Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1g ở trường tiểu học bắc sơn thành phố sầm sơn tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.75 KB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC BẮC SƠN
SẦM SƠN,
MỤC LỤC
Trang
1. Phần mở đầu ……………...……………………………………………... 1
1.1. Lý do chọn đề tài ……………….…………………………..……...…. 1
1.2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………..… 2
SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM
1.3. Đối tượng nghiên cứu
…………………………………………………..
3
1.4 Phương pháp nghiên cứu. …………………………………...…… ……. 3
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm…………………………………………...3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm ……………..………………...3
2.2. Thực trạng của sáng kiến kinh nghiệm ……………………………….....5
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn
đề……………………………………………………………………….….8
MỘT
PHÁP
ĐỌC
2.4 .Hiệu quả của
sángSỐ
kiếnBIỆN
kinh nghiệm
đốiRÈN
với hoạt
độngCHO
giáo dục, với bản


thân,HỌC
đồng nghiệp
nhà trường
16
SINHvàLỚP
1G Ở…………………………………………….
TRƯỜNG TIỂU HỌC BẮC SƠN
3. Kết luận,
kiến nghị………….
……………………………………………17
THÀNH
PHỐ SẦM
SƠN – TỈNH THANH HÓA
3.1. Kết luận…………………………………………………………………17
3.2. Kiến nghị………………………………………………………………..18
*Tài liệu tham khảo……………………………………………………..…...

MỤC LỤC
Trang
1. Phần mở đầu ……………...……………………………………………... 1
Họ và tên người thực hiện : Dương Thùy Dung
1.1. Lý do chọn đề tài ……………….…………………………..……...…. 1
Chức vụ: Giáo viên
1.2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………..… 2
Đơncứu
vị …………………………………………………..
cơng tác: Trường Tiểu học Bắc Sơn
1.3. Đối tượng nghiên
3
SKKN

thuộc
môn:
Tiếng
Việt
1.4 Phương pháp nghiên cứu. …………………………………...…… ……. 3
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm…………………………………………...3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm ……………..………………...3
2.2. Thực trạng của sáng kiến kinh nghiệm ……………………………….....5
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn
đề……………………………………………………………………….….8
2.4 .Hiệu quả của sáng kiến kinh
đối với2021
hoạt động giáo dục, với bản
SẦMnghiệm
SƠN , NĂM
SẦM SƠN, NĂM 2020


2
MỤC LỤC

1. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Biện pháp 1: Giáo viên xác định yêu cầu chung của môn học
Biện pháp 2: Tác động giáo dục
Biện pháp 3: Phân loại khả năng đọc của học sinh trong lớp
Biện pháp 4: Học sinh học các nét chữ cơ bản
Biện pháp 5: Giáo viên đọc mẫu chuẩn
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh phát âm và chữa lỗi phát âm bằng
phương pháp giáo dục
Biện pháp 7: Sử dụng tranh ảnh và dụng cụ học tập một cách thường
xuyên trong tiết dạy
Biện pháp 8: Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh
Biện pháp 9: Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh
Biện pháp 10: Tuyên dương, khuyến khích học sinh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
*Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
1
2
2
2
2
4
9
9

9
9
10
11
11
15
15
16
16
17
18
18
18
20

1. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt giữ một vai trị quan trọng trong chương trình Tiểu học.
Học tốt môn Tiếng Việt là tiền đề để học tốt các môn học khác
Mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học là: Hình thành và phát triển các
kĩ năng nghe – nói – đọc – viết cho học sinh, nhằm giúp các em sử dụng tiếng
Việt có hiệu quả trong việc học tập và giao tiếp ở gia đình, trường học và xã hội.
Mơn Tiếng Việt góp phần cùng mơn học khác phát triển năng lực tư duy cho học
sinh.Góp phần hình thành nhận thức tình cảm, thái độ hành vi đúng đắn của con
người trong quan hệ gia đình và xã hội.
Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ
mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là


3

phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí
quan trọng khơng thiếu được trong chương trình mơn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các
em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các
em có điều kiện nghe lời thầy, cô giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách
tham khảo... Từ đó, có điều kiện học tốt các mơn học học khác có trong chương
trình.
Ở lớp 1, các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Kỹ
năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở
các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy,
cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu,
đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn
học khác. Mặt khác ở lớp 1, các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trơi
chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ
ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt khá giỏi.
Bản thân là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 1, tôi thấy được
quá trình dạy đọc đúng cho học sinh lớp 1 là rất quan trọng. Đối với học sinh lớp
1, kĩ năng đọc địi hỏi khơng cao lắm nhưng việc đọc đúng chuẩn gặp rất nhiều
khó khăn. Các em chưa có kĩ năng đọc, chưa thực sự cố gắng, phát âm chưa
chuẩn, nhiều em cịn nói ngọng nên phát âm chưa đúng. Chính vì vậy, tơi ln
trăn trở làm thế nào cho các em nắm bắt một cách nhanh nhất về kĩ năng đọc.
Điều đó thơi thúc tơi khơng ngừng học hỏi, nghiên cứu.. Chính vì vậy, tơi đã
mạnh dạn nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm về “Một số biện pháp rèn
đọc cho học sinh lớp 1G ở trường Tiểu học Bắc Sơn – Thành phố Sầm Sơn –
Tỉnh Thanh Hóa ” với mong muốn được chia sẻ những gì tích lũy được qua
thực tế giảng dạy ở trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Bản thân tơi khi nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm ra giải pháp và
hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực
đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm cho mỗi học sinh.

+ Về đọc đúng: HS đọc đúng các phụ âm đầu, vần, thanh, đọc đúng các
tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ.
+ Đọc hay, đọc diễn cảm: HS khi đọc bài văn, bài thơ phải biết ngắt, nghỉ
đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên
giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, biết đọc với giọng điệu của từng nhân
vật trong bài học, trong các câu truyện,…
Thơng qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn
học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp
nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển
toàn diện về mọi mặt: Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1G ở trường Tiểu học Bắc
Sơn – Thành phố Sầm Sơn – Tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu:


4
Để đạt được mục đích rèn đọc cho học sinh tôi đã sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp trao đổi với đồng nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài, tìm hiểu sách
sách giáo khoa – sách giáo viên Tiếng Việt 1.
- Dạy thực nghiệm.
- Kiểm tra đánh giá sau thực nghiệm.
- Tổng kết, đánh giá.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ở Tiểu học dạy đọc có một vị trí rất quan trọng, dạy tốt phần này là đáp
ứng một trong bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Từ những đổi mới của chương

trình Tiểu học lớp 1 năm 2020, đòi hỏi phải đổi mới chương trình mơn Tiếng
Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về: - Mục tiêu Giáo dục
- Nội dung và phương pháp dạy học - Cách thức đánh giá học tập của học sinh.
Theo đặc trưng của môn tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ
năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới
như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức
và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.
Như chúng ta đã biết môn tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngơn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngơn ngữ
đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân
mơn của chương trình tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân mơn có vị trí đặc
biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát
triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng quan
trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là mơn học cơng cụ, là chìa khố, là
phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người. Tập đọc giúp các em hiểu
được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Tập đọc, đặc biệt là đọc
đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng
có nghệ thuật, góp phần khơng nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát
triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú.
Trong thực tế mỗi bài đọc đều có hai phần lớn: Luyện đọc và tìm hiểu nội
dung. Hai phần này có thể tiến hành song song hoặc đan xen vào nhau hoặc
cũng có thể dạy tách theo hai phần. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên lựa chọn.
Nhưng dù dạy như thế nào thì hai phần này ln có mối quan hệ khăng khít với
nhau, đọc và tìm hiểu bài giúp học sinh hiểu kĩ nội dung của văn bản. Từ đó các
em đọc đúng, biết đọc ngắt giọng, nhấn giọng để thể hiện nội dung của bài, thể
hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài đọc. Từ đó, góp phần hình thành
ở các em những phẩm chất, nhân cách tốt. Đọc là một môn học mang tính chất
tổng hợp, vì ngồi nhiệm vụ dạy đọc nó cịn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức tiếng
Việt và giáo dục nhân văn cho các em. Cho nên sau khi học đọc yêu cầu học
sinh cần đạt được là:

- Đọc đúng: Phát âm đúng, rõ ràng, âm lượng, tốc độ vừa phải.


5
- Biết ngắt giọng, nghỉ giọng, nhấn giọng ( lưu lốt, trơi chảy)
- Đọc đúng ngữ điệu: đọc đúng mục đích câu.
- Đọc diễn cảm (giọng đọc, sắc thái biểu cảm)
- Hiểu nội dung và ý nghĩa giáo dục của bài đọc (cảm thụ văn học)
Từ đó, các em sẽ học tốt các môn học khác, bởi đọc đúng được chính xác
nội dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Tốn đúng, viết đúng và nói
đúng,... Đọc đúng góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng
lực cho học sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa Tiếng
Việt 1 (bộ sách Cánh Diều) là những câu chuyện gần gũi, những bài văn, bài thơ
hay. Chính vì thế mà các em có vốn văn học phong phú. Cũng như các mơn học
khác ở các cấp học, mơn Tập đọc địi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp:
Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh giữ vai trò chủ đạo trong q trình học tập,
thầy thiết kế - trị thi cơng. Tự tìm tịi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới
sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy
thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống
phong phú cho học sinh.
Hướng vào hoạt động giao tiếp là nguyên tắc đặc trưng của dạy học Tiếng
Việt nói chung và dạy học Tập đọc nói riêng. Để giúp các em đọc đúng, trơi
chảy, lưu lốt, diễn cảm thì cần phải làm cho các em hiểu rõ văn cảnh của từng
nội dung bài đọc cụ thể, hướng các em vào các tình huống thực tế để hiểu hơn,
cảm nhận rõ hơn nội dung văn bản, từ đó các em sẽ có cảm nhận tốt hơn trong
việc đọc. Từ nội dung các bài học ấy, các em cũng rút ra được những bài học
thực tế cho bản thân và điều chỉnh hành vi của mình trong thực tiễn giao
tiếp. Nguyên tắc giao tiếp còn phải được thực hiện trong chính q trình dạy
học. Người giáo viên cần tạo điều kiện để các em thảo luận, giao lưu, nhận xét
lẫn nhau. Qua đó, các em dần học được cách nói năng, ứng xử phù hợp trong

giao tiếp.
Trong chương trình Tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 (bộ sách Cánh
Diều) đã được chọn lọc kĩ càng. Nhằm cung cấp, bồi dưỡng cho các em lòng
yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu người thân, hiểu và yêu
thêm lịch sử Việt Nam.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Năm 2020 – 2021 tôi được phân giảng lớp 1G với sĩ số lớp 31học sinh
gồm 17 nam và 14 nữ (2 em khuyết tật, 2 em tiếp thu cực chậm) và là người trực
tiếp dạy phân mơn Tiếng Việt 1. Trong q trình dạy học, tơi đã nghiên cứu, tìm
hiểu và thấy được một số thực trạng như sau:
* Về phía giáo viên.
+ Ưu điểm:
- Giáo viên có nhiệt huyết, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và luôn trăn trở về phương pháp dạy học Tiếng
Việt 1.
- Giáo viên thực hiện đúng phương pháp phù hợp với tâm lý của học sinh
lớp 1.
- Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa
bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ.


6
- Giáo viên ln có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
- Giáo viên nắm chắc tiến trình tiết dạy, thực hiện đúng mục tiêu của bài.
- Bản thân đã được tập huấn chuyên sâu chương trình Tiếng Việt 1- bộ
sách Cánh Diều theo kế hoạch của phòng Giáo dục của trường nên mỗi giáo
viên đã tổ chức dạy đúng phương pháp, tuân thủ việc dạy học theo sách thiết kế
Tiếng Việt 1.
- Bản thân nắm chắc tiến trình từng mẫu bài, dạng bài, dạy đúng mục tiêu

của từng bài học, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ và ln trăn trở về việc tìm biện pháp dạy học Tiếng Việt 1 để đạt
hiệu quả cao.
- Có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa bài
nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ.
- Có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp trong dạy học một cách linh
hoạt, sáng tạo.
+ Nhược điểm:
- Năm đầu tiên thực hiện dạy chương trình Tiếng Việt 1 – Bộ Cánh Diều
bản thân tôi đôi lúc vẫn còn lúng túng trong việc xác định phương pháp giảng
dạy, kĩ thuật hướng dẫn học sinh đọc những vần, từ khó... sao cho hiệu quả nhất.
- Một số giáo viên còn nhầm lẫn phương pháp dạy học chương trình cũ
với chương trình Tiếng Việt 1- bộ sách Cánh Diều.
- Một số giáo viên diễn đạt còn lúng túng chưa sáng tạo, chưa thống
nhất được tiến trình dạy từng dạng bài.
- Một số giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy.
- Do chất lượng đọc của giáo viên còn nhầm lẫn giữa dấu hỏi và dấu ngã,
cách phát âm chưa chuẩn do ảnh hưởng của phương ngữ.
- Do còn coi nhẹ việc rèn đọc diễn cảm cho mình và cho học sinh.
- Trong giờ Tập đọc chưa chú trọng đến khâu luyện phát âm và hướng dẫn
luyện cách ngắt, nghỉ, nhấn giọng chưa hợp lí.
- Chưa giảng sâu nội dung bài Tập đọc, nhấn mạnh tính cách nhân vật,
chưa hướng dẫn cụ thể cách đọc giọng kể như thế nào, giọng nhân vật ra làm
sao. Do đó học sinh khơng định hình được cách thay đổi giọng điệu cho phù hợp
với nội dung đọc, chưa thực sự gây hứng thú cho học sinh.
- Do giáo viên chưa thực sự tâm huyết rèn đọc cho học sinh ở mọi lúc,
mọi bài học cho học sinh.
- Do giáo viên chưa động viên, khích lệ kịp thời cho học sinh.
* Về phía học sinh:
+ Ưu điểm:

- Một số em đã biết tất cả các chữ cái khi bắt đầu vào đầu lớp Một.
- Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập.
- Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời.
- Một số em tiếp thu nhanh (Đạt, Phước Lộc, Thanh Tâm, Quang, Trà My,
Huyền Anh, Mỹ Tâm,…).
- Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em.
+ Nhược điểm :


7
Học sinh lớp 1 cịn nhỏ, có những hạn chế về tâm sinh lý nên điều kiện
tiếp xúc xã hội cịn găp nhiều khó khăn. Các em cịn rụt rè chưa tự tin. Chính vì
vậy mà trong giờ học, các em thường ít phát biểu, ngại nói ra những suy nghĩ
của mình. Một vài em tuy có bạo dạn hơn song khi đứng lên nói, các em khơng
dám bộc lộ lời nói giọng đọc phù hợp với văn cảnh vì cịn ngại thể hiện trước
tập thể. Ngồi ra, cịn rất nhiều yếu tố khiến việc đọc của các em chưa được tốt
như:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, học sinh Tiểu học cịn nhỏ, tính tự giác
trong học tập chưa cao.
- Do ảnh hưởng cách phát âm của phương ngữ (tiếng địa phương).
- Học sinh hiểu nghĩa của từ còn hạn chế.
- Vốn từ của các em còn q ít ỏi.
- Kĩ năng nói và viết chưa thực sự tốt.
- Vẫn có em đọc cịn ngọng ( l/n, thanh hỏi, thanh ngã...)
- Do chưa nắm rõ qui tắc ngắt, nghỉ hơi.
- Do chưa nắm và phân biệt thanh huyền và thanh sắc.
- Do chưa nắm và phân biệt đúng cách đọc các âm vần và thanh điệu.
- Tìm hiểu về nghĩa của từ còn hay lẫn lộn vv...
- Một số em yếu khi học sang phần nguyên âm đơi hoặc âm đệm ( vì một
kiểu vần lại có cách đánh vần riêng) còn nắm chưa chắc.

- Khi đọc một số bài tập đọc các em phát âm còn sai, đọc chưa rõ ràng,
không ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
- Các em cịn phát âm sai, nói ngọng rất nhiều, rồi đọc chưa diễn cảm,
chưa đúng ngữ điệu đọc chưa lưu lốt, trơi trảy.
+ Các em thường phát âm sai các phụ âm đầu.
Ví dụ: Đọc lẫn lộn giữa n/ l, phát âm p (pờ) thành b (bờ), s thành x, tr và
ch….
+ Các lỗi phần vần, âm cuối.
Ví dụ: huệ thành hệ, hoa thành ha, xanh thành xăn, ngạt mũi thành ngạc
mũi, toàn thành toàng , máy bay thành mái bai, thỉnh thoảng thành thỉnh thoản,
hươu thành hiêu, mưu trí thành miu chí, nước mía thành nức mí...
+ Các em cịn nói ngọng.
Ví dụ: cái quần thành cái quầng, an toàn thành an toàng, bật đèn thành bậc
đèng...
Sở dĩ, do các em phát âm sai như vậy, tôi thiết nghĩ là do: Địa phương
nằm trong vùng có điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn. Đa phần các em là con
nhà lao động nên việc học tập của các em có phần bị hạn chế, các em chưa được
trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng... khi đến lớp. Việc học ở nhà lại chưa có sự
kèm cặp quan tâm của gia đình. Điều đó làm cho thời gian học và hiệu quả học
tập của các em bị hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em.
Chính vì vậy mà giờ Tập đọc cịn buồn tẻ, học sinh đọc còn thêm bớt từ,
sai lỗi, chưa diễn cảm, chưa phù hợp với văn cảnh của văn bản.
Ngay từ đầu năm học, tơi tìm hiểu nắm rõ hoàn cảnh từng học sinh, nắm
chắc chất lượng đọc của lớp mình. Phân loại và quan tâm đến mọi đối tượng học


8
sinh trong lớp ngay từ đầu năm học. Khi bắt đầu nhận lớp tôi đã tiến hành khảo
sát chất lượng đọc của các em, cụ thể như sau :
- Khảo sát giữa học kì I:

TSHS

Đọc sai
phụ âm
đầu

Đọc sai Đọc thiếu
dấu
(hoặc thừa)
tiếng

31

6

3

Tỉ lệ

19%

10%

Ngắt,
nghỉ hơi
chưa
đúng

Tốc độ
đọc cịn

nhanh
(hoặc
chậm)

Đọc
đúng

4

5

4

9

13%

16%

13%

29%

Qua kết quả khảo sát tơi nhận thấy:
- Tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái cịn
thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lí do dễ thấy là các
em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học tập. Nhận
biết được hoàn cảnh cụ thể của từng em tơi lựa chọn phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học phù hợp sao cho các em không cảm thấy bị gị bó mà ngược lại
trong từng tiết học các em cảm thấy hứng thú. Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành

họp phụ huynh học sinh đầu năm học, đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị
đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học như bộ chữ thực hành,
bảng găm.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà
của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát
âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ cách dạy
học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ
đầu năm
- Sắp xếp học sinh yếu ngồi bàn đầu để tiện cho việc đi lại và theo dõi
uốn nắn.
- Nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá,
trung bình, yếu. Đối với các học sinh yếu, các em chưa nhìn được mặt chữ cái
hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái, tôi dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối
tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét
cơ bản.
Có một bộ phận học sinh phát âm sai, phổ biến là sai các phụ âm đầu vần và dấu
thanh. Trong đó phổ biến là các phụ âm đầu như l/n; ch/tr; s/x và các dấu thanh
hỏi, ngã. Ngoài ra, các em chưa biết đọc diễn cảm, giọng đọc còn đều đều, chưa
biết thể hiện lên giọng hoặc hạ giọng, đơi khi cịn kéo dài giọng ở các câu thơ,
câu văn khiến người nghe không cảm nhận được cái hay của bài văn, bài thơ đó.
Cụ thể, các lỗi học sinh thường mắc là:
* Đọc sai phụ âm đầu


9
VD: - ch/tr: trẻ/chẻ; trong/chong,..
- s/x; xuống/suống; song/xong,..
* Đọc nhầm, lẫn lộn các dấu thanh:
VD: - thanh hỏi/ thanh ngã: quả ổi/ quã ỗi, đu đủ / đu đũ,…

- thanh ngã/ thanh sắc: cũng/cúng
* Đọc sai nguyên âm:
VD: at/ ac: chát / chác, nát / nác,.. ( Phần lớn là học sinh nói ngọng )
* Đọc bớt tiếng hoặc thêm tiếng.
* Đọc không biết ngắt giọng, nhấn giọng phù hợp.
* Đọc phân vai cịn lúng túng
* Đọc mà khơng hiểu nội dung.
Có nhiều học sinh sau khi đọc xong một bài văn hay bài thơ, khi giáo viên
hỏi các câu hỏi liên quan đến nội dung bài đọc thì thường tỏ ra lúng túng hoặc
không trả lời được do các con chưa hiểu được nội dung của văn bản mà mình
đọc. Điều này thể hiện khả năng đọc và hiểu văn bản của các em chưa tốt từ đó
dẫn tới khả năng để cảm nhận, đọc diễn cảm của các em sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Như vậy, số học sinh đọc đúng còn chiếm tỉ lệ chưa cao. Trong khi đó, phần lớn
học sinh cịn đọc sai ở các lỗi mà tôi đã hệ thống như trên đây. Trước thực tế
trên, tơi đã cố gắng tìm tịi để đưa ra một số biện pháp nhằm giúp các em học
sinh đọc đúng, phát âm chuẩn, từ đó các em mới hiểu và cảm nhận được các văn
bản cụ thể, qua đó các em thêm u thích việc đọc, có ý thức tự rèn đọc, nâng
cao kĩ năng đọc cho bản thân.
* Về chương trình Tiếng Việt 1 – Bộ sách Cánh Diều
SGK Tiếng Việt 1 Cánh diều do GS-TS.Nguyễn Minh Thuyết làm Tổng
chủ biên cùng với các tác giả Hoàng Hịa Bình, Nguyễn Thị Ly Kha, Lê Hữu
Tỉnh biên soạn. Nội dung gồm ba phần: học chữ cái, vần và luyện tập tổng hợp.
Mỗi bài học 2 chữ cái hoặc 2-3 vần để phù hợp với mọi đối tượng học sinh; việc
học mỗi chữ, mỗi vần đều bắt đầu từ một từ khóa chỉ những sự vật quen thuộc
trong đời sống.
Điểm mới về nội dung của sách là bài 1 dạy chữ cái a thay vì e như sách
hiện hành. Nhiều người cho rằng, dạy chữ cái a trước vì tiếng học sinh phát ra
đầu đời là a, ba. Đây cũng được xem là một lý giải khá thuyết phục bởi dạy chữ
cái a sẽ dễ dàng, vừa sức với mọi học sinh hơn. Các tác giả đã sắp xếp thứ tự
dạy các chữ cái theo nhóm nét chữ để học sinh dễ viết. Bắt đầu bằng nhóm nét

cong, chuyển sang nhóm nét khuyết, đồng thời kết hợp dạy theo thứ tự bảng chữ
cái, kết hợp yêu cầu chính tả…
Cái hay, cái mới của SGK mới là phần luyện tập tổng hợp, học sinh có
thêm các giờ tự đọc sách báo và hoạt động trải nghiệm dưới tên gọi “Góc sáng
tạo”. Góc sáng tạo giúp đưa bài học vào cuộc sống thường nhật, gần gũi với
cuộc sống của học sinh. Các em sẽ được vận dụng những điều mình đã học, đã
biết vào việc viết, trưng bày, giới thiệu về sản phẩm như: bưu thiếp tặng người
thân, sưu tầm ảnh thiên nhiên, ảnh về thầy cơ, bạn bè, ảnh của
mình để giới thiệu về mình.
Ở mơn tiếng Việt, chương trình cũ quy định thời lượng dành cho môn
tiếng Việt lớp 1 là 350 tiết (10 tiết/tuần), trong khi chương trình mới dành thời


10
lượng 420 tiết (12 tiết/tuần) cho môn tiếng Việt lớp 1, tăng 70 tiết nhằm giúp
cho học sinh lớp 1 sớm đọc thơng viết thạo, có cơng cụ để học tốt các môn học
khác.
- Phương pháp dạy học mới khơi gợi tính sáng tạo, tự giác thiếp thu bài,
tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức.
- Phương pháp mới giúp học sinh nắm chắc kiến thức ngữ âm, chất lượng
môn học Tiếng Việt của học sinh đã được nâng lên nhiều so với trước.
- Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên,
nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trong
q trình học, các em cịn phải phân biệt được tiếng có âm đầu; tiếng có âm
chính; tiếng có âm đệm, âm chính; tiếng có âm đệm, âm cuối… học sinh phải
đọc những bài dài tới 30 tiếng, hay có bài học bốn vần hay có khi học sáu vần
một ngày đối với HS lớp một là quá nhiều)
- Nhiều bài đọc sử sụng nhiều từ địa phương nên học sinh khó hiểu,
khó nhớ.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến đọc sai của học sinh lớp 1
theo tôi để khắc phục những hạn chế trên cần chú ý đến một số giải pháp sau:
Biện pháp 1: Giáo viên xác định yêu cầu chung của môn học
Mục tiêu của môn Tiếng Việt đặt ra là hoàn thành và phát triển ở học sinh
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (Nghe - Nói - Đọc - Viết) để học sinh tập giao tiếp
trong các mơi trường họat động của lứa tuổi. Ngồi ra cịn hình thành và phát
triển những phẩm chất như tính chính xác, tỷ mỉ, cẩn thận, chu đáo, tính kỷ luật,
tiết kiệm, yêu lao động và tính sáng tạo... Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, biết
giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Học hết lớp 1, các em phải đạt yêu cầu
sau:
a. Về kỹ năng đọc thành tiếng.
- Đọc thông thạo và tốc độ cần đạt là khoảng 30 tiếng/1 phút
- Biết cầm sách đọc đúng tư thế.
- Biết đọc liền từ, đọc cụm từ, đọc liền câu, ngắt, nghỉ, hỏi đúng lúc, đúng
chỗ.
b. Kỹ năng đọc hiểu.
- Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu đã đọc
(Độ dài cần khoảng 10 tiếng).
- Học thuộc lòng một số bài văn vần (thơ, ca dao) trong sách giáo khoa.
Biện pháp 2: Tác động giáo dục
- Từ những thực trạng trên, tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề
nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở đồ dung cần thiết phục vụ cho
môn học.
- Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm
bài ở nhà của học sinh.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dùng tranh ảnh và tài
liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dùng học tập,sách giáo
khoa cho học sinh có hồn cảnh khó khăn.



11
- Xây dựng đôi bạn học giỏi - yếu kèm cặp nhau.
- Đưa ra các tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Đầu giờ, cùng các nhóm
kiểm tra chéo nhau. Cuối 1 tuần tổng kết thi đua vào giờ sinh hoạt. Hết tháng
tổng kết tháng và có trao thưởng bằng phấn màu, bút chì, vở ...
Biện pháp 3: Phân loại khả năng đọc của học sinh trong lớp.
Để có thể giúp đỡ học sinh đọc tốt hơn, việc đầu tiên theo tôi cần làm là
người giáo viên cần phải nắm rõ được khả năng đọc của từng học sinh. Sau đó,
giáo viên cần phân loại khả năng đọc theo từng nhóm đối tượng cụ thể.
Ví du: Phân nhóm học sinh đọc ngọng phụ âm đầu, nhóm học sinh đọc
ngọng dấu thanh, nhóm học sinh đọc chậm về tốc độ, nhóm học sinh đọc
đúng, đảm bảo tốc độ đọc,.. Để từ đó người giáo viên có thể đưa ra những
phương pháp phù hợp để giúp đỡ các em đọc tốt hơn.
Trong q trình dạy học, đối với những học sinh cịn mắc lỗi về đọc (đọc
sai phụ âm đầu, đoc sai dấu, đọc thiếu hay thừa tiếng, ngắt, nghỉ hơi chưa đúng,
tốc độ đọc chưa đạt yêu cầu...) giáo viên cần lưu tâm hơn để kèm cặp, rèn luyện
cho các em nhiều hơn so với các bạn. Ví dụ như thường xuyên gọi các em lên
đọc các từ khó hay luyện đọc câu, đọc đoạn. Trong quá trình các em đọc, nếu
sai, giáo viên cần giúp các em sửa sai và đọc lại cho đúng.
Ngoài ra, khi đã
nắm được khả năng đọc của các em, giáo viên cũng có thể giúp đỡ các em luyện
đọc ngay cả ở những môn học khác bằng cách gọi các em đọc bài để từ đó giúp
các em đọc nhiều hơn, sửa sai cho các em giúp các em ngày một tiến bộ. Đối với
những em học sinh này, giáo viên cần động viên, khuyến khích các em đọc thêm
nhiều sách truyện và phối hợp tốt với phụ huynh học sinh để các em chăm chỉ
luyện đọc khơng chỉ trên lớp mà cịn ở nhà nữa. Có như vậy, kĩ năng đọc của các
em mới dần trở nên tốt hơn được.
Như vậy, có thể nói việc phân loại học sinh ngay từ đầu năm học có vai
trị quan trọng trong việc định hướng việc dạy học theo đối tượng đối với người

giáo viên, phần nào quyết định chất lượng dạy học, góp phần nâng cao kĩ năng
đọc cho học sinh. Dạy học đúng đối tượng, phù hợp với khả năng của từng học
sinh cũng là một trong những nguyên tắc của việc đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy được tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học.
Biện pháp 4: Học sinh học các nét chữ cơ bản
Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ
bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ nhứng nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có
tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và
so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ
cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi.
* Nét sổ thẳng
- ¾ Nét gạch ngang
- Nhóm 1. Nét thẳng đứng / Nét thẳng ngang / Nét xiên phải / Nét xiên
trái.
- Nhóm 2. Nét móc xi ( móc trái) / Nét móc ngược ( móc phải) / Nét
móc hai đầu.


12
- Nhóm 3. Nét cong kín / Nét cong hở phải / Nét cong hở trái.
- Nhóm 4. Nét khuyết xi / Nét khuyết ngược.
- Nhóm 5. Nét hất / Nét thắt / Nét râu.
* Phần học âm:
Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản
một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ
cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Học sinh có nắm chắc từng chữ cái thì mới
ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau
tạo thành từ và thành câu.

Giai đoạn này tơi dạy cho học sinh phân tích từng nét chữ cơ bản trong
từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác
nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tơi phân tích cho học sinh
hiểu và nhận biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo trẻ
dễ hiểu và không bị lúng túng.
Biện pháp 5: Giáo viên đọc mẫu chuẩn
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy giáo, cơ
giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của
học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em
thích mình giống như thầy cơ giáo và người lớn. Các em thường
“bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ,
chữ viết… Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe
giọng của giáo viên. Vì vậy, giáo viên cố gắng cho học sinh
nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng
bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên
phát âm phải chuẩn xác.
Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo
léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm
chán và khơng phát huy được tính tích cực, chủ động của học
sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi
thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng
dẫn, khơng thể tự mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương
pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em
biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và
quan sát mơi, miệng, lưỡi của cô giáo).
Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Người
giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà
cần biết phối hợp với thuật “hình mơi” nhằm hướng dẫn các em
phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà khơng nhìn
miệng cơ đọc thì việc phát âm sẽ khơng đạt hiệu quả cao, vì

trong mơn Tiếng Việt 1 việc quan sát môi cô khi phát âm âm
mới là rất quan trọng.
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh phát âm và chữa lỗi phát âm bằng phương
pháp giáo dục.
1.Hướng dẫn cách phát âm:


13
Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng đầu, địi hỏi
người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn
tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học
sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ
nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (mơi – răng
– lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi…)
- Khi học sinh sai lẫn âm ch / tr giáo viên cần hướng dẫn:
+ Âm ch: Âm gió phát ra nhiều.
VD: chơi vơi, chơng chênh,…
+ Âm tr: Hơi gió bị kìm giữ trong miệng, lưỡi hơi cong.
VD: trắng trẻo, trăn trở,..
- Khi học sinh sai lẫn âm s / x giáo viên cần hướng dẫn:
+ Âm s: Uốn đầu lưỡi về phía hàm trên, hơi thốt ra sốt mạnh, khơng có
tiếng thanh.
+ Âm x: Lưỡi tạo ra với môi răng một khe hẹp, hơi thốt ra nhẹ, khơng
có tiếng thanh.
VD : sẻ / xẻ, sâu / xâu, sương / xương,…
+ Âm v: Với phụ âm v giáo viên cần mơ tả vị trí của lưỡi; răng trên
trên ngậm hờ môi dưới, hơi ra bị sát nhẹ rồi giáo viên phát âm mẫu, học sinh
Hân, Phương Thảo, Nhi luyện đọc theo.
- Học sinh phát âm sai ở nguyên âm “ac” đọc thành “at” giáo viên cần
hướng dẫn:

+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra
trên mặt lưỡi.
- Học sinh phát âm sai dấu thanh (gặp ở những học sinh có
hệ thống bộ máy phát âm chưa hồn chỉnh) giáo viên cần
hướng dẫn:
- Những tiếng có thanh hỏi / thanh ngã:
VD: quả đu đủ / quả đu đũ, thịt mỡ /thịch mở,
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể
kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài,
luyến giọng, lên cao giọng.
- Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã:
VD: Em bé ngã – em bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghế gỗ - ghế
gố,…
- Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài,
luyến giọng, lên cao giọng.
- Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có
thanh ngã, hơi ngăn, đọc nhanh, khơng kéo dài. Bằng cách
hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng
phát âm và đạt hiệu quả cao.


14
Trong khi hướng dẫn học sinh đọc giáo viên kết hợp với tranh ảnh, vật
thật và sau mỗi bài học các âm tôi đã cho các em luyện đọc ngay ở tiết luyện
đọc, luyện nói vào buổi chiều và cả trong các môn học khác để khắc sâu kiến
thức hơn.
2. Giáo viên chữa lỗi phát âm bằng cách phân tích âm và vần:

Giáo viên phân tích các âm học sinh thường phát âm chưa đúng rồi giáo
viên đọc mẫu. Luyện cho học sinh đọc phân biệt l/n, tr/ch, s/x, v, r /d
bằng cách nói các từ ngữ, câu tập trung nhiều phụ âm l/n, tr/ch…Tiếp đó, cần
bồi dưỡng cho học sinh có mong muốn, có ý thức đọc đúng chính âm càng sớm
càng tốt. Giáo viên tập cho học sinh biết quan sát mặt âm thanh lời nói của
người khác và của bản thân mình để điều chỉnh đọc, nói cho tốt. Đồng thời,
chúng ta cần nắm chắc các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm biện pháp luyện
theo mẫu, biện pháp cấu âm và biện pháp luyện âm đúng qua âm trung gian. Tuỳ
thuộc âm thanh sai lạc, tùy thuộc vào học sinh mà giáo viên lựa chọn biện pháp
thích hợp .
- Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện theo mẫu: Bằng phát âm mẫu
của mình giáo viên đưa ra trước học sinh cách phát âm chuẩn, các từ cần
luyện, yêu cầu học sinh phát âm theo.
- Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm:Giáo viên mơ tả cấu âm của
một âm nào đó rồi hướng dẫn học sinh phát âm theo.
+ Với phụ âm cần mơ tả vị trí của lưỡi, phương thức cấu âm. Tơi đã tiến
hành sửa từng âm:
Ví dụ: Sai phát âm /p/ pờ thành /b/ bờ, ( p và b) đều là hai phụ âm đồng vị
về mặt cấu âm. môi - mơi nhưng khác nhau về mặt thanh tính, /p/ là phụ âm vô
thanh, /b/ là phụ âm hữu thanh.
+ Để luyện đọc đúng /p/, tôi đã hướng dẫn HS tự đặt lòng bàn tay trước
miệng, một tay đặt lên thanh quản. Khi phát âm /b/ là âm vốn có sẽ cảm nhận
được độ rung nhẹ của thanh quản và không thấy luồng hơi phát ra.
+ Cho học sinh bậm hai môi lại và bật hơi qua môi mạnh hơn, tạo âm /p/
câm. Cho trẻ làm lại như trên nhưng phát thành tiếng /p/ hay ''đèn pin ", pí pa pí pơ''....
+ Cho trẻ đặt một tay lên thanh hầu và lòng bàn tay trước miệng, trẻ sẽ dễ
dàng nhận biết được sự khác biệt giữa hai âm. Khi phát âm /p/ dây thanh rung
mạnh và có luồng hơi từ miệng phát ra đập vào lịng bàn tay .
Ví dụ: Sai phát âm /n/ nờ - /l/ lờ lẫn lộn: Học sinh hay phát âm lẫn giữa
l/n, ch/tr, d/gi và phần lớn các em khơng ý thức được mình đang phát âm âm

nào.


15
+ Để chữa lỗi phát âm cho học sinh tôi phải trực quan hóa sự mơ tả âm vị
và hướng dẫn học sinh quan sát, tự kiểm tra xem mình đang phát âm âm nào: /n/
là một âm mũi, khi phát âm, sờ tay vào mũi sẽ thấy mũi rung, cịn khi phát âm
âm /l /mũi khơng rung. Sau đó, ta cho học sinh luyện phát âm /l/ bằng cách bịt
chặt mũi đọc la, lo, lô, lu, lư,... Khi bịt chặt mũi học sinh không thể phát âm các
tiếng na, no, nô, nu, nư. Hoặc học sinh khi phát âm âm /l/ thì đưa lưỡi lên phía
bên trên lợi của hàm trên ngạc cứng, cịn khi phát âm /n/ thì đưa đầu lưỡi vào
mặt trong của hàm răng.
+ Cho học sinh luyện nói câu như “con lươn nó lượn trong lọ”, “cái lọ lộc
bình nó lăn lơng lốc ”,...
- Biện pháp chữa lỗi bằng âm trung gian: Là biện pháp chuyển từ âm sai
về âm đúng qua âm trung gian. Biện pháp này thường được dùng để chữa từ
thanh nặng về thanh hỏi, thanh sắc về thanh ngã. Để chữa lỗi này cho học sinh
tôi đã làm công việc tạo mẫu luyện cho trẻ phát âm riêng từng thanh hỏi, ngã.
Phát âm các tiếng có thanh hỏi ngã cần qua các bước sau đây:
+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh.
Ví dụ: sỏi, thỏi gỏi. Ngã: bã, đã, giã, mã .
+ Tiếp theo chắp các tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh.
Ví dụ: hỏi, thảo, phải, kẻo (âm tiết nửa mở); ngã: ngõ, khẽ, cũ. (âm tiết
mở).
+ Cuối cùng chắp bất kỳ âm đầu các vần với các thanh .
Trong lớp có nhiều đối tượng học sinh, các em thường đọc chưa đúng
vần có kết thúc bằng n, t, nh như: nhăn nhó/nhăng nhó, tát nước/tác nước, bát
ngát/ bác ngác, nhanh nhẹn… Hoặc các vần uôn học sinh đọc là un, ươu / iêu,
ưu/iu. Luyện đọc các câu khó như: Gà nhí sợ q. Nó “ chiếp chiếp ” ầm ĩ.;
Thấy bóng mình dưới giếng sau hoắm, hổ gầm : “ m ”; Thuyền khơng hiểu

con gì gặm làm trăng khuyết: Lũ cá nhỏ luýnh quýnh xin tha mạng.; Cá to ngốc
miệng rộng huếch, hnh hoang;…
Sau đó các em luyện theo nhiều hình thức tổ, nhóm, cá nhân vào các tiết
luyện đọc, luyện nói vào buổi chiều và cả trong các môn học khác để khắc sâu
kiến thức hơn.
3. Luyện phát âm chuẩn bằng các trò chơi trên bảng.
Trò chơi trên bảng là một cách học thú vị để làm quen với một sinh hoạt
xã hội. Một mặt các em có thể trị chuyện, và cười đùa. Mặt khác các em có dịp
được học thêm những kĩ năng và cả nội dung chủ đề của trò chơi. Những trò
chơi như thế này rất dễ thực hiện bằng cách sử dụng các kẹp tài liệu, các bút viết
hay chỉ cần một tấm bìa cứng. Chủ đề có thể nhiều lĩnh vực kĩ xảo ngôn ngữ,


16
thơng tin cần học có thể đặt vào các hình vuông,… Học sinh bốc thăm và đọc rồi
trả lời câu hỏi.
Giải pháp này giúp học sinh khắc sâu trong trí nhớ hơn và hứng thú học
hơn.
4. Chữa lỗi – luyện phát âm bằng cách luyện tập, thực hành trong các môn học:
Giáo viên luôn động viên nhắc nhở các em phải luôn mạnh dạn rèn phát
âm chuẩn trong tất cả các môn học. Luôn chú ý, quan sát, lắng nghe cô giáo
hướng dẫn, tự tin, chăm chỉ trong học tập, biết phối hợp cùng bạn bè, mạnh dạn
hỏi thầy, cô giáo và bạn bè khi mình chưa hiểu, ln có ý thức luyện
phát âm đúng. Không những trong môn Tiếng Việt mà các em cần phải phát âm
chuẩn trong các mơn học khác như: Tốn khi đọc số, đọc u cầu bài tập, bài
tốn có lời văn. Nếu đọc khơng đúng người nghe sẽ khơng hiểu được bài tốn.
Trong phân môn Âm nhạc giáo viên cũng cần hưỡng dẫn. Âm vực của thanh
huyền thấp hơn, thanh sắc nên tập hát thanh sắc thành thanh huyền, không thanh
rất thuận lợi. Chẳng hạn học sinh hát câu “ Cái cây xanh xanh, thì lá cũng xanh,
…”

Hằng ngày dành thời gian hợp lí để đọc báo măng non, đọc truyện trong
sáng lành mạnh
5. Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau:
Hoạt động dạy – học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương
tác: Giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một
tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ
trở nên đơn điệu, khơng phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng
thời bầu khơng khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; người giáo viên
cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tịi,
lĩnh hội kiến thức mà trong mơn Tiếng Việt 1 thì phương trâm là “ thầy thiết kế trị thi cơng”.
Trong q trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc
biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên
cần chú trọng việc rèn cho các em có kĩ năng nghe – nhận xét – sửa sai giúp bạn
và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các
tiết học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để
nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình.
Đồng thời cịn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao
đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên
như thế sẽ tạo được bầu khơng khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được
mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Biện pháp 7: Sử dụng tranh ảnh và dụng cụ học tập một cách thường xuyên
trong tiết dạy
Tranh ảnh và đồ dùng dạy học rất quan trọng không thể thiếu được trong
việc dạy học nhất là ở phân mơn tập đọc. Càng có tranh ảnh, đồ dùng thì càng
tạo nên sự hứng thú của học sinh trong tiết học. Chính vì vậy, mỗi tiết học, giáo
viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, nắm được mục tiêu của từng bức tranh, cách
sử dụng đồ dùng,…


17

Khi dạy Tập đọc lớp 1 phải thường xuyên sử dụng tranh, ảnh, vật thật phù
hợp với nội dung từng bài học. Đồ dùng dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh tri
thức, phát triển kĩ năng thực hành. Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh.
Phát triển trí tuệ, giáo dục nhân cách cho học sinh.
Đồ dùng trực quan cung cấp cho học sinh các kiến thức một cách chắc
chắn, làm cho việc giáo dục trở nên cụ thể hơn, nhẹ nhàng hơn. Giúp giáo viên
kiểm tra khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh.
Biện pháp 8 : Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh
Rèn cho học sinh có tính kiên trì là nhiệm vụ quan trọng.
Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành
tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lịng kiên trì, học sinh sẽ
vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy
phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều
chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán
nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng
dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường
xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen “Em đã
đọc tốt hơn rồi, em cố gắng thêm tí nữa nhé”, “em đã đọc được
rồi đấy, em cố gắng lên nhé”… Được động viên như vậy, học
sinh sẽ khơng nản lịng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm
được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm được… Từ đó học sinh
sẽ quyết tâm hơn.
Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học
sinh do lười biếng, khơng muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm
một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen
nên phát âm không chuẩn xác. Với những đối tượng này, giáo
viên phải thật nghiêm khắc, khen – chê đúng mực để các em
thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt, mình cần phải
thể hiện hết khả năng của mình.
Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên khơng chỉ

hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng việt mà
cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học
khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc
vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất.
Người giáo viên cần chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát
âm của các em và kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh
thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu.
Biện pháp 9: Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho
học sinh.
Giáo viên có thể cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh
nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ
đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho các em khi ở nhà. Với
một số em cá biệt về phát âm, giáo viên có thể gặp trực tiếp
phụ huynh trao đổi và động viên họ nên chọn mua những quyển


18
truyện tranh trong đó có lời đối thoại nhiều phụ âm mà học sinh
hay nhầm lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe, dạy
em kể lại chuyện. Ngoài ra cần nhắc nhở phụ huynh thường
xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia
đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân
trong gia đình là mơi trường giáo dục cho các em khi ở nhà.
Như vậy việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo
mơi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một
cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học
sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em
chưa hồn chỉnh, cũng khơng phải do các em chưa hiểu cách
phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương .
Ví dụ: rượu - riệu, quả chuối - quả chúi, biểu - bỉu, thịt lợn –

thịch lợn, nước mía - nước mí,...
Đối với những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ
ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em
thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ
cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm
sai theo cách nói của địa phương. Ngồi ra, người giáo viên
hồn tồn có thể thơng qua họp phụ huynh học sinh, qua phiếu
phối hợp giáo dục giữa giáo viên và gia đình để hướng cho phụ
huynh học sinh có cách dùng từ đúng để sửa đổi.
Biện pháp 10: Tuyên dương, khuyến khích học sinh.
Trong năm học 2020 – 2021 tơi đã áp dụng các biện pháp nêu ở trên để áp
dụng rèn đọc cho các em đồng thời cũng thường xuyên kiểm tra đánh giá kết
hợp với biện pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng
thú, vui vẻ, tạo được khơng khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn
luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất
tôi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em.
Ví dụ: “ Em đã phát âm chuẩn hơn hôm qua rồi, cố lên em nhé”; “ Em đã
có tiến bộ nhiều hơn rồi, cơ khen em”...
Cũng có thể bằng hình thức nhận xét vào vở của các em khi chấm vở
chính tả, với em hay viết sai lỗi l/n mà bây giờ đã viết sai ít hơn tơi cũng
vẫn khen em đó.
Ví dụ: “Em viết bài có tiến bộ, đã ít sai lỗi l/n hơn rồi, em cần phát
huy” ....
Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tơi cịn khen cả những em đã
giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hừng thú với
cơng việc đó hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp về
việc rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua môn Tiếng Việt 1 - bộ sách Cánh Diều. Để

biết được kết quả bước đầu cả những phương pháp mình thực nghiệm thực tế,


19
tơi đã cho học sinh của lớp mình thực hành đọc một số bài bất kỳ, em sau không
đọc trùng bài của em trước.
- Hoàn thành xuất sắc: Đọc to, rõ ràng, lưu lốt, khơng có lỗi về phát âm,
đọc đung tốc độ.
- Hoàn thành tốt: Đảm bảo đọc to rõ ràng, lưu lốt, khơng có lỗi về phát
âm.
- Hồn thành: Đọc to, rõ ràng. Phát âm đôi chỗ chưa thật sự đúng. Sai
khơng q 3 lỗi chính tả/bài; Đọc còn nhỏ, đọc hơi chậm và còn sai quá 5 lỗi
chính tả/bài
- Chưa hồn thành: Chưa đọc được hết bài. Sai nhiều lỗi phát âm.
Sau khi kiểm tra có kết quả như sau: 95% các em đã đọc được hết bài.
Tuy nhiên vẫn có em đọc nhỏ, đọc chậm và có em vẫn sai lỗi phát âm, nhưng
nhiều em đã có sự tiến bộ trong cách đọc cũng như số lượng mắc lỗi phát âm
của các em đã giảm.
Căn cứ vào bài chấm, tôi thống kê điểm bài đọc của học sinh như sau:
TSHS

Đọc sai
phụ âm
đầu

Đọc sai Đọc thiếu
dấu
(hoặc thừa)
tiếng


31

0

1

Tỉ lệ

0%

3%

Ngắt,
nghỉ hơi
chưa
đúng

Tốc độ
đọc còn
nhanh
(hoặc
chậm)

Đọc
đúng

1

2


2

25

3%

6%

6%

82%

Từ kết quả đạt được như trên, tôi thấy khả năng đọc cũng như lỗi phát âm
của các em được cải thiện đáng kể, chất lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng
thú học tập, tạo không khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi mà học.
*Nhận xét:
Bằng sự nhiệt tình trong cơng tác nghiên cứu giảng dạy, tôi đã vận dụng
sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh
lớp 1 để giúp các em không chỉ viết tốt mà cịn đọc tốt, đọc chuẩn, đọc khơng
sai lỗi.
Tuy rằng số lượng các em đọc tốt vẫn còn hạn chế nhưng những biện
pháp mà tôi đưa ra để giúp em đọc tốt hơn phần nào đã giúp các em học sinh lớp
1G nhìn nhận ra lỗi phát âm của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua quá trình nghiên và tìm hiểu thực tế tôi thấy người giáo viên muốn
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì phải miệt mài nghiên cứu tài liệu và điều
quan trọng là phải đi sâu vào thâm nhập đối tượng học sinh để có thể tìm ra
phương pháp giảng dạy tốt nhất giúp cho học sinh hiểu và nắm được nội dung
của vấn đề.



20
Qua thực tế giảng dạy, qua nghiên cứu chương trình Tiếng việt 1 – bộ
sách Cánh Diều, trao đổi với giáo viên giảng dạy cùng khối, dự giờ, dạy thử
nghiệm, tiến hành tìm hiểu nguyên nhân việc đọc sai của học sinh và đề ra một
số biện pháp sửa chữa, xem xét kết quả thu được… Tôi đã tự rút ra bài học cho
bản thân về phương pháp, trình độ, năng lực truyền đạt kiến thức cho học sinh,
nhất là việc sửa lỗi phát âm cho học sinh khi đọc.Tuy các em học sinh có rất
nhiều tiến bộ song tơi khơng phải đã thật sự n tâm, bởi vì liệu các em có sửa
chữa khắc phục thường xun hay khơng?
Từ thực tế giảng dạy cùng với việc nghiên cứu đề tài này, tơi thấy mình
vẫn cịn một số hạn chế, đó là chưa phát huy được tuyệt đối biện pháp của mình
đưa ra cho nên kết quả của việc sửa chữa cách phát âm sai của học sinh chưa đạt
100%.
Qua đây tôi thấy người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tự rèn luyện,
tự bồi dưỡng cho mình tất cả các kiến thức của mọi môn học để phục vụ cho
việc giảng dạy ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với Phòng GD&ĐT:
- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề và bố trí giáo viên
trực tiếp dạy môn Tiếng Việt 1 tham gia giảng dạy luân phiên để các trường
về dự và cùng nhau thống nhất cách dạy sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
- Cần điều kiện có thể cho các giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 có cơ hội
nhiều nhất để học tập ở các trường ngoài huyện cũng đang thực hiện chương
trình Tiếng Việt 1.
3.2.2. Đối với nhà trường:
- Khuyến khích giáo viên đầu tư trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống
nhất cách dạy để thực hiện có hiệu quả môn học mới.
- Cho giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt 1 đi tập huấn ở các

cấp để nâng cao trình độ chun mơn phục vụ cho giảng dạy.
Trên đây là một số việc mà bản thân tôi đã thực hiện để rèn kỹ năng đọc
đúng cho học sinh lớp 1 qua phân môn Tiếng Việt 1. Trong điều kiện còn hạn
chế, đề tài này chỉ đề cập đối tượng học sinh Tiểu học thuộc lớp 1G ở trường
Tiểu học Bắc Sơn. Tôi rất mong được sự giúp đỡ góp ý của các cấp quản lý, các
anh chị em đồng nghiệp để bản thân tơi có những biện pháp
phù hợp hơn trong giảng dạy cho học sinh trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

21
Sầm Sơn, ngày 25 tháng 03 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Dương Thùy Dung

*Tài liệu tham khảo:
- Sách Giáo khoa Tiếng Việt lớp 1- Bộ Sách Cánh Diều.
- Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 1- Bộ Sách Cánh Diều.
- Chuyên san tạp chí giáo dục Tiểu học.
- Đổi mới phương pháp Giáo dục ở Tiểu học.


22




×