Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BÀI ĐIỀU KIỆN MÔN VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM: Chủ đề Tâm thức dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.26 KB, 10 trang )

BÀIĐIỀUKIỆNMƠNVĂNHỐDÂNGIANVIỆTNAM
1


Chủ đề:Tâm thức dân gian

Nhóm 11:
1, Nguyễn Thị Chung
2, Vũ Thị Thuỳ
3, Lan Anh
4, Tố Uyên
5, Thuỳ Linh
6, Ngọc Anh

2


I,Khái niệm tơn giáo,tín ngưỡng.
1,Định nghĩa về tơn giáo:
Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa
tơn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập
đến những câu hỏi căn bản về đặc tính lồi người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại
của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín
ngưỡng, kể cả những hệ thống khơng tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ
thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến
vấn đề này vì khơng có chứng cớ.
Cách định nghĩa thứ hai, đơi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa
tơn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan
sát một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với
thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ
nghĩa nhân bản thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết bất khả tri, vì


những hệ thống này khơng dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào
cách hiểu theo khoa học.
Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất",
định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ
vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng
cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ
thống không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải
thích những chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất
tơn giáo", nhưng cũng có người tơn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa
học" là hai cách hồn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác
bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải
thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.
Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tơn giáo
là các hội đồn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của
tất cả các tơn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tơn giáo" vào một vị trí trái
3


ngược với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần"
về việc tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh. Tuy nhiên, trong nghĩa này tôn
giáo và tinh thần không cần phải "được cái này mất cái kia": một người sùng đạo
có thể có tinh thần hay khơng tinh thần, và một người có tinh thần có thể có hay
khơng sùng đạo. Theo tương tự, ta có thể xem "tơn giáo" như là than, củi, hay
xăng, và "tinh thần" là ngọn lửa
2,Định nghĩa về tín ngưỡng:
Tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống. mà con người tin vào để giải thích
thế giới và để mang lại sự bình yên cho bản thân và mọi người. Tín ngưỡng cịn
là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của cuộc sống bền vững. đôi khi được
hiểu là tơn giáo.
II,Các tín ngương dân gian chủ yếu.

1 . Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
a.Thờ Tam phủ , thờ Tứ phủ
_Tam phủ là anh từ để chỉ ba vị thánh thần : Bà Trời (hay Mẫu Thượng
Thiên ):cai quản vùng trời
Bà chúa Thượng ( hay Mẫu Thượng Ngàn ) :cai quản vùng rừng
Bà Nước ( hay Mẫu Thoải ) :cai quản vùng sông nước
_Tứ Phủ là gồm ba vị Mẫu trên và Mẫu Địa Phủ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng
những vị nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ được người đời cho
rằng có chức năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của con người (như:
trời, đất, sông nước, rừng núi..): thờ những thái hậu, hồng hậu, cơng chúa là
những người khi sống tài giỏi, có cơng với dân, với nước, khi mất hiển linh phù
trợ cho người an, vật thịnh.
Các vị nữ thần này được tôn vinh với các chức vị: Thánh Mẫu (như Thánh
Mẫu Liễu Hạnh... Chúa Xứ Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thượng Ngàn
Thánh Mẫu…), Quốc Mẫu (như Quốc Mẫu Âu Cơ…), Vương Mẫu (như người
mẹ của Thánh Gióng được tơn vinh là Vương Mẫu…).
4


Tục thờ Mẫu ra đời trên cơ sở tục thờ nữ thần. Các Thánh mẫu đều là nữ
thần. Các vị được thờ trong các đền, chùa, miếu, điện; đặc biệt là có Thánh Mẫu
Liễu Hạnh được thờ trong một loại hình kiến trúc riêng là Phủ: phủ Giầy, Phủ
Tây Hồ.
Đến thế kỷ XVI, trên cơ sở tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ phủ, với sự ra đời của
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tơn giáo bản địa sơ khai được hình thành - đó là
Đạo Mẫu. So với tín ngưỡng thờ nữ thần, với các phủ, các hàng (hàng Cô,
Cậu….) tương đối lớp lang, rõ rệt.
Điện thần của Đạo Mẫu có hàng chục vị thần linh nhưng đều quy tụ dưới sự
điều khiển củ Tam Tồ Thánh Mẫu, trong đó có một vị thần Mẫu cao nhất, mang

tư cách như một vị giáo chủ, đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, được xem nhu là một
hố thân của Mẫu Thượng Thiên.
Tam tồ Thánh Mẫu là từ tín ngưỡng thờ Mẫu dùng để chỉ hệ thống sáng tạo
vũ trụ gồm 3 vị Thánh Mẫu cai quản 3 miền vũ trụ là Mẫu Thượng Thiên (còn
gọi là Mẫu Đệ Nhất) - cai quản miền trời, Mẫu Thượng Ngàn (còn gọi là Mẫu
Đệ Nhị) - cai quản miền rừng núi, Mẫu Thuỷ (gọi chệch là Mẫu Thoải - còn gọi
là Mẫu Đệ Tam) - cai quản miền sơng nước. Trong điện thần của tín ngưỡng thờ
mẫu, Tam Toà Thánh Mẫu được thờ chung một hàng ngang với thứ bậc vị trí rõ
ràng: Mẫu Thượng Thiên chồng khăn màu xanh, bên phải là Mẫu Thoải choàng
khăn màu trắng. Khi Thánh mẫu Liễu Hạnh xuất hiện. Bà được đề cao, mang tư
cách là hoá thân của Mẫu Thượng Thiên. ở Phủ Giầy (Phủ Giầy - Nam Định)
tương truyền là quê hương của Mẫu Liễu từ lâu đã trở thành trung tâm thờ Mẫu
của người Việt. ở đây nhiều người dân cho rằng Tam Toà Thánh Mẫu là kết quả
3 lần đầu thai của công chúa con của Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống trần gian,
thể hiện dưới 3 tượng hình của Mẫu Liễu: lúc là tiên nữ, lúc là cô gái trần gian,
lúc quy y Phật. Ba vị nhưng nhất thể là một - Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
B.Thờ tứ pháp
Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho
các hiện tượng tự nhiên có vai trị quan trọng trong xã hội nơng nghiệp. Sau này
5


khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp
với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Tứ pháp gồm:
• Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
• Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
• Pháp Lơi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
• Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
Nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc bộ, vừa là vùng đồng bằng, vừa là vùng
bán sơn địa, sản xuất nơng nghiệp là chính, các cư dân nơng nghiệp Hà Nam cho

đến nay vẫn cịn lưu giữ trong đời sống văn hố tinh thần của mình nhiều hình
thái tín ngưỡng thờ thần nơng nghiệp cổ sơ. Đậm nét nhất, có thể nói, là tín
ngưỡng thờ Tứ Pháp.
Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật
hữu linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình sống phải
đối mặt với mn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật
đều có linh hồn, người nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên
đều có một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có
đời sống con người, đặc biệt, đối với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước.
Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn sâu vào tâm thức người dân Việt từ
xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào
Việt Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ điều đó và nhận thấy nếu Phật giáo muốn
bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự dung hịa với tín ngưỡng dân gian. Nhận
thức ấy khơng sai lầm, và đó là ngun nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần
giữa một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian) với một
vị chân tu thông tuệ (tượng trưng cho một tôn giáo lớn). Kết quả của sự giao
thoa văn hoá ấy là hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm tính chất dân gian
của người Việt mà có người gọi khơng sai là Phật giáo dân gian.
c. Thờ động vật và thực vật
Khác với nhiều nền văn hóa khác nhau là thờ các con vật có sức mạnh như
hổ, sư tử, chim ưng,... tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành hơn như
6


trâu, cóc, rắn, chuột, chó, mèo, voi,.... các con vật đó gần gũi với cuộc sống của
người dân của một xã hội nơng nghiệp. Người dân cịn đẩy các con vật lên thành
mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc
"họ Hồng Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống "Rồng Tiên".
Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ở vùng Nam Á ,sau đó mới được phổ biến ở
Trung Quốc rồi đến các nước phương tây. Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư

duy nơng nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể
bay lên trời mà khơng cần cánh; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất
nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm
Rồng,...
Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,...
đơi khi ta thấy cịn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,...
2,Tín ngưỡng phồn thực
*Khái niệm:là sự tín tưởng,ngưỡng mộ và sùng bái sự sinh tín nảy nở của tự
nhiên và con người.
*Cơ sở hình thành:Tín ngưỡng phồn thựuc hình thành từ xa xưa trong lịch
sử trên cơ sở tư duy thục quan,cảm tính của cư dân nơng nghiệp trước sự sinh
sơi để duy trì cuộc sống của con người trước sự sinh sôi để duy trì sựu sống của
cây trồng vật ni..Họ nhìn thấy ở thựuc tiễn đó 1 sức mạnh siêu nhiên và sung
bái các hiện vật-hiện thựuc đó như thần thánh.Như vậy,bản chất của tín ngưỡng
phồn thực là sự câu sinh nở và no đủ.
*Ở nước ta tín ngưỡng phồn thựuc tồn tại dưới 2 dạng biểu hiện:thờ cờ quan
sinh dục nam nữ và thờ bản thân hành vi giao phối.
-thờ cơ quan sinh dục anm nữ:đưuợc gọi là thờ sinh thực khí.đây là hình thái
đơn giản của tín ngưỡng phồn thựuc,nó phổ biến ở các nền văn hố nơng ngiệp
trên thế giới.Thuật ngữ của ngành dâ tộc học trên thế giới gọi là Linga và Yoni.Ở
việt nam việc thờ cúng sinh thựuc khí được gọi là thừo cúng nõ nường.Những
tên chỉ sinh thựuc khí là nõ-tượng cho bộ phận sinh dục anm.Nường tượng cho
bộ phận sinh duc nữ.ngồi ra cịn các biến thể của cơ quan sinh dục nam nữ
7


như:thờ các cột đá tự nhiên,thờ các kẽ đá nứt tự nhiên,tạc accs cơng trình kiến
trúc có hình đáng như bộ phận sinh dục nam nữ.(ví dụ như cột đá chùa Giam)
-Thơ hành vi giao phối:1 dạng tín ngưuỡng phồn thựuc độc đáo,đặc biệt phổ
biên ở khu vực Đông Nam Á

Ở việt nam có những biẻu hiện của tín ngưỡng này như:tượng 4 đôi nam nữ
đang giao hợp được đúc bằng đồng,gắn trên nắp thạp đồng Đào Thịnh(Yênn bái
niên đại 500 năm trước công nguyên.Ở thân thạp Đào Thịnh khắc chìm những
hình con thuyền,chiếc sau nối đi chiếc trước,khiến cho 2 đuôi con cá sấu-rồng
gắn ở mũi và lái của 2 chiéc thuyền chạm vào nhau trong tư thế giao hoan.Trên
nắp trống đồng hồng hạ(Hà sơn bình) có khắc nhữung cặp chim ngồi trên lung
nhau trong tư thế đạp mái:tuuwọng cóc giao phối,điệu múa tùng-di trong lễ hội
làng ácc vùng trung châu nay thuộc tỉnh Phú thọ với các cặp đôi nam nữ từng
đôi múa,cầm tay trong những vật biểu trưng cho sinh thựuc khí nam và nữ,cứ
mỗi khi nghe đánh trống họ lại giơ 2 vật đó chạm vào nhau.Tượng nam nữ với
các bộ phận sinh dục quá cỡ thường xun có mặt ở nhà mồ Tây ngun.
3.Tín ngưỡng sung bái con người
*. Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng,
khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm “linh hồn”, và
linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt và một vài dân tộc Đơng
Nam Á cịn tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng con người có
3 hồn, nhưng vía thì nam có 7, nữ có 9.
Chết tức là cơ thể chuyển từ trạng thái động trở thành tĩnh, cho nên theo triết
lý âm dương thì hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm
(Âm ti, Âm phủ). Đó là một “thế giới bên kia”. Ở vùng nơng nghiệp sơng nước
này thì “thế giới bên kia” cũng là nơi sông nước, ngăn cách chúng ta bằng 9 suối
(9 – con số lẻ ước lệ biểu thị số nhiều); tới đó phải đi bằng thuyền: thời Đông
Sơn, người chết được chôn trong những quan tài bằng thân cây đẽo theo hình
thuyền. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và suốt miền duyên hải Trung Bộ còn lưu giữ

8


nghi lễ “chèo đưa linh” – hội các bà múa điệu chèo đò và hát những câu đưa tiễn
linh hồn người chết về nơi chín suối.

Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở nơi chín suối
nhưng ơng bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu là
cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở nhiều dân tộc Đơng
Nam Á và là nét đặc thù của vùng văn hóa này. Ở người Việt, nó gần như trở
thành một thứ tơn giáo (nhiều nơi gọi là đạo Ông Bà), ngay cả những gia đình
khơng tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên ở trong nhà.
*. Trong gia đình, ngồi thờ tổ tiên, người Việt Nam cịn có tục thờ Thổ
Cơng. Thổ Công – một dạng của Mẹ Đất – là vị thần trông coi gia cư, định đoạt
phúc họa cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Cơng ở đó: Đất có Thổ Cơng,
sơng có Hà Bá.
Mối quan hệ giữa Thổ Công (địa thần) với ông bà tổ tiên (nhân thần) trong
gia đình rất thú vị: Thổ Cơng định đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị thần quan
trọng nhất, nhưng ông bà sinh thành ra ta được tơn kính nhất. Để khơng làm mất
ai, người Việt Nam xếp cho tổ tiên ngự tại cái bàn thờ tôn kính nhất ở gian giữa,
cịn Thổ Cơng thì ở gian bên trái (theo Ngũ hành thì bên trái – phương Đông là
nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm). Tuy địa vị kém nhân thần nhưng quyền
lực lại lớn hơn – Thổ thần được coi là Đệ nhất gia chi chủ. Mỗi khi giỗ cha mẹ,
đều phải khấn Thổ Công trước rồi xin phép Ngài cho cha mẹ được về “phối
hưởng”.
*. Tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam khơng chỉ đóng khung trong phạm vi
gia đình. Ngồi các vị thần tại gia, cịn có các thần linh chung của thơn xã hoặc
tồn dân tộc.
Trong phạm vi thơn xã, quan trọng nhất là việc thờ thần làng (Thành
Hoàng). Cũng như Thổ Cơng trong một nhà, Thành Hồng là vị thần cai quản,
che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng đó. “Thành Hoàng” là một từ Hán –
Việt xuất hiện sau này để chỉ một khái niệm đã có từ lâu đời ở các làng quê Việt
Nam mà người dân miền núi quen gọi là ma làng.
9



*. Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành Hồng, thì trong nước, người
Việt Nam thờ vua tổ - vua Hùng. Mảnh đất Phong Châu (Phú Thọ), nơi đóng đô
của các vua Hùng khi xưa, trở thành đất Tổ. Ngày 10-3 là ngày giỗ Tổ. (Tục thờ
vua Tổ chỉ có ở Việt Nam – điều này càng cho thấy tính đặc thù của tục thờ cúng
tổ tiên ở người Việt Nam).
Thánh Gióng - Một trong "Tứ bất tử"
Người Việt Nam cịn có một tín ngưỡng đặc biệt là thờ Tứ Bất Tử (bốn
người khơng chết): Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đông Tử và Liễu Hạnh.
Tản Viên (với truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh) và Thánh Gióng (với
truyền thuyết Thánh Gióng) là biểu tượng cho sức mạnh đồn kết của một cộng
đồng cư dân nông nghiệp, để, một mặt ứng phó với mơi trường tự nhiên là
chống lụt, và mặt khác ứng phó với mơi trường xã hội là chống giặc ngoại xâm.
Sự phối hợp thần thánh ấy đã dựng nên Đất Nước.
Có đất nước rồi, được sự sống yên ổn rồi, con người Việt Nam khơng mơ
ước gì hơn là xây dựng một cuộc sống phồn vinh về vật chất và hạnh phúc về
tinh thần. Chử Đồng Tử - người nông dân nghèo với hai bàn tay trắng đã cùng
vợ gây dựng nên cơ nghiệp với phố xá sầm uất, mang hàng ra biển buôn bán với
khách thương nước ngồi – chính là biểu tượng cho ước mơ thứ nhất. Liễu Hạnh
– người con gái xã Vân Cát (huyện Vụ Bản – Nam Định), tương truyền là công
chúa con trời, 3 lần bỏ cuộc sống đầy đủ trên thiên đàng, xin vua cha cho xuống
trần gian để sống cuộc đời của một người phụ nữ bình dị với khát vọng về tự do,
hạnh phúc – chính là biểu tượng cho ước vọng thứ hai. Hai ước vọng thiêng
liêng ấy đã tạo nên Con Người.
Như vậy, tục thờ Tứ Bất Tử là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân
tộc ta. Đó là tinh hoa được chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử, biểu tượng cho
sức mạnh liên kết của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây
dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.

10




×