường là sự hiểu biết của thức Mạt na, một sự nhận thức bằng
tưởng tượng, nhận biết mang tính chất so đo, chấp trước. Sự xét đoán, so lường của Mạt
na thức thường chấp trước những điều không đúng chân giá trị của hiện tượng thực tại
nên gọi là Phi lượng. Thức Mạt na luôn chấp trước nên khống chế và điều khiển ý thức

nhận xét mọi việc và thường bóp méo sự thật. Sự hiểu biết vạn pháp của Mạt na thức
không được vô tư mà lại hay sai lệch nên gọi là Phi lượng.
Việc nêu ra và làm rõ các hình thái của quá trình nhận thức, có thể xem là một
trong những đóng góp có ý nghĩa tích cực của triết học Phật giáo đối với sự phát triển của
nhận thức luận nói chung. Với ba hình thái của quá trình nhận thức bao gồm: Hiện lượng,
Tỷ lượng và Phi lượng; trong đó Hiện lượng đã có phần nào giống với các hình thức nhận
thức đầu tiên (cảm giác và tri giác) của nhận thức cảm tính, cịn Tỷ lượng lại bao hàm các
hình thức nhận thức lý tính (biểu tượng, khái niệm, phán đốn, suy luận), trong đó biểu
tượng là hình thức giao thoa giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Cịn Phi lượng,
khơng có gì khác hơn, đó chính là sự sai lầm của Hiện lượng và Tỷ lượng, tức sai lầm của
cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Mỗi hình thái nhận thức nói trên cũng mang những sắc thái và những chức năng
riêng. Hiện lượng nhận thức một cách trực tiếp, đúng thật; Tỷ lượng nhận thức một cách
so đo, tính tốn, suy diễn, phân biệt; Phi lượng thường mang đến những sự nhận thức sai
biệt làm cho khác đi so với sự thật. Nếu cái đích mà nhận thức luận Phật giáo hướng tới ở
đối tượng là thế giới Tánh cảnh thì ở các hình thái nhận thức đó phải là Hiện lượng. Bởi
chỉ với Hiện lượng thì con người mới có thể nhận thức được thế giới Tánh cảnh.
Với sự ra đời của nhận thức luận là một kết quả tất yếu, do nhu cầu phát triển nội
tại của bản thân triết học. Nó khơng những có vai trị khá lớn đối với sự phát triển của
triết học Phật giáo nói riêng mà nó cịn có ảnh hưởng đến sự phát triển của tư tưởng nhận
thức của các trường phái triết học khác nói chung trong lịch sử triết học.
Nhận thức luận Phật giáo còn góp phần sáng tỏ và làm phong phú thêm hệ các vấn
đề nhận thức nói chung, góp phần tích cực vào sự phát triển của tư tưởng loài người về
nhận thức, về hình thức và phương pháp nhận thức, về các cấp độ phát triển của nhận
thức, về vai trò của nhận thức. Đặc biệt, nhận thức luận Phật giáo đã góp phần làm sáng tỏ
12


các mục tiêu của nhận thức, chỉ ra vai trò và giá trị của nhận thức đối với sự rèn luyện, tu
dưỡng đời sống đạo đức của con người, đời sống mà trong đó con người hồn thiện và

làm giàu sinh hoạt tinh thần của mình.
1.2.3 Nhân sinh quan Phật giáo
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên
khởi,... chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan.
Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
- Có phải cuộc sống chỉ tồn là đau khổ? Và vấn đề giải thốt trong đạo
Phật là gì?
- Con người là gì? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị trí của con người trong
đạo Phật.
- Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ....?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế
vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên
Đầu tiên, thể hiện trong thuyết Tứ diệu đế, tư tưởng giải thốt Phật giáo có xuất
phát điểm từ nỗi khổ của cuộc sống con người. Theo quan điểm của Phật giáo, thì ngay
việc con người sinh ra và tồn tại thì con người lại càng rơi vào vơ minh, rơi vào những ảo
tưởng giả tạo. Chính vì thế nhiệm vụ và mục đích tối cao của sự giải thốt chính là xóa bỏ
sự vơ minh của con người để đạt tới sự giác ngộ với cái tâm sáng tỏ, có thể nhận ra chân
bản tính của mình và thực tướng của vạn vật. Có vậy mới dập tắt được ngọn lửa ái dục,
thoát ra mọi khổ não của cuộc đời để đạt đến cõi Niết bàn (Nirvana). Vì vậy, mà đức Phật
đã đưa Khổ đế thành chân lý thứ nhất. Triết lý của đạo Phật khẳng định thực tại nhân sinh
là khổ. Phật đã nói trong kinh Chuyển Pháp Luân rằng: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là
khổ, tử là khổ, oán tăng hội khổ, thụ biệt ly khổ, thụ ngũ uẩn khổ, sở cầu bất đắc khổ.
1. Sinh khổ: đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vơ thường chi
phối nên khổ.
2. Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến.
Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da
nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta
phiền não.
13



3. Bệnh khổ: trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể
suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ
.4. Tử khổ: là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân
nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền
não vơ cùng.
5. Cầu bất đắc khổ (thất vọng): người ta thường chạy theo những điều mình ưa
thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được
rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6. Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7. Oán tắng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8. Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức
ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp
Như vậy, với Bát Khổ mà đức Phật đưa ra cũng đã khái quát rằng cuộc đời con
người vốn đã là bể khổ.
Thứ hai, trong Tập Đế, Ông đã nêu ra và lý giải căn nguyên của nổi khổ, tức chỉ ra
nguồn gốc, nguyên nhân của mọi nổi khổ. Cũng như ở thuyết “Nhân – Duyên khởi”,
nguyên nhân chính để gây nên nổi khổ của con người chính là lịng ái dục. Nhưng sở dĩ
có ái dục là vì sự vơ minh, từ cái mê lầm của con người do không nhận thức được bản
chất của thế giới. Con người muốn tồn tại mãi nhưng thực tại lại cứ luôn biến dịch, con
người muốn trường tồn nhưng cuộc đời cứ luân chuyển không ngừng nghĩ theo quy trình:
sinh – lão – bệnh – tử; thành – trụ –hoại –không; sinh – trụ –dị – diệt. Vì thế, con người
mới sinh ra lịng tham, lịng sân, lòng si, chiếm đoạt để rồi gây nên những nỗi khổ triền
miên trong đời. Cùng với “Nhân duyên khởi”, đức Phật đưa ra thuyết “Thập nhị nhân
duyên” để giải thích căn nguyên nổi khổ ấy, cùng với đó cũng vạch ra mối liên hệ của
nghiệp từ quá khứ tới hiện tại, rồi từ hiện tại tới tương lai. Mười hai dun đó là: vơ minh,
hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, aí, thủ, hữu, sinh, lão tử. Mười hai duyên này nối
tiếp nhau, chúng liên hệ và chuyển hoá cho nhau, chúng vừa là “nhân” vừa lại là “quả”
của nhân.
Thứ ba, để con người có thể được giải thốt khỏi bể khổ thì phải diệt khổ, đó chính

là mục đích tối cao của sự giải thốt. Chân lý tối cao mà đức Phật đưa ra đó là diệt đế.
14


Phật Tổ nói rằng: “Đó là sự xa lánh trọn vẹn, là sự tận diệt chính cái ái dục ấy. Đó là sự
rời bỏ, sự khước từ, sự thốt ly và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục. Đó là chân lý cao thượng
về sự diệt khổ” , để đạt tới trạng thái Niết bàn; Niết bàn được xem là trạng thái tuyệt đối:
trạng thái không tịch, diệt trừ mọi danh sắc, cảm giác, ý thức, trạng thái diệt mọi ái dục,
vơ vi, thanh tịnh, là hồn thiện, vĩnh hằng, bất tử… Chính vì thế mà Long Thọ Bồ Tát đã
viết: “Niết bàn là ngừng định, ngừng hết tư tưởng vô và hữu, sắc và không” .
Thứ tư, để thực hiện được mục đích và lý tưởng giải thốt, để đạt tới trí tuệ bát nhã,
Phật giáo đưa ra thuyết về Đạo Đế. Đạo đế là quan điểm về con đường, cách thức hay
phương pháp giải thoát của đạo Phật. Trong đó, con đường trung đạo như đã nói ở trên
với thuyết tiêu biểu là “Bát chính đạo”. Tám con đường đó là:
1. Hiểu biết nhận thức đúng đắn (Chính kiến).
2. Suy nghĩ chân chính (Chính tư duy).
3. Hành động , làm việc chân chính (Chính nghiệp).
4. Chỉ nói những điều hay, đúng (Chính ngữ).
5. Sống một cách trung thực (Chính mệnh).
6. Cố gắng vươn lên theo con đường chân chính (Chính tịnh tiến).
7. Suy nghĩ chính pháp, gạt mọi tà niệm (Chính niệm).
8. Chuyên chú vào con đường chân chính để giác ngộ (Chính định).
Cùng với tám con đường này, đức Phật đưa ra những phương pháp thực hành tu
luyện cho các phật tử để chủ động thực hiện điều tốt cho người và cho mình, ví như “Ngũ
giới”, “Lục độ” và “Thập thiện”. Nói một cách khái quát, trong thuyết Tứ diệu đế, thì Khổ
Đế và Tập Đế trình bày về sự khổ và nguyên nhân của nổi khổ. Đây chính là điểm xuất
phát của tư tưởng giải thoát trong triết lý Phật giáo. Diệt Đế là quan điểm của Phật giáo về
mục đích và nhiệm vụ tối cao của sự giải thốt, mục đích và nhiệm vụ ấy là xóa bỏ mọi
vọng tưởng, thốt khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới vật dục, diệt ái dục để có thể giác
ngộ, đến với Niết bàn. Cịn Đạo Đế là con đường và cách thức giải thoát, đó là “Bát chính

đạo”.
Như vậy, với tư tưởng giải thốt mà đức Phật đưa ra đã thể hiện rất sâu sắc tính
chất nhân bản, nó quan tâm đến thân phận và đời sống của mỗi con người, giúp con người
thoát khỏi những nổi khổ của cuộc đời, tìm cho họ một niềm tin trong cuộc sống, một chỗ
15


dựa vững chắc và chỗ dựa vững chắc ấy không ở đâu xa lạ mà chính ngay trong tâm mỗi
người. Theo đó, con đường và cách thức giải thốt trong triết lý Phật giáo rất giản dị, có ý
nghĩa hết sức thiết thực và phù hợp với đời sống hiện thực khách quan. Nó chủ trương tu
luyện tồn diện trên mọi lĩnh vực từ đời sống đạo đức luân lý đến tâm linh, trí tuệ.
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM
2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam
Theo đường biển, các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên.
Luy Lâu, trụ sở quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm phật giáo quan trọng. Từ
đây, có những người như Khương Tăng Hội (gốc Trung Á) hoặc Ma-ha-kì-vực
(Mahajivaka, nhà sư Ấn Độ), đã đi sâu vào Trung Hoa truyền đạo. Sau này, khi trả lời vua
Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo Giao Châu, nhà sư Đàm Thiên đã nói rằng: “Xứ Giao
Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung Hoa chưa phổ cập đến
Giang Đông, mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được hơn 500 tăng và dịch
được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”.
Cũng do Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu
công nguyên nên từ Buddha tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt thành
Bụt. Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông. Và trong con mắt của người
Việt Nam nông nghiệp, Bụt như một vị thần ln có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện
cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này, sang thế kỷ IV – V, lại có thêm luồng Phật
giáo Đại thừa Bắc tơng từ Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc, nó đã lấn át và thay thế
luồng Nam tơng có từ trước đó. Từ Buddha vào tiếng Hán phiên âm thành Phật; từ đây từ
Phật dần dần thay thế cho từ Bụt: Bụt chỉ còn trong các quán ngữ với nghĩa ban đầu (ví

dụ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh), hoặc chuyển thành nghĩa ông tiên trong các truyện dân
gian (như Tấm Cám).
Từ Trung Hoa, có ba tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền tông,
Tịnh Đồ tông, Mật tông.
Thiền tông là tông phái phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma)
sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ VI. “Thiền” (rút gọn của Thiền-na, phiên âm
Hán – Việt từ Dhiana tiếng Sanscrit nghĩa là “tĩnh tâm”) chủ trương tập trung trí tuệ suy
16


nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra chân lý. Thiền tông Việt Nam luôn đề cao cái Tâm. Phật tại
tâm, tâm là niết bàn, là Phật. Quốc sư Yên Tử nói với Trần Thái Tơng: “Núi vốn khơng có
Phật, Phật ở tại tâm, tâm lặng lẽ sáng suốt ấy là chân Phật”. Tu theo Thiền tơng địi hỏi
nhiều cơng phu và khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở giới trí thức thượng lưu, cũng
nhờ họ ghi chép lại mà nay ta được biết về lịch sử Thiền tông Việt Nam khá rõ
Khác với Thiền tông, Tịnh Độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngồi để
cứu chúng sinh thốt khổ. Đó là việc họ hướng đến một cõi niết-bàn cụ thể gọi là cõi
Tịnh Độ (=yên tĩnh, trong sáng), được hình dung như một nơi Cực Lạc do đức Phật A-diđà (Amitabha = vô lượng quang) cai quản. Đó cịn là việc bản thân họ cần thường xuyên
đi chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Hình dung cụ thể về niết
bàn là để có đích mà hướng tới; cịn tượng Phật và niệm danh Phật là để thường xuyên
nhớ đến những lời dạy của Người mà ráng làm theo. Nhờ cách tu đơn giản như vậy, Tịnh
Độ tông trở thành Phật giáo của giới bình dân và phổ biến khắp cõi Việt Nam: đâu đâu ta
cũng gặp người dân trụng niệm Nam mô A-di-đà Phật! (= Nguyện quy thep đức phật Adi-đà). Tượng A-di-đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến hơn cả (tới nay còn
giữ được pho tượng A-di-đà bằng đá cao khoảng 2,5 mét, tạc năm 1057 ở chùa Phật Tích
(Bắc Ninh), phía ngồi tượng này xưa vốn dát vàng).
Mật tông là phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (bí mật) như dùng
linh phù, mật chú, ấn quyết… để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải
thốt. Vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tơng phái riêng mà nhanh
chóng hịa vào dịng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp
thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh…

Do thâm nhập một cách hịa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến
rộng khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh. Nhà nho
Lê Quát, học trò Chu Văn An, đã lấy làm khó chịu khi thấy tồn dân theo Phật: “Phật chỉ
lấy điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như vậy? Trên từ
vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, thì hết cả gia tài cũng
không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ, như trong
tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ kinh

17


thành ngoài đến châu phủ, đường cùng, ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin;
hễ chỗ nào có nhà thì ở đó có chùa Phật; bỏ đi tì làm lại, hư đi thì sửa lại”.
Rất nhiều chùa tháp có quy mơ to lớn hoặc kiến trúc độc đáo được xây dựng trong
thời gian này như chùa Phật Tích, chùa Dạm (chùa Đại Lãm), chùa Diên Hựu (Một Cột);
chùa Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm, chùa Hương Lãng, chùa Linh Xứng, chùa Bối Khê,
chùa Thái Lạc, hệ thống chùa Yên Tử, tháp Bình Sơn…
Sang đời Lê, nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo, Phât giáo dần dần suy
thối. Đầu thế kỷ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm chấn hưng đạo Phật, xuống chiếu
chỉnh đốn việc cất chùa, cho cất các chùa lớn đẹp, chọn các tăng nhân có học thức và đạo
đức cho coi chùa, song vì vua mất sớm nên việc này ít thu được kết quả.
Đến thế kỷ XX, đứng trước trào lưu Âu hóa và những biến động do sự giao lưu với
phương Tây mang lại, phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên, khởi đầu từ các đô
thị miền Nam. Những năm 30, các hội Phật giáo ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ lần lượt
ra đời với những cơ quan ngôn luận riêng. Cho đến nay, Phật giáo là tơn giáo có số lượng
tín đồ đơng nhất ở Việt Nam
2.2 Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
Nam
2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực
2.2.1.1 Ảnh hưởng của Phật giáo đến đạo đức lối sống của người Việt Nam

Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay
đã 2000 năm lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa dân tộc. Trong quá
trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con
người mà cịn có vai trị góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Ngoài những điểm
phù hợp với tình cảm đạo đức lối sống của con người, Phật giáo cịn được thể hiện thơng
qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin và giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức Phật giáo được
người Việt tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử
của họ trong các quan hệ cộng đồng. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của Phật
giáo, người Việt đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày thêm tốt
đẹp. Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật, giáo lý và các giá trị, chuẩn mực đã đi
vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống của
18


người Việt Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà đã trở thành phong tục,
cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Triết lý của Phật giáo về Từ bi, về tình thương
yêu rất phù hợp với truyền thống giàu lịng nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa
đau, cả tàu bỏ cỏ”; “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”;
“Thương người như thể thương thân”… sự kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp
tư duy, trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến thiện, hướng
thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ mà cịn ảnh hưởng rộng rãi trong
đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những quan niệm sống giàu tính nhân văn
sâu sắc.
Người Việt Nam truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn
nhau, phụng dưỡng cha mẹ, tri ân những người có cơng với cộng đồng, làm điều thiện…
đó cũng chính là những điều luân lý đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã truyền dạy. Phật giáo
đã thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong suốt chiều dài của lịch
sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của dân tộc,
những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm, chuẩn mực, hệ giá trị
đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.

2.2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến kinh tế trong bối cảnh thị trường hiện
nay
Trong giáo lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính mệnh” sinh sống
bằng nghề nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng chính sức lao
động và tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ khơng được buôn bán gian lận, buôn bán
hàng quốc cấm và các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe con người và xã hội. Trong cuộc
sống mỗi người phải lao động làm việc để tạo ra nguồn của cải vật chất ni sống mình
và gia đình. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đạo đức Phật giáo góp phần
không nhỏ trong việc giáo dục con người, hướng con người tới những điều thiện, từ đó
giảm bớt thiệt hại cho người tiêu dùng và đặc biệt là những nguy hiểm chết người. Đây
chính là mặt tích cực của đạo đức Phật giáo giúp con người và nhân loại có cuộc sống an
lạc hạnh phúc.
“Chính mệnh” trong Bát chính đạo của Phật giáo cịn có nghĩa là biết làm chủ cuộc
sống, khơng lãng phí, khơng bủn xỉn, biết làm phúc và cúng dàng. Biết chăm lo cuộc sống
19


của người thân, quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho đời sau. Đức Phật
dạy rằng các cư sĩ sống bình thường ở gia đình có 4 điều lạc thú: Một là được hưởng cảm
giác an tồn do có của cải và cơ sở kinh tế có được bằng phương pháp chính đáng; Hai là
có thể khảng khái sử dụng của cải ấy cho mình, cho người nhà và cho bạn hữu, đồng thời
dùng nó để làm nhiều việc từ thiện; Ba là không bị khổ sở vì nợ nần; Bốn là có thể sống
cuộc đời thanh tịnh, không lỗi lầm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc xây dựng
hoàn thiện đạo đức nhằm phát triển con người một cách toàn diện. Nền đạo đức mà chúng
ta đang xây dựng là sự kết tinh, kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của nhân loại,
của dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức Phật giáo.
2.2.1.3 Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn học nghệ thuật
Thật vậy, những buổi trưa hè nóng bức, vẳng bên tai ta nghe những lời ca dao tục
ngữ của người mẹ hát ru con, cho đến các cụ già vừa ngâm thơ, vừa làm các công việc tỉ

mỉ vụn vặt của vườn tược hay đồng áng. “Linh đinh qua cửa thần phù, Khéo tu thì nổi,
vụng tu thì chìm”. (Thuyết của đạo Phật) Rồi đến các truyện dân gian xa xưa mà người
Việt Nam ai nấy đều biết như truyện Tấm Cám, truyện Con Muỗi... đều có nội dung Phật
giáo rõ rệt: Tấm, con người lành, dù bị hại nhưng vẫn không chết, khi thì làm trái thị, khi
thì làm chim hồng anh, và cuối cùng nhờ sự che chở của ông Bụt từ bi, vẫn đoàn tụ được
với hoàng tử người yêu, còn bà mẹ ghẻ ác độc phải ăn mắm xác chết con mình. Đó là
thuyết nhân quả nghiệp báo, thuyết luân hồi, thuyết từ bi của đạo Phật. Người vợ
đẹp nhưng tà dâm trong truyện Con Muỗi phải tái sanh làm con muỗi... Những truyện như
vậy nhiều lắm, chứng tỏ đạo Phật đã đi sâu vào trong đời sống xa xưa.
Sau này, triết lý đạo Phật được thơ ca hóa trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
đến mức độ tuyệt diệu, đến nỗi người Việt Nam, nam cũng như nữ, già cũng như
trẻ đều như thấy mình một phần trong cô Kiều. Một thời gian dài người dân Việt
Nam đã đua nhau bói Kiều. Như câu: Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Theo đạo Phật,
con người chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi sự việc hay hoặc dở xảy ra cho mình, khơng
phải cầu trời mà được phúc, cũng không nên trách trời nếu mang họa. Trước tiên, hãy xét
mình đã và đang làm gì đây, đã tạo nghiệp thiện hay ác. Cuộc đời của mình chính là ở
20


trong bàn tay của mình, chứ khơng do một Phật hay một trời đất nào an bày cả. Một triết
lý như vậy thúc đẩy hành động và sáng tạo, thể hiện sự tích cực trong việc đề cao trách
nhiệm của mọi người về mọi hành động hiện tại và tương lai.
Như trên đã đề cập các nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc đến Việt Nam và dịch nkinh
sách bằng văn tự Hán và ngơn ngữ, văn tự đó được dùng để truyền bá Phật
giáo. Sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến chữ Hán đã đưa đến
sự hình thành chữ Nơm. Chúng tơi cho rằng, chữ Nơm đã hình thành trước thế kỷ V – VI.
Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ Phật giáo đồng nghĩa: Bụt – Chùa – Thầy và
Phật – Tự – Sư. Nhóm thứ nhất là chữ Nơm, nhóm thứ hai là chữ Hán đọc theo âm Việt,
hiện nay quen gọi là âm Hán – Việt chứ không phải là âm Hán của chữ Việt. Chữ Nôm

xuất hiện trong bộ thuật ngữ Phật giáo này sẽ không bao giờ sản sinh và tồn tại được nếu
như bộ thuật ngữ Việt Hán đã được dùng từ đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu truyền bá Phật
giáo Thời kỳ sau bộ thuật ngữ Phật giáo Trung Quốc đọc theo âm Hán Việt là Phật
– Sư – Tự mới phổ biến. Nhưng đến nay dân gian vẫn quên gọi thầy chùa hơn là Sư ơng.
Chính Phật giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nơm ở bắc Đại Việt, chữ Chăm, chữ
khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn ngôn ngữ Việt Chăm, Khmer.
Các tượng Phật, Bồ Tát, La Hán, Kim Cương, Thiên Vương còn giữ lại được trong
các chùa tháp cho chúng ta biết về trình độ nghệ thuật điêu khắc tạo hình cao của các
nghệ sĩ và nghệ thuật tơn giáo bị gị bó trong những cơng thức nhất định. Thí dụ, khơng
thể tạc tượng Phật, vẽ tranh chân dung Phật như thế nào cũng được. Dáng mặt Phật phải
lộ vẻ từ bi, nhưng lại phải bình thản, siêu thốt. Đơi mắt Phật phải là đơi mắt sáng của trí
tuệ, nhưng nếu tạc hay vẽ trượng to và sáng q thì cũng khơng đúng. Tượng và tranh
Phật Thích Ca bao giờ cũng phải là tượng và tranh của nhà tu hành, của người xuất gia
với màu áo cà sa. Không thể đắp cho Phật bộ áo khác được, dù là áo đẹp. Phật Thích Ca
xuất hiện trên thế gian này như một con người, cho nên không thể và không nên tạc tượng
Phật, vẽ tranh Phật dưới những hình dạng quái dị như ba đầu, sáu tay. Đó là điểm khác
với các tượng Bồ tát, như Bồ Tát Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, hay là tượng các thần Ấn
Độ giáo, như Thần Chim... Nhưng trong phạm vi những công thức như vậy, nghệ sĩ và
nghệ nhân tạc tượng vẽ tranh Phật vẫn phát huy được tài năng khéo léo sáng tạo của
mình, thể hiện ở chỗ gây được cho người xem lòng thành kính, niềm tin và nhất là tạo
21


được cho người xem cảm giác ấm áp. Phật không phải là một Thượng Đế nào xa lạ, mà
là rất gần gũi với mọi người, với con người. Tượng, tranh nữ Bồ Tát Quan Âm là tượng
tranh của bà mẹ hiền Việt Nam, đẹp, siêu thoát, nhưng lại rất gần gũi, mang bản sắc dân
tộc.
2.2.1.4 Ảnh hưởng của Phật giáo đến kiến trúc xây dựng
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm
nhân tạo cho nên cũng chính là văn hóa và sự phát triển của nó đánh dấu bước tiến của

văn minh. Khởi thủy nơi trú ẩn đầu tiên của con người là ngơi nhà tự nhiên. Đó chính là
những hang động những vòm đá. Để chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc sống,
con người phải làm nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu người Việt
làm nhà sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn hay nhà đất thì cho
đến trước năm 1945, những ngơi nhà tranh tre của người Việt vẫn còn tồn tại như nguyên
mẫu xa xưa (nhà tranh ba gian, thấp lè tè, mái rạ vàng). Thế nhưng, một khi Phật giáo du
nhập vào thì hai loại hình kiến trúc mới đã xuất hiện đó là chùa và tháp. Cho đến khi ngơi
chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi đầu Phật giáo ít nhiều, thì xóm làng vẫn
cịn là một quần thể nhà tranh. Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở
thành nơi quần tụ văn hóa. Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi xem múa rối nước
cũng đều ở tại chùa. Ngày nay chợ Dâu vẫn còn họp trước chùa Dâu (Bắc Ninh). Sân
khấu rối nước vẫn còn ở chùa Thầy (Hà Tây) với chú tiểu và con rồng, là những hình
tượng Phật giáo. Dân làng dù nghèo đói đến đâu vẫn chung nhau dựng cho được một ngôi
chùa khang trang. Nếu chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới. Những chư vị Phật
ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao là một cách bài trí hồn tồn khác bàn thờ trong
nghè, trong nhà của họ. Cảnh quan xóm làng nông thôn đổi sắc với sự xuất hiện của ngơi
chùa. Bên cạnh đó, hệ thống tượng Phật vơ cùng phong phú trong đóng góp về vật chất
của Phật giáo ở Việt Nam như những pho tượng Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, những pho
Di Lặc, A Di Đà, Quán Thế Âm; những bộ tượng Cửu Long, tượng Quan Thế Âm....
Ngày nay, do mơ hình kiến trúc đã hiện đại hóa xuất hiện chùa dạng nhà lầu với
phác đồ theo chiều thẳng đứng: tầng dưới là nơi thuyết pháp cho tín đồ mang tính chất
Tiền đường, tầng trên là Phật Điện mang tính chất Thiêu Hương, Thượng Điện. Chùa
thuộc loại này có thể kể tới những ngơi chùa nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh như chùa
22


Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm. Trên đây ta nói đến là kiến trúc chùa. Cịn kiến trúc tháp thì
sao?
Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến trúc tháp cũng cực kỳ phong phú. Phật
tử cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo Thiên vòi vọi, tháp Sùng Thiện

Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối, chùa tháp Chương Sơn với nét kiến trúc đặc trưng
của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư thế tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt.
2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực
Tuy vậy Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam chúng ta.
Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan
tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần
chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất
cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng
thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống khơng hành động,
khơng đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng
được giải thốt ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của Phật.
Theo cách nhìn của tơn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy
những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm
được đến gần Chúa và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ. Muốn
chứng được Niết bàn (đạt đến giải thốt), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục
vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho thấy mặt
tiêu cực của thế giới quan tôn giáo. Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo.
Tôn giáo không đề cao cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục
trước tình cảnh nơ lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tơn giáo trở
thành cơng cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo
không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê,
làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. K. Marx gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân là
theo nghĩa đó và cũng vì vậy, đạo đức tơn giáo đối lập với đạo đức chân chính. Về mặt
nào đó, đạo đức tơn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân sinh quan sai lệch,
làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo đức tôn giáo hướng
23


con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần

nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho
các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lịng với số phận. khơng tích
cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin
rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã
ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế. Thêm nữa, đạo đức
tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân nhưng lại bỏ quên các mối
quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng
phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều
kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, khơng thể tách
nó khỏi những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con người.
K. Marx đã khẳng định rằng, “bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” và
nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà
thơi.
Các tệ lậu mê tín dị đoan xuất hiện. Đạo Phật đề cao trí tuệ và sự giác ngộ, Phật
Thích Ca ngay trước khi nhập Niết Bàn từng căn dặn đệ tử khơng được bói tốn, xem sao,
xem tướng, làm những điều dị lạ, mê hoặc quần chúng, cho nên đứng về mặt lý thuyết mà
nói, đạo Phật tất nhiên phải bài xích những tập tục mê tín, dị đoan. Ấy thế mà mâu thuẫn
thay! Cũng chính từ trong đạo Phật, từ trong các chùa chiền, không phải bây giờ mà ngay
từ rất lâu, ở nhiều nước khác, kể cả Ấn Độ và ở nước ta, từ ngay thời Lý, đạo Phật rất
thịnh đạt, đã nảy nở ra nhiều tập tục mê tín, dị đoan, tốn tiền của và khơng có lợi đối với
phong hóa xã hội.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, của giác ngộ và giải thốt, cho nên xa lạ với mê tín dị
đoan, Phật tử cầu được giác ngộ và giải thốt, chứ khơng cầu có quyền lực và quyền năng
siêu nhiên. Con người theo đúng lý tưởng đạo Phật phải là con người hoàn thiện, chứ
không phải là con người siêu nhiên. Phải là con người gần gũi với đời, với người để cứu
thế độ nhân, chứ không phải là kẻ sĩ ẩn lánh đời, sống cuộc đời gọi là thanh cao nhưng
không giúp ích được gì cụ thể cho đời. Những tác hại của mê tín dị đoan như vậy khơng
ít. Trong khi đó, thì trong hàng ngũ tăng ni, vì q đơng không được chọn lọc kỹ, cho nên

24



cũng có những kẻ đội lốt người xuất gia, làm những chuyện đồi phong bại tục, gây ảnh
hưởng rất xấu cho đạo Phật. Vì vậy, mà có lời tâu của Đàm Dĩ Mông lê vua Lý Cao Tông
năm 1198: “Bây giờ tăng đồ gần bằng số dịch phu. Chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau
thành từng bầy. Chúng làm nhiều chuyện bẩn thỉu. Hoặc ở nơi giới trường tịnh xá mà
cơng nhiên rượu thịt, hoặc ở trong trai phịng, tĩnh viện mà âm thầm gian
dâm...”. Dạo gần đây, phong trào sư giả đội lốt lại phát triển, liên tiếp được đăng lên báo
chí để cảnh báo mọi người, khiến cho đạo Phật giảm đi uy tín trong lịng người dân.
Một vấn đề nữa chính là việc lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để chống phá chính
quyền nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam của tổ chức phản động trong và
ngồi nước. Chúng đội lốt tín ngưỡng, lơi kéo người dân xuyên tạc, chống phá nhà
nước gây ảnh hưởng đồn kết dân tộc, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, sự hịa bình
đất nước, làm đức tin của người dân giảm xuống.
Tóm lại, Phật giáo hịa nhập thành một yếu tố dân tộc nên đã thúc đẩy bánh xe
lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo trong mối quan hệ với các
2.3 Kế thừa những gia trị tích cực của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần người Việt Nam
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật giáo đã
dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hồn thiện nhân cách đạo đức, hướng con người
đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, đạo đức Phật giáo phù hợp
với đạo đức, lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã có những đóng góp tích cực trong
việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống đã được đặt ra.
Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân
đạo, tư tưởng bình đẳng, hịa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hòa đồng liên kết
giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, lịng từ bi, bác ái góp
phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý
vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ… Những giá trị tích cực đó của
đạo đức Phật giáo càng được nhân lên với những hành động cụ thể, như kẻ đói được cho

ăn, kẻ rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật được chăm sóc… Đạo đức Phật giáo
khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh
25


×