Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam-Techcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.98 KB, 80 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta đã được chứng kiến
từng bước phát triển mang tính đột phá của nhiều ngành khoa học cơng nghệ,
trong đó có cơng nghệ thơng tin và cơng nghệ sinh học. Cách đây hơn 10
năm, mạng Internet còn là một lĩnh vực xa lạ với hầu hết chúng ta thì ngày
nay nó đã trở thành cuốn bách khoa tồn thư của hàng triệu người trên toàn
thế giới. Các nhà khoa học và kinh tế khẳng định rằng, sự phát triển như vũ
bão của cách mạnh thông tin được đánh dấu bằng sự ra đời của mạng internet,
các phương tiện khác như Email, máy vi tính , tạp chí điện tử, là một bước
tiến đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng và tốc độ truyền tin ngày càng nhanh. Những
phát triển đó đã góp phần tạo nên một nền kinh tế tồn cầu hóa, nền kinh tế
mạng và nền kinh tế tri thức.

Đương nhiên, thừa hưởng thành tựu của công nghệ hiện đại và khoa học ngân
hàng, thẻ thanh tốn, một loại thanh tốn an tồn, nhanh chóng, tiện lợi, gọn
nhẹ mà không phải dùng tiền mặt đã ra đời, từng bước thay thế cho một số
kiểu thanh tốn cũ lỗi thời, khơng cịn thích hợp ở những lúc và nơi có thể.
Cùng với thời gian, các loại thẻ cứ lần lượt ra đời và được đưa vào sử dụng
với quy mô ngày càng lớn, đặc biệt là trong hệ thống thanh tốn tồn cầu
trong mấy thập kỷ qua. Thậm chí ở nhiều nước những loại thẻ này khơng cịn
là phương tiện thanh tốn của riêng ngân hàng mà nó đã trở thành phổ biến,
quen thuộc với cả người dân.
NHTM Cổ phần Kỹ thương Việt Nam-Techcombank, một Ngân hàng
đưa vào dịch vụ thanh toán thẻ ngay từ những năm đầu tiên mới thành lập.
Mặc dù hoạt động thanh toán thẻ của Techcombank đã đạt được những kết
quả nhất định, tuy nhiên cũng đã phải đối mặt với không ít những khó khăn.



2

Hơn nữa, trong thời gian tới Techcombank không những phải lo khắc phục
những bất cập chung mà còn phải cạnh tranh với những Ngân hàng trong và
ngoài nước cùng tham gia phát hành và thanh tốn thẻ.
Để góp phần tìm ra giải pháp phát triển thẻ thanh toán cho các Ngân
hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP kỹ thương nói
riêng, qua q trình thực tập tại Techcombank, em mạnh dạn chọn đề tài:
“Phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương
Việt Nam-Techcombank” để làm khố luận tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài : Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lí
luận, tình hình thực tế phát hành và thanh tốn thẻ tại Techcombank, các văn
bản pháp quy liên quan...để thấy được những tồn tại trong phát hành và thanh
toán thẻ , từ đó đưa ra một số ý kiến để mở rộng dịch vụ thẻ hiện nay và trong
thời gian tới.
Kết cấu khoá luận của em được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh thẻ của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ của NHTM Cổ phần Kỹ
thương Việt Nam-Techcombank.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ
tại NHTM Cổ phần Kỹ thương Việt Nam.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên trong khố luận
của em khó tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy nhận xét và góp ý để
cho đề tài của em hoàn thiện hơn.


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Bản chất của ngân hàng thương mại.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Ngân hàng thương mại
ra đời là một tất yếu khách quan do đòi hỏi của sản xuất và lưu thơng hàng
hố. Qua q trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, NHTM đang dần dần hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ cơ bản của
mình.
Qua những khái niệm trên có thể thấy ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có hai hoạt động cơ bản:
- Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức, cơ quan
nhà nước và các tổ chức tín dụng tài chính khác kể cả trong nước và ngồi
nước.
- Sử dụng các nguồn vốn nói trên để cho vay hoặc chiết khấu và cung
ứng các sản phẩm dịch vụ khác cho nền kinh tế.
Cho đến ngày nay, một ngân hàng thương mại hiện đại có thể có tới
hơn 300 sản phẩm dịch vụ các loại để phục vụ cho các yêu cầu ngày càng
phong phú, đa dạng của mọi đối tượng khách hàng.
1.1.2. Chức năng của NHTM.
1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán.
Chức năng thủ quỹ là chức năng đầu tiên của NHTM, gắn liền với sự ra
đời của NHTM và làm cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các chức năng tín
dụng, thanh tốn và các dịch vụ khác. Ngay từ khi các NHTM chưa ra đời,


4

các thương gia bn bán lớn có một lượng của cải dư thừa thường gửi vào các
tiệm kim hoàn hoặc gửi những người nhận giữ hộ tiền với mục đích cất trữ an
tồn nguồn vốn dư thừa đó. Về sau các cá nhân và các doanh nghiệp cũng tiến

hành việc gửi tiền và ngồi mục đích an tồn ra họ cịn có mong muốn được
hưởng các dịch vụ khác như thanh tốn, bảo lãnh, chi trả hộ và khi đó NHTM
chính thức ra đời.
Vậy NHTM ra đời với chức năng đầu tiên là làm thủ quỹ cho các cá
nhân và doanh nghiệp gửi tiền, sau đó thực hiện việc thanh toán hộ cho khách
hàng dựa trên tài khoản mà khách hàng mở tại Ngân hàng thông qua việc
khách hàng uỷ nhiệm cho Ngân hàng thu hộ, chi hộ.
Với chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán, NHTM đã thực hiện
việc luân chuyển, thanh toán những khối lượng vốn lớn trên phạm vi rộng.
Việc thanh toán qua Ngân hàng đã giảm bớt được khối lượng tiền mặt lưu
thông, giảm chi phí giao dịch, chi phí thanh tốn và hạn chế rủi ro trong q
trình thanh tốn, góp phần tăng nhanh vịng quay của vốn, tăng tốc độ lưu
thơng tiền tệ trong nền kinh tế.
1.1.2.2. Chức năng trung gian tín dụng.
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM, nó có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức
năng này, một mặt, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho
vay. Mặt khác, trên cơ sở vốn đã huy động được Ngân hàng tiến hành việc
cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của các chủ
thể cần vốn trong nền kinh tế, điều đó đảm bảo sự vận động liên tục của
guồng máy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy,
NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay, hay nói cách khác nghiệp
vụ tín dụng của NHTM là đi vay và cho vay.


5

Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng cịn là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng

đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động
viên vật tư hành hoá đưa vào hoạt động sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn
vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Đối với
NHTM hoạt động tín dụng là hoat động chủ yếu mang lại nguồn thu lớn nhất
cho Ngân hàng nhưng nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.Vì vậy
Ngân hàng cần nghiên cứu, áp dụng biện pháp quản lý nhằm mở rộng hoạt
động và đảm bảo an tồn tín dụng.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền.
Qúa trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thơng qua hoạt động tín
dụng và thanh toán trong hệ thống Ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với
hệ thống Ngân hàng trung ương của mỗi nước. Khả năng tạo tiền là khả năng
biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một
khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh
tốn qua nhiều Ngân hàng. Một Ngân hàng này cho vay xong là hết vốn, thì
số vốn đó lại chuyển sang Ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm tăng
thêm vốn tiền gửi của các Ngân hàng khác.
Chức năng tạo tiền của hệ thống NHTM liên quan chặt chẽ với chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Vì thế, Ngân hàng Trung ương có thể
tăng hay giảm lượng tiền cung ứng bằng việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
nhằm điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại
Theo Từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng: “ Nghiệp vụ ngân hàng là
những sản phẩm mà ngân hàng thực hiện trong việc huy động các nguồn vốn


6

tiền tệ và đầu tư số vốn huy động được, cấp tín dụng, phục vụ thanh tốn cho
khách hàng và làm các dịch vụ khác theo sự uỷ thác của khách hàng”.

Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại được thể hiện ở nội
dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản hay bảng cân đối kế tốn của
ngân hàng và có thể phân chúng thành ba nhóm: Các nghiệp vụ Tài sản Nợ,
các nghiệp vụ Tài sản Có và các nghiệp vụ trung gian.
1.1.3.1 Tiền gửi
Với nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng sẽ huy động vốn của các doanh
nghiệp, cá nhân, các tổ chức kinh tế qua tài khoản séc, tài khoản vãng lai; tài
khoản tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi của khách hàng thường chia làm hai loại:
tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
- Tài khoản séc: Là loại tiền gửi được áp dụng phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Theo Cơng ước Giơ-ne-vơ năm 1931 thì “Séc là một tờ
lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng ký phát cho ngân hàng, yêu cầu
ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho người
cầm séc hoặc cho người được chỉ định trên séc”.
Việc phát hành séc tiến hành đồng thời với dịch vụ mở tài khoản tiền
gửi (tài khoản séc), các chủ tài khoản séc sẽ dùng séc để mua sắm hàng hoá,
dịch vụ, nộp thuế, trả nợ cho nhau, vay mượn...; đồng thời nhập vào tài khoản
này mọi khoản thu nhập thường xuyên hay bất thường như tiền lương, tiền
bán hàng, bán dịch vụ, thu nợ... Tài khoản séc bao giờ cũng có số dư nên ngân
hàng có thể tạm thời sử dụng được số tiền này vào mục đích kinh doanh của
ngân hàng, tài khoản séc thật sự là công cụ quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh doanh của hệ thống ngân hàng.
- Tài khoản vãng lai: là tài khoản phát sinh hàng ngày các khoản gửi
tiền, rút và chuyển tiền của khách hàng. Trong tài khoản séc, chủ tài khoản


7

ln ln phải có số dư, nhưng trong tài khoản vãng lai, khách hàng có thể có
số dư, có thể thiếu (dư nợ), nếu dư có ngân hàng phải trả lãi, nếu dư nợ khách

hàng phải trả lãi cho ngân hàng nhưng không được vượt hạn mức dư nợ ngân
hàng cho phép. Tài khoản vãng lai là một thủ tục vừa gửi tiền, vừa vay tiền có
lợi cho cả hai bên: người mở tài khoản và ngân hàng. Người gửi tiền chắc
chắn được vay tiền với mức dư nợ cao nhất, còn ngân hàng càng thu hút được
nhiều tài khoản vãng lai càng có thêm nhiều vốn tiền gửi để kinh doanh.
- Tài khoản gửi tiết kiệm: Phần lớn là tiền gửi tiết kiệm của các cá
nhân, tuy số tiền gửi của mỗi người không nhiều, nhưng số người gửi đông
nên tiền gửi tiết kiệm của nhiều triệu người trong nước thực sự là một nguồn
vốn kinh doanh quan trọng của ngân hàng, đồng thời việc thu hút nhiều nguồn
vốn này cịn có tác dụng kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Số lượng
tiền gửi tiết kiệm thu hút được phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa của nó có cao
hơn lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát hay không.
1.1.3.2 Cho vay
* Thứ nhất: Cho vay tiền
Là loại cho vay mang hình thức một hợp đồng vay tiền. Trong hợp
đồng nêu rõ: ngân hàng cam kết giao cho người vay một khoản tiền trong một
thời gian nhất định và người vay cam kết trả cho ngân hàng khoản tiền tương
ứng với số tiền đã vay cùng với số tiền lãi tỷ lệ với số tiền gốc và thời hạn
vay.
* Thứ hai: tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
Tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền có các hình thức chủ
yếu: chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, bao thanh tốn Factoring...
- Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá là nghiệp vụ tín dụng
ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu


8

chưa đến hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương
phiếu trừ đi lợi tức và hoa hồng chiết khấu.

- Bao thanh toán (Factoring): Bao thanh tốn là một hợp đồng mà trong
đó một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp được gọi là “Factor” mua đứt các trái
quyền của người cung cấp (người bán) đối với khách hàng của họ (người
mua).
Thứ ba: cho thuê tài chính
Cho th tài chính là hình thức tài trợ vốn bằng cách ngân hàng giao
động sản, bất động sản, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dây chuyển sản
xuất, khách sạn, kho tàng... cho khách hàng (người thuê) sử dụng. Nói cách
khác, cho th tài chính là hình thức tín dụng trung, dài hạn thơng qua vịêc
cho th máy móc, thiết bị bất động sản và động sản.
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lời quan trọng, chủ yếu của ngân
hàng thương mại, khơng có nghiệp vụ tín dụng thì cũng khơng cịn ngân hàng
thương mại, nên nghiệp vụ tín dụng ln ln tồn tại và phát triển cùng ngân
hàng thương mại. Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu vốn cho sản xuất,
kinh doanh, cho công nghiệp hố, hiện đại hố ngày càng nhiều, vì thế vai trị
của tín dụng ngân hàng cũng ngày càng quan trọng và cần thiết hơn. Nhưng
tín dụng là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro, đã có rất nhiều ngân hàng
phải phá sản vì cho vay mà khơng thu được nợ hoặc có tỷ lệ nợ q hạn lớn.
Vì vậy, bên cạnh việc phát triển nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng thương
mại đều thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ, đa dạng hố các khoản mục tài
sản có để phân tán bớt rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động.
1.1.3.3 Bảo lãnh
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng nhận bảo
lãnh, chịu trách nhiệm trả tiền thay cho người xin bản lãnh nếu người đó


9

không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với người đã thụ
hưởng bảo lãnh đã được qui định cụ thể trong thư bảo lãnh.

1.1.3.4 Nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế
a. Thanh toán chuyển tiền trong nước
Thanh toán chuyển tiền là một dịch vụ, mà ngân hàng thực hiện lệnh
của khách hàng thanh tốn chuyển tiền từ ngân hàng đó đi nơi khác cho một
người nhất định, hay ngân hàng trích một khoản tiền từ tài khoản của khách
hàng theo lệnh của nó, để ghi có cho tài khoản của người khác và ngân hàng
thu được một khoản phí nhất định.
Các cơng cụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt gồm có: Ngân phiếu thanh
toán, Séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, Thẻ thanh toán...
b. Thanh toán - chuyển tiền quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ
phát sinh từ các quan hệ kinh tế, tài chính giữa các tổ chức kinh tế quốc tế,
giữa các hãng, giữa các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu
trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bằng các hình thức chuyển
tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Các cơng cụ thanh tốn quốc tế chủ yếu gồm có: Hối phiếu, Lệnh
phiếu, Séc
c. Thu hộ tiền thuế, tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại
Trên cơ sở các uỷ nhiệm chi, hoá đơn, hợp đồng nhờ thu hộ của các cơ
quan thuế điện lực, bưu điện, nước... ngân hàng sẽ thực hiện ghi nợ tài khoản
của khách và ghi có tài khoản tiền gửi cho các cơ quan trên.
d. Cung ứng các phương tiện thanh toán hiện đại như: Phát hành và
thanh toán các loại thẻ, thực hiện rút tiền tự động qua máy ATM, Thẻ séc...


10

Thẻ séc thường được kết hợp với thẻ rút tiền tự động (ATM) và thẻ
thanh toán thành một thẻ đa năng.
- Thẻ thanh toán (Debit Card): Thẻ thanh toán hay còn gọi là “thẻ nợ”

là một loại thẻ do ngân hàng phát hành. Thẻ dùng để thanh toán hàng hoá và
dịch vụ.
- Thẻ tín dụng (Credit Card): Thẻ tín dụng hay gọi là “thẻ có” cũng là
một loại thẻ do ngân hàng phát hành. Khi phát hành thẻ khách hàng khơng
cần có số dư trên tài khoản tiền gửi mà được cấp một hạn mức tín dụng theo
tài khoản thẻ tín dụng của họ. Thẻ tín dụng dùng để mua hàng hoá và các dịch
vụ trả tiền sau. Việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ được thực hiện tại những
nơi có máy đọc thẻ và tại các điểm bán lẻ có các ký hiệu của loại thẻ tín dụng
mà chúng chấp nhận.
- Máy rút tiền tự động ATM: Các ngân hàng, các chi nhánh, các điểm
bán hàng được đặt những máy rút tiền tự động, những máy này đã được nối
mạng với trung tâm thanh tốn. Khách hàng có thể dùng thẻ rút tiền (Thẻ từ
hoặc thẻ thông minh) do ngân hàng phát hành để rút tiền mặt ở các máy trên,
mà không phải trực tiếp đến ngân hàng hoặc chi nhánh.
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản truyền thống nêu trên, các Ngân hàng
thương mại hiện đạ còn cung cấp doanh mục rất đa dạng các sản phẩm khác
như: Nghiệp vụ đầu tư tài chính; Nghiệp vụ ngân quỹ; Dịch vụ ngân hàng qua
điện thoại (Telephone Banking); Dịch vụ ngân hàng sử dụng máy tính cá nhân
(PC-Based Banking);Dịch vụ ngân hàng qua mạng Internet (Internet
Banking); Nghiệp vụ quản lý và tín thác; Dịch vụ tư vấn….
1.2. Nghiệp vụ kinh doanh thẻ của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán


11

Thẻ thanh tốn là một phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt hiện đại
và hữu ích , ra đời vào năm 1949 do ông Frank Mc Namara, một doanh nhân
người Mỹ sáng chế. Một lần sau khi dùng bữa tối tại một nhà hàng, ơng bỗng
phát hiện ra mình khơng mang theo tiền mặt. Ơng phải gọi điện cho vợ nhanh

chóng mang tiền đến thanh tốn. Tình trạng khó xử đã khiến ơng mày mị chế
tạo một phương tiện chi trả tiền mặt trong những trường hợp tương tự như
thế. Thế là lần đầu tiên Mc Namara cho ra đời loại thẻ mang tên “Diners
Club”.
Theo chân “Diners Club”, hàng loạt thẻ mới ra đời như Trip Charge, Golden
Key, Gourmet Club, Espire Club và đến năm 1995, Carte Blanche và
American Express ra đời (1958) và thống lĩnh thị trường. Lúc đầu phần lớn
thẻ chỉ dùng cho giới doanh nhân nhưng các ngân hàng đã thấy rằng giới bình
dân mới là đối tượng sử dụng chủ yếu trong tương lai. Với sự thay đổi chiến
lược khách hàng , các ngân hàng nhanh chóng thâm nhập vào thị trường thẻ
và coi đây là thị trường đầy tiềm năng.
Ngân hàng Mỹ là nơi đầu tiên phát hành thẻ Bank Americard mà ngày nay là
Visa Card. Năm 1966, Bank Americard bắt đầu liên kết với các liên bang khác
để phát triển mạng lưới thẻ này Trong khi thẻ Bank Americard đang thành
công rực rỡ thì các tổ chức phát hành thẻ khác cũng đang tìm kiếm khả năng
cạnh tranh với loại thẻ này. Năm 1966, một hiệp hội ngân hàng mới, trong đó
gồm 14 ngân hàng của Mỹ đã xây dựng một hệ thống giao dịch tự động nối
mạng trong thanh tốn thẻ tín dụng. Ngay sau đó, năm 1967, có bốn ngân
hàng bang Califonia có hiệp hội thẻ mang tên Wessten States Bank Card
Association đã liên kết với hiệp hội ngân hàng Interbank phát hành thẻ Master
Charge mà ngày nay có tên là Master Card. Năm 1979, tổ chức thẻ quốc tế
Master Card được thành lập. Hiện nay hiệp hội có khoảng 29000 thành viên.


12

Bên cạnh Visa Card và Master Card, thẻ American Express (Amex) và JCB
của Nhật Bản cũng vươn lên mạnh mẽ. Doanh thu của các loại thẻ này cũng
lên tới hàng trăm tỷ USD với hàng chục triệu thẻ lưu hành.
Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên

kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem
như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Các
loại thẻ Master Card, Visa, Amex, JCB được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và
cùng phân chia những thị trường rộng lớn.
Chính sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại và những ứng
dụng của cuộc cách mạng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần
thúc đẩy sự ra đời của thẻ với nhiều tên gọi khác nhau mà hiện nay đang được
sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Với lợi thế về vốn, chuyên
môn trong nghiệp vụ thẩm định, cơ sở hạ tầng sẵn có phục vụ cho hoạt động
phát hành và thanh toán, thẻ do ngân hàng phát hành thực sự được đông đảo
công chúng quan tâm và ưa thích. Trong khoảng thời gian 25 năm trở lại đây,
ngành cơng nghiệp thẻ thanh tốn, đặc biệt là thẻ ngân hàng mới thực sự được
phát triển.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ thanh toán.
1.2.2.1. Khái niệm
Thẻ là một tấm nhựa chứa băng từ hoặc chip điện tử để lưu giữ các
thông tin, số liệu cần thiết đã được mã hố. Nói một cách ngắn gọn, thẻ là một
phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc tổ chức tài
chính phát hành cấp cho khách hàng và được sử dụng để rút tiền mặt tại các
ngân hàng đại lí, các máy rút tiền tự động hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch
vụ tại những cơ sở chấp nhận thẻ trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi hoặc
hạn mức tín dụng được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ.


13

Đối với ngân hàng, việc phát hành và thanh toán thẻ là hoạt động bao
gồm các nghiệp vụ cho vay, huy động vốn (đặt cọc hoặc có tiền trong tài
khoản), thanh tốn trong nước và ngồi nước.
1.2.2.2. Đặc điểm cơ bản của thẻ thanh toán

Hầu hết các loại thẻ thanh toán quốc tế làm bằng nhựa cấu tạo với 3 lớp
được ép với kĩ thuật cao. Thẻ có kích thước: 84mm x 54mm x 0,76mm có góc
trịn gồm 2 mặt có in đầy đủ các yếu tố như: nhãn hiệu thương mại của thẻ,
tên và logo của nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực… và
một số yếu tố khác tuỳ theo quy định của các tổ chức thẻ quốc tế hoặc hiệp
hội phát hành thẻ.
a. Mặt trước của thẻ gồm:
- Tên và biểu tượng của ngân hàng phát hành thẻ, của tổ chức thẻ: Mỗi loại
thẻ có một biểu tượng riêng, mang tính đặc trưng của tổ chức phát hành thẻ.
Đây được xem như một yếu tố an ninh, chống lại sự giả mạo.
- Số thẻ (được in nổi): số này dành riêng cho mỗi chủ thẻ, được dập nổi
trên thẻ và được in lại trên hoá đơn khi chủ thẻ thanh toán bằng thẻ. Tuỳ theo
từng loại thẻ mà có chữ số, cách cấu trúc theo nhóm khác nhau.
- Họ tên chủ thẻ: in chữ nổi, là tên của cá nhân nếu là thẻ cá nhân, tên của
người được uỷ quyền nếu là thẻ công ty.
Ngày hiệu lực của thẻ (được in nổi): là thời hạn mà thẻ được phép lưu
hành. Tuỳ theo từng loại thẻ mà có thể ghi ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ
hoặc ngày đầu tiên và ngày cuối cùng được sử dụng thẻ.
- Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: mỗi loại thẻ ln có
ký hiệu an ninh kèm theo, in phía sau của ngày hiệu lực nhằm tăng tính an
tồn của thẻ, đề phòng giả mạo.


14

Ngồi ra cịn có thể có các yếu tố khác như: chữ kí, hình của chủ thẻ,
hình nổi khơng gian 3 chiều (hoặc chip đối với thẻ điện tử).
b. Mặt sau của thẻ gồm:
- Dải băng từ chứa các thông tin như: số thẻ, ngày hết hạn, tên chủ thẻ,
ngân hàng phát hành, các yếu tố kiểm tra an toàn khác.

- Dải băng chữ kí của chủ thẻ: cơ sở chấp nhận thẻ đối chiếu chữ ký này
với chữ ký khi thực hiện thanh toán thẻ.
1.2.3. Phân loại thẻ.
1.2.3.1. Theo công nghệ sản xuất:
a. Thẻ khắc chữ nổi: Các thông tin cần thiết được khắc nổi lên bề mặt
của thẻ. Tấm thẻ đầu tiên đã được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay
người ta không sử dụng thẻ loại này nữa vì kỹ thuật sản xuất q thơ sơ, dễ bị
làm giả.
b. Thẻ băng từ: Được sản xuất dựa trên kĩ thuật từ tính với một băng
từ chứa hai rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến
trong vòng 20 năm nay. Tuy nhiên, do thẻ mang tính thơng tin cố định, khu
vực chứa thông tin hẹp không áp dụng được các kĩ thuật mã bảo đảm an tồn,
thơng tin trong thẻ khơng tự mã hố được, người ta có thể đọc thẻ dễ dàng
bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính nên có thể bị lợi dụng để lấy cắp tiền.
c. Thẻ điện tử có bộ vi xử lí chip (thẻ thông minh): Đây là thế hệ mới
nhất của thẻ, dựa trên kĩ thuật vi xử lí tin học. Thẻ được gắn một chip điện tử
có cấu trúc giống như một máy tính hồn hảo. Thẻ thơng minh có nhiều nhóm
với dung lượng nhớ của chip điện tử khác nhau, có tính an tồn và bảo mật rất
cao. Nhưng do giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thẻ đắt nên việc
sử dụng thẻ này còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp nhận
thẻ thông minh mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ chức thẻ vẫn


15

đang khuyến khích các ngân hàng thành viên đầu tư để phát hành và chấp
nhận loại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi ro do giả mạo thẻ.
1.2.3.2. Theo chủ thể phát hành:
a. Thẻ do ngân hàng phát hành: Là thẻ thanh toán do các NHTM
phát hành để giúp khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân

hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng. Loại thẻ này được
sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Nó khơng chỉ lưu hành trong một quốc gia
mà cịn có thể lưu hành trên tồn cầu như thẻ Visa, Master,..
b. Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: Là các loại thẻ du
lịch và giải trí của các tập đồn kinh doanh lớn phát hành như Diners Club,
Amex,.. và cũng lưu hành trên toàn cầu.
1.2.3.3. Theo tính chất thanh tốn của thẻ:
a. Thẻ tín dụng: Là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó người
chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng tuần hồn để mua sắm hàng
hố, dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận loại thẻ này. Thẻ tín dụng thường do
ngân hàng phát hành và thường được quy định một hạn mức tín dụng nhất
định trên cơ sở khả năng tài chính, tài sản thế chấp của chủ thẻ. Chủ thẻ chỉ
được phép chi tiêu trong phạm vi hạn mức đã cho và phải thanh toán cho ngân
hàng phát hành thẻ theo kỳ hàng tháng, lãi suất tín dụng tuỳ thuộc vào quy
định của mỗi ngân hàng phát hành. Thẻ tín dụng được coi là một cơng cụ tín
dụng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
b. Thẻ ghi nợ: Có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi
của chủ thẻ. Chủ thẻ cũng có thể được ngân hàng cấp cho một mức thấu chi
theo sự thoả thuận giữa hai bên. Những giao dịch thực hiện bằng thẻ này sẽ
được khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ và ghi có vào tài khoản của cơ sở
chấp nhận thẻ (CSCNT). Thẻ ghi nợ có hai loại cơ bản là thẻ on-line và thẻ
off-line. Thẻ on-line là thẻ ghi nợ mà những thông tin về giao dịch được kết


16

nối trực tiếp từ thiết bị điện tử đặt tại CSCNT hoặc điểm rút tiền mặt tới ngân
hàng phát hành. Giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài
khoản chủ thẻ. Thẻ off-line là thẻ mà thông tin giao dịch được lưu tại máy
điện tử của CSCNT và được chuyển đến ngân hàng phát hành muộn hơn

(khơng có kết nối trực tiếp với điểm thanh tốn). Giá trị những giao dịch sẽ
được khấu trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
c. Thẻ rút tiền mặt: Về bản chất, đây cũng là một loại của thẻ ghi nợ
nhưng thẻ này chỉ được dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng, các máy rút
tiền tự động (ATM) và sử dụng các dịch vụ khác do máy ATM cung cấp như
kiểm tra số dư, chuyển khoản, chi trả các khoản vay,... Với chức năng chuyên
biệt chỉ dùng để rút tiền, số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền kí
quĩ. Thẻ rút tiền mặt có hai loại. Một loại chỉ được dùng để rút tiền mặt tại
những máy rút tiền tự động của ngân hàng phát hành, cịn loại kia ngồi địa
điểm trên còn được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng cùng tham gia tổ hợp
thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ.
1.2.3.4. Theo hạn mức tín dụng
a. Thẻ vàng: Là loại thẻ được phát hành cho những đối tượng có thu
nhập cao, có uy tín, khả năng tài chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Loại
thẻ này nhìn chung có hạn mức tín dụng cao hơn thẻ thường.
b. Thẻ thường (thẻ chuẩn): Là loại thẻ căn bản nhất, mang tính chất
phổ biến, đại chúng, được hơn 142 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
Thẻ có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ vàng.
1.2.3.5. Theo phạm vi sử dụng của thẻ
a. Thẻ nội địa: Chỉ được sử dụng trong phạm vi quốc gia mà nó được
phát hành, do đó đồng tiền được sử dụng và thanh toán là đồng bản tệ. Loại
thẻ này chỉ do một tổ chức hoặc một ngân hàng điều hành và có hai loại. Một


17

loại do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng trong nước phát hành và chỉ được sử
dụng trong nội bộ hệ thống tổ chức đó. Loại thứ hai là thẻ mang thương hiệu
của tổ chức thẻ quốc tế nhưng được phát hành để sử dụng trong nước.
b. Thẻ quốc tế: Là loại thẻ được sử dụng trên phạm vi quốc tế, dùng

ngoại tệ mạnh làm đồng tiền thanh toán. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý
trên toàn thế giới bởi những tổ chức tài chính lớn như Visa, Master hoặc công
ty điều hành hoạt động thống nhất và đồng bộ. Thẻ quốc tế được ưa chuộng
bởi tính an tồn, tiện lợi của nó.
1.2.4. Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.
* Tổ chức thẻ quốc tế là tổ chức đứng ra liên kết với các thành viên,
đặt ra các qui định bắt buộc đối với các thành viên phải áp dụng và tuân theo
thống nhất thành một hệ thống toàn cầu. Bất cứ ngân hàng nào hiện nay hoạt
động trong lĩnh vực thẻ thanh toán quốc tế đều phải gia nhập vào ít nhất là
một tổ chức thẻ quốc tế. Tổ chức thẻ được tổ chức dưới hai hình thức: hiệp
hội và ngân hàng (hay cơng ty).
Hình thức hiệp hội: do một nhóm ngân hàng liên kết với nhau thành lập
ra. Hiệp hội soạn thảo các quy định riêng về cách tổ chức, cấp phép, bù trừ,
thanh toán áp dụng cho tất cả các thành viên của hiệp hội, đồng thời tổ chức
về vấn đề cạnh tranh trên thị trường và vấn đề pháp lý. Hiệp hội không trực
tiếp phát hành thẻ mà giao việc này cho các ngân hàng thành viên và thu phí
thường niên. Điển hình của loại hình này là các tổ chức Visa và Master.
Hình thức ngân hàng (hay công ty): do một hoặc hai ngân hàng hay
công ty đứng ra tổ chức và độc quyền phát hành loại thẻ của họ. Họ trực tiếp
phát hành thẻ và đứng ra quản lý chủ thẻ. Việc mở rộng thị trường được thực
hiện bằng cách lập ra các chi nhánh hay văn phòng đại diện phát hành thẻ, do


18

vậy phạm vi hoạt động thường nhỏ hơn so với hình thức hiệp hội. JCB và
American Express là điển hình của hình thức tổ chức này.
* Ngân hàng phát hành thẻ: là thành viên chính thức của tổ chức thẻ
và được phép phát hành thẻ. Ngân hàng này có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý
hồ sơ xin cấp thẻ, thiết kế các tiêu chuẩn kĩ thuật, mật mã, kí hiệu,.. cho các

loại thẻ để bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng thẻ, sau đó phát hành thẻ
cho khách hàng, mở và quản lí tài khoản thẻ, chịu trách nhiệm việc thanh toán
số tiền mà khách hàng trả cho người bán bằng thẻ.
* Ngân hàng thanh toán thẻ (NHTTT): là thành viên chính thức hoặc
thành viên liên kết của tổ chức thẻ và/ hoặc các ngân hàng được ngân hàng
phát hành thẻ uỷ quyền thực hiện nghiệp vụ thanh tốn thẻ.
* Ngân hàng đại lí thanh tốn thẻ: là ngân hàng được NHTTT uỷ
quyền thực hiện một số dịch vụ thanh tốn thẻ thơng qua hợp đồng ngân hàng
đại lí. Ngân hàng đại lí có nhiệm vụ trả tiền cho cơ sở chấp nhận thẻ khi nhận
được biên lai thanh toán, trả tiền mặt theo yêu cầu của chủ sở hữu thẻ, nhận
chuyển tiếp số tiền thanh toán bằng thẻ đến bên bán. Ngân hàng đại lí là ngân
hàng trực tiếp kí hợp đồng với các cơ sở chấp nhận thẻ để tiếp nhận và xử lí
các giao dịch về thẻ tại cơ sở chấp nhận thẻ, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho
cơ sở chấp nhận thẻ.
* Chủ thẻ: là người có tên trên thẻ và được quyền sử dụng thẻ. Chủ thẻ
có thể là một cá nhân riêng lẻ, hoặc đại diện cho một công ty hay tổ chức nào
đó có nhu cầu sử dụng thẻ thanh tốn. Chỉ chủ thẻ mới có thể sử dụng thẻ của
mình. Một chủ thẻ có thể u cầu cấp thêm thẻ phụ cho người thân, có thể sở
hữu một hoặc nhiều thẻ. Chủ thẻ phải trả phí cho ngân hàng phát hành thẻ.
* Người chịu trách nhiệm thanh toán thẻ: Là chủ thẻ chính (đối với
thẻ cá nhân) hoặc/ và tổ chức, công ty xin cấp thẻ (đối với thẻ công ty).


19

* Cơ sở chấp nhận thẻ (CSCNT): Là đơn vị bán hàng hố- dịch vụ
hoặc ứng tiền mặt, có kí hợp đồng với NHTTT để chấp nhận thanh toán thẻ
như: cửa hàng, khách sạn, nhà hàng,... Các đơn vị này được NHTTT trang bị
máy móc kĩ thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán thay tiền mặt và sử dụng máy
đọc do ngân hàng đại lí trang bị để kiểm tra thẻ và biên lai thanh tốn. Thơng

thường CSCNT phải trả một khoản phí về việc sử dụng tiện ích này.
* Hệ thống máy ATM: Các ngân hàng, các chi nhánh, các điểm bán
hàng được đặt những máy rút tiền tự động, những máy này đã được nối mạng
với trung tâm thanh tốn. Khách hàng có thể dùng thẻ rút tiền do ngân hàng
phát hành để rút tiền mặt ở các máy trên, mà không phải trực tiếp đến ngân
hàng hoặc chi nhánh. Khi có nhu cầu khách hàng đưa thẻ vào máy và bấm số
trên bàn phím, thơng qua thơng tin lưu trữ trên dải từ tính hoặc con chíp điện
tử, máy tính có thể “tra cứu” tài khoản của khách hàng và đưa ra số tiền mặt
mà khách hàng cần rút với giới hạn cho phép. Máy cịn thơng báo người cầm
thẻ biết số dư trong tài khoản của khách hàng hoặc thực hiện một lệnh thanh
toán chuyển khoản với điều kiện phải biết chi tiết về ngân hàng của người
được thanh toán.Máy ATM đã trải qua nhiều thế hệ, từ chỗ chỉ là máy rút tiền
tự động ngày nay các máy ATM thế hệ mới thực sự hoạt động như một ngân
hàng nhỏ với đầy đủ các chức năng như rút tiền, gửi tiền, thanh tốn... Do đó,
việc đặt các máy ATM thế hệ mới ngoài trụ sở chi nhánh ngân hàng thực chất
là việc mở rộng mạng lưới hoạt động về mặt địa lý.
1.2.5. Những lợi ích của việc sử dụng thẻ thanh toán.
1.2.5.1. Đối với người sử dụng thẻ.
Tiện ích nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính linh hoạt
hơn hẳn các phương tiện thanh toán khác của thẻ. Chủ thẻ có thể thực sự cảm
nhận thấy điều này khi di du lịch hay cơng tác ở nước ngồi. Thẻ thanh toán
như Visa, Master và trong phạm vi hẹp hơn là Amex, Diners Club được chấp
nhận trên toàn thế giới. Điều này có nghĩa là khi dự định ra nước ngồi, thay


20

vì phải chuẩn bị trước một lượng ngoại tệ hay sec du lịch, chủ thẻ có thể
mang theo thẻ để thanh tốn cho mọi nhu cầu chi tiêu của mình. Chủ thẻ cũng
có thể thấy điều này khi sử dụng thẻ để thanh tốn tiền hàng hố, dịch vụ

thơng qua một mạng lưới rộng rãi các CSCNT trong và ngoài nước hay rút
tiền mặt khi cần thiết tại các tổ chức tài chính hay ngân hàng trên thế giới
hoặc tại các máy rút tiền tự động ATM với loại tiền phù hợp của nước sở tại.
Với kích thước gọn nhẹ của thẻ, chủ thẻ có thể dễ dàng mang theo
người, tạo cảm giác thoải mái khi đi mua sắm, đặc biệt với khối lượng chi trả
lớn. Khi mua sắm hàng hố, dịch vụ, khách hàng chỉ cần xuất trình thẻ và ký
vào hố đơn thanh tốn thì việc mua bán hàng hố coi như đã hồn thành,tiết
kiệm được chi phí vận chuyển và kiểm đếm tiền. Với việc sử dụng thẻ, khách
hàng có thể thực hiện giao dịch bằng bất cứ loại tiền tệ nào trên thế giới
nhưng chỉ phải thanh toán cho ngân hàng phát hành thẻ bằng đồng bản tệ.
Bên cạnh đó, với một tấm thẻ trong tay, chủ thẻ khơng cịn gặp tình
trạng phải chạy đến ngân hàng trước giờ đóng cửa để rút tiền mặt mà họ có
thể rút tiền mặt tại các máy ATM được trang bị ở nhiều nơi cơng cộng ở trong
và ngồi nước. Thẻ làm giảm đến mức tối thiểu nhu cầu giữ tiền mặt, cho
phép người sử dụng hoãn việc chi trả các hàng hoá và dịch vụ trong một thời
gian ngắn, các báo cáo chi trả được thực hiện một cách thuận lợi có ý nghĩa
quan trọng trong đánh giá tín dụng. Những người sử dụng thẻ có hạn mức tín
dụng tuần hồn ngồi ra cón có thêm một thuận lợi nữa là gia tăng khả năng
mua hàng hoá và dịch vụ, và bằng cách ấy tránh được nạn quan liêu khi xin
cấp các khoản cho vay cá nhân. Hơn nữa, người có thẻ tín dụng có sự mềm
dẻo đáng kể trong việc định thời gian và việc hoàn trả khối lượng nợ. Với thẻ
ghi nợ, khách hàng thậm chí còn được hưởng một mức thấu chi nhất định trên
tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng. Đặc biệt đối với thẻ cơng ty, ngồi
những tiện ích trên, nó cịn giúp cơng ty quản lý và kiểm sốt hiệu quả các chi
tiêu của nhân viên mình.


21

Ngồi ra, khi sử dụng thẻ, chủ thẻ cịn được hưởng một số dịch vụ khác

do ngân hàng phát hành thẻ triển khai áp dụng cho chủ thẻ như xem số dư tài
khoản để từ đó có kế hoạch chi tiêu hợp lý hơn, dịch vụ khách hàng 24/24
giờ, dịch vụ trợ giúp toàn cầu, dịch vụ bảo hiểm lữ hành…
Chủ thẻ là người duy nhất có quyền sử dụng thẻ. Để chống làm giả và
ngăn chặn người khác sử dụng thẻ, thẻ được chế tạo dựa trên kỹ thuật hết sức
tinh vi, hiện đại, khó làm giả, vì vậy tính an tồn của thẻ rất cao. Đặc biệt từ
khi thẻ thông minh được tung ra thị trường, độ an toàn của thẻ được nâng lên
rất nhiều. Việc so sánh chữ ký mẫu trên thẻ với chữ ký của người sử dụng thẻ,
hình ảnh chủ thẻ trên thẻ kết hợp với các thơng tin được mã hố trên thẻ tạo
nên một bức tường vững chắc trước nguy cơ bị người khác lạm dụng. Nhờ
vậy, chủ thẻ có thể an tâm khi sử dụng thẻ. Khi mất thẻ hay để lộ số PIN, chủ
thẻ có thể báo ngay cho ngân hàng phát hành thẻ để kịp thời phong toả tài
khoản thẻ. Trong điều kiện kỹ thuật công nghệ hiện đại ngày càng phát triển,
các thiết bị kiểm tra thẻ hoạt động ngày càng hiệu quả, tính an tồn của thẻ sẽ
cịn được nâng cao trong tương lai.
Thanh tốn bằng thẻ ngồi tính thuận tiện, gọn nhẹ, nhanh chóng, an
tồn và hiệu quả đối với chủ thẻ còn tạo thêm vẻ văn minh lịch sự, sang trọng
cho khách hàng khi thanh toán. Mặt khác, nó cịn giúp khách hàng tiếp cận
với các phương thức mua hàng gián tiếp hiện nay như đặt hàng qua thư hay
điện thoại, mua hàng qua mạng.
1.2.5.2. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ
Các CSCNT là điều kiện khơng thể thiếu đối với sự phát triển thanh
tốn thẻ. Thẻ sẽ trở nên vơ dụng nếu như khơng có hay thiếu chủ thể này. Khi
tham gia thanh toán thẻ, lợi ích mà các đại lý chấp nhận thẻ sẽ lớn hơn rất
nhiều so với các chi phí mà họ phải bỏ ra.
Với việc chấp nhận thẻ, sự sang trọng cũng như uy tín của đại lý sẽ
tăng lên vì thẻ là một phương tiện thanh toán hiện đại, đại diện cho một xã hội


22


văn minh, tiến bộ. Trong điều kiện đời sống của người dân được nâng cao thì
du lịch quốc tế trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Ngày nay thẻ đã được
sử dụng rộng rãi trên thế giới và khách nước ngồi thường rất thích dùng thẻ
nên chấp nhận thẻ cũng là một cách giúp các đại lý thu hút khách hàng, tăng
doanh số bán hàng.
Việc chấp nhận thẻ sẽ giúp các đơn vị này đa dạng hoá phương thức
thanh tốn, giảm tình trạng chậm trả của khách hàng cũng như công tác kiểm
đếm, thu giữ tiền mặt, tránh nhận phải tiền giả trong thanh tốn, qua đó giảm
được các chi phí kinh doanh khơng cần thiết.
Một điều quan trọng khác là khi chấp nhận thanh toán thẻ, các CSCNT
hưởng lợi rất nhiều từ ngân hàng. Các đại lý sẽ được ngân hàng cung cấp các
máy móc cần thiết cho việc thanh tốn bằng thẻ, họ khơng phải mất tiền đầu
tư cho hình thức thanh tốn này. Các CSCNT nhờ đó cũng thiết lập được mối
quan hệ mật thiết với ngân hàng, điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ
dành cho họ những khoản ưu đãi trong những giao dịch khác, đặc biệt là trong
các quan hệ tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các cơ sở kinh
doanh đều sử dụng một lượng vốn lớn vay từ ngân hàng nên được ưu đãi
trong vay vốn là một lợi ích lớn đối với tất cả các cơ sở kinh doanh.
1.2.5.6. Đối với ngân hàng
Khi tham gia hoạt động kinh doanh thẻ, ngân hàng phát hành (NHPH)
cũng như ngân hàng thanh toán thẻ thu được rất nhiều lợi ích.
Thứ nhất, thẻ cho phép các ngân hàng đưa ra được các dịch vụ mới cho
các khách hàng hiện có và là một phương tiện tối ưu để hấp dẫn các khách
hàng mới- các cá nhân cũng như các ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng có thể phát
triển các dịch vụ khác liên quan đến thanh toán thẻ như kinh doanh ngoại tệ,
nhận tiền gửi,... Cùng với việc cung cấp các dịch vụ đầy đủ và đa dạng hoá
dịch vụ, danh tiếng cũng như uy tín của ngân hàng được nâng lên. Việc gia
nhập các tổ chức thẻ quốc tế giúp ngân hàng tạo thêm được quan hệ với nhiều



23

ngân hàng và tổ chức tài chính khác, qua đó củng cố uy tín và tăng hiệu quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ hai, là gia tăng thu nhập của ngân hàng thơng qua thu phí và lãi từ
việc phát hành thẻ, thu phí chiết khấu đại lý từ các CSCNT. Tuy rằng số phí
thu được trên mỗi giao dịch là không đáng kể nhưng lượng giao dịch bằng thẻ
hàng ngày là rất lớn, đặc biệt những nơi thẻ được lưu hành phổ biến và lợi
nhuận từ hoạt động này khơng phải là nhỏ. Ngồi ra, trong hoạt động phát
hành thẻ, đặc biệt là thẻ tín dụng, NHPH yêu cầu khách hàng phải ký quỹ
bằng sổ tiết kiệm hoặc một khoản tiền nhất định trên tài khoản tiền gửi của
mình tại ngân hàng. Trong thời gian sử dụng thẻ, khách hàng không được sử
dụng khoản tiền ký quỹ này nên NHPH có thể tận dụng chúng như một nguồn
vốn huy động được. Đây có thể là nguồn vốn rất lớn nếu có nhiều khách hàng
có cầu sử dụng thẻ tại ngân hàng. Mặt khác, NHPHT cịn có thể mở rộng hoạt
động cho vay thông qua việc phát hành thẻ tín dụng và hoạt động cho vay này
khá an tồn, nhanh chóng, hiệu quả khá cao.
Có thể nói lợi ích mà ngân hàng nhận được từ hoạt động phát hành và
thanh tốn thẻ là rất lớn. Nó khơng chỉ dừng lại ở thu nhập của ngân hàng mà
còn là uy tín, là danh tiếng của ngân hàng, mà trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng thì uy tín cũng như danh tiếng là điều tối quan trọng quyết định sự
tồn tại, phát triển của ngân hàng cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng
trong tương lai.
1.2.5.7. Đối với phát triển kinh tế- xã hội
Nhờ những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực công nghệ thông tin những
năm gần đây, công dụng của thẻ ngày càng được phát triển, mở rộng và càng
thể hiện vai trị to lớn của mình trong sự phát triển kinh tế- xã hội.
Thứ nhất, thẻ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông.
Ở những nước phát triển, thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng cũng như áp


24

lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể, từ đó làm giảm các chi phí vận
chuyển, phát hành, kiểm kê tiền trong nền kinh tế, đồng thời cũng giúp ngăn
chặn được nạn làm tiền giả.
Thứ hai là tăng nhanh tốc độ chu chuyển, thanh toán. Hầu hết mọi giao
dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và thanh
tốn trực tuyến, vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn nhiều so với
những giao dịch sử dụng các phương tiện thanh toán khác. Thay vì thực hiện
các giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ, mọi thông tin đều được xử lý qua
hệ thống máy móc điện tử thuận tiện, nhanh chóng.
Thứ ba là thực hiện chính sách quản lý vĩ mơ của nhà nước. Việc sử
dụng thẻ được thực hiện thông qua mạng trực tuyến dưới sự kiểm soát của
ngân hàng đã tạo điều kiện quan trọng cho việc kiểm soát khối lượng giao
dịch thanh toán của dân cư và của cả nền kinh tế, do đó hạn chế và giảm thiểu
tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế ngầm, đồng thời tạo tiền đề cho
việc tính tốn lượng tiền cung ứng, tăng cường tính chủ đạo của nhà nước
trong điều tiết nền kinh tế, điều hành, thực thi các chính sách kinh tế tài chính,
tiền tệ, ngoại hối và thực hiện quản lý thuế có hiệu quả.
Thứ tư là cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du
lịch và đầu tư nước ngồi. Thanh tốn bằng thẻ tạo điều kiện hết sức thuận lợi
cho việc hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, trước hết
trong lĩnh vực hết sức quan trọng: hoạt động tài chính ngân hàng, thơng qua
các tổ chức thẻ quốc tế lớn trên thế giới. Việc tiếp cận với phương tiện văn
minh hiện đại của thế giới, tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện
đại hơn cũng là một yếu tố thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam. Thanh tốn thẻ an tồn, hiệu quả, chính xác, nhanh chóng cũng

sẽ tạo niềm tin của dân chúng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng.
1.2.6. Nghiệp vụ kinh doanh thẻ tại NHTM hiện nay.
1.2.6.1. Cơ sở pháp lý của việc tổ chức và kinh doanh thẻ.


25

Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ thẻ dựa trên cơ sở pháp luật của nước sở
tại, cụ thể là các quy chế về phát hành, thanh toán thẻ do Ngân hàng Nhà
nước ban hành. Việc phát hành, thanh toán thẻ phải được sự đồng ý của tổ
chức thẻ quốc tế thông qua hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành,
NHTTT với các tổ chức thẻ quốc tế, đồng thời tuân thủ các luật lệ và quy định
hiện hành của các tổ chức thẻ quốc tế.
Dựa trên các cơ sở này, mỗi ngân hàng sẽ có những quy chế riêng về
nghiệp vụ thẻ do Tổng Giám đốc ngân hàng quy định.
1.2.6.2. Trình tự các bước của nghiệp vụ kinh doanh thẻ.
a. Quy trình nghiệp vụ phát hành thẻ gồm các bước:
* Bước 1: Khách hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ và hoàn thành
một số thủ tục cần thiết như điền vào giấy tờ xin cấp thẻ, trình một số giấy tờ
khác như: giấy thơng hành, biên lai trả lương, nộp thuế thu nhập,..
* Bước 2: Ngân hàng phát hành nhận kiểm tra hồ sơ theo quy định.
Trong vòng 4 ngày kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ, ngân hàng
phát hành có trách nhiệm thẩm định bộ hồ sơ và ra quyết định chấp nhận hoặc
từ chối phát hành thẻ.
Đối với những hồ sơ được chấp thuận, ngân hàng phát hành tiến hành
phân loại khách hàng. Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì
khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng. Cịn đối với thẻ tín dụng, ngân
hàng phải xác định các yếu tố sau:
- Hạng thẻ phát hành: thẻ vàng hay thẻ chuẩn.
- Hạn mức tín dụng.

- Thời hạn thẻ.
- Phân loại chủ thẻ để xác định hạn mức tiêu dùng của mỗi chủ thẻ.
* Bước 3: Cấp thẻ cho khách hàng.


×