Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.11 KB, 25 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
“HỌC MÀ CHƠI, CHƠI MÀ HỌC”
<b>Chỉ một từ duy nhất lặp lại trong các ô trống (…).</b>
<b>Đọc đoạn văn, sau 15 giây suy nghĩ, hãy cho biết</b>
<b>Trong mỗi con người, (...) và thể xác là một </b>
<b>thể thống nhất, trong đó (...) chiếm vị trí chủ </b>
<b>đạo và chịu trách nhiệm cuối cùng về hành </b>
<b>động của thể xác.</b>
<b>Một (...)</b> <b>dù tốt đẹp khi đã mượn thân xác </b>
<b>của kẻ khác cũng khơng thể có hạnh phúc </b>
<b>bởi nó mang mặc cảm, dằn vặt vì giả dối, </b>
<b>ích kỉ. Khơng những thế, nó cịn đứng </b>
<b>trước nguy cơ: thân xác mượn, với những </b>
<b>nhu cầu riêng và thói quen của nó, sẽ chi </b>
<b>phối và làm biến đổi (...)</b> <b>trú ngụ vốn tốt đẹp </b>
<b>và cao quí.</b>
<b>Khi miêu tả quá trình vùng dậy của làng </b>
<b>Xô Man bất khuất, truyện ngắn Rừng xà </b>
<b>nu đã xây dựng thành công một tập thể </b>
<b>nhân dân anh hùng bao gồm nhiều (…). </b>
<b>Từ cụ Mết đến Tnú, từ Mai đến Dít rồi </b>
<b>Heng… Đó là những (…) kế tiếp nhau </b>
<b>nhanh chóng trưởng thành trong bão táp </b>
<b>chiến tranh. Những (…) con người ấy tạo </b>
<b>thành bức tranh tập thể anh hùng cũng </b>
<b>như các (…) cây xà nu hợp nên cánh </b>
<b>(...) chan chứa niềm yêu đời làm thức tỉnh </b>
<b>con người bên trong Mị, đưa Mị từ cõi </b>
<b>quên trở về cõi nhớ.</b>
<b>Mị sửa lại mái tóc, lấy chiếc váy hoa, chuẩn </b>
<b>bị đi chơi theo tiếng gọi của lịng mình. Thế </b>
<b>rồi, giữa lúc ấy, A Sử trở về, lạnh lùng trói </b>
<b>đứng Mị vào cột nhà. Bị trói đứng vào cột. </b>
<b>Mị vẫn say mê với (...). Men rượu cùng với </b>
<b>(...) biến Mị thành một người mộng du. Cơ </b>
<b>qn mình đang bị trói, lịng hướng theo </b>
<b>(...) gọi bạn để đến với cuộc vui xuân.</b>
<b>Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn </b>
<b>Trung Thành thường chú ý miêu tả hình </b>
<b>ảnh (…). Dường như (…) Tnú biết nói và đã </b>
<b>nói lên rất nhiều về con người này… Qua </b>
<b>hình ảnh (…)</b> <b>Tnú, chúng ta nhận ra một </b>
<b>tính cách gan góc, dũng cảm, một lòng </b>
<b>trung thành tuyệt đối với cách mạng, một </b>
<b>tấm lịng thương u, một tính cách </b>
<b>Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác </b>
<b>cho anh hàng thịt của Trương Ba là hành </b>
<b>động đúng đắn, dũng cảm và đạo đức.</b> <b>Từ </b>
<b>tư tưởng triết học đúng đắn về quan hệ </b>
<b>giữa linh hồn và thể xác, Lưu Quang Vũ đi </b>
<b>đến một quan niệm đẹp về cách (...): (...)</b>
<b>chân thật, (...)</b> <b>vì mọi người, vì hạnh phúc và </b>
<b>sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết </b>
<b>hẳn nhưng hồn ông vẫn (...)</b> <b>trong tình cảm </b>
<b>của mọi người, (...) trong cuộc sống của </b>
<b>những người đang (...) mà chẳng cần mượn </b>
<b>thân xác của bất kì ai.</b>
<b>Ngay chính lúc ở đỉnh cao của sự say đắm </b>
<b>giao hoà cùng vạn vật, cảm giác tiếc nuối (...)</b>
<b>vẫn tồn tại trong lòng nhà thơ. Sự tiếc nuối </b>
<b>về dòng chảy của (...)</b> <b>một đi không trở lại </b>
<b>giúp ông làm nên sự khác biệt trong cách </b>
<b>cảm nhận về (...) so với cách cảm nhận của </b>
<b>người xưa. Với Xuân Diệu (...) luôn trôi chảy, </b>
<b>mỗi phút giây trôi qua là mất đi vĩnh viễn </b>
<b>khơng trở lại. Vì thế nhà thơ đã lấy quỹ (...)</b>
<b>hữu hạn của một đời người, thậm chí lấy </b>
<b>khoảng (...) ngắn ngủi mà quí giá của mỗi </b>
<b>Bài thơ mở đầu là (...), mạch thơ cũng là các </b>
<b>lớp (...). (...) và </b><i><b>em</b></i><b> hợp thành cặp hình ảnh </b>
<b>song hành. quấn quýt. (...) là đối tượng, là cơ </b>
<b>sở để thi sĩ tỏ bày mọi trạng thái bí ẩn và </b>
<b>mãnh liệt của tình u. Tính cách của (...)</b> <b>rất </b>
<b>giống với các cung bậc của tình yêu. Từ đối </b>
<b>tượng để chia sẻ, giãy bày, cảm nhận (...)</b> <b>trở </b>
<b>thành đối tượng để suy tư, để truy tìm cái </b>
<b>ngọn nguồn của tình yêu và rồi cuối cùng </b>
<b>trở thành khát vọng của </b><i><b>em</b></i> <b>. Khi ấy (...) và </b>
<b>Khơng ít câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, </b>
<b>tính cách Việt Nam, cũng như vai trị, vị trí (...)</b>
<b>Việt Nam trong lịch sử bốn ngàn năm. Đó là </b>
<b>những (...) biết yêu thương sâu sắc, thuỷ </b>
<b>chung nghĩa tình. Là những (...) cần cù trong </b>
<b>lao động, anh hùng trong chiến đấu. Là </b>
<b>những (...) “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng </b>
<b>chính họ “làm nên Đất Nước”. Đó cũng </b>
<b>chính là những (...) âm thầm làm nên lịch sử, </b>
<b>âm thầm gìn giũ văn hố dân tộc qua bão táp </b>
<b>phong ba của lịch sử thăng trầm.</b>
<b>(...), là số phận của nhân dân. Tạo hoá đến </b>
<b>đây không phải là cái làm nảy sinh ra </b>
<b>những câu chuyện huyền thoại mà là </b>
<b>những câu chuyện về những (...), những số </b>
<b>phận con người trong quá khứ làm cho </b>
<b>những danh thắng kia có (...), làm cho nó </b>
<b>sống mãi. Người ta u thích nó, say mê </b>
<b>Từ chuyện của sóng, ý thơ chuyển tự nhiên </b>
<b>sang chuyện (...), sóng trở thành đối tượng </b>
<b>để con người giãy bày suy tư. Dòng suy tư </b>
<b>bắt đầu bằng nỗi băn khoăn, trăn trở, khao </b>
<b>khát tìm đến ngọn nguồn của (...). Nhưng </b>
<b>thiên nhiên bí ẩn có thể cịn cắt nghĩa được, </b>
<b>cịn (...) thì lại khơng thể. Khơng tìm được </b>
<b>ngọn nguồn, nguyên nhân của (...), </b><i><b>em</b></i><b> tìm về </b>
<b>với trăn trở và say sưa với những cung bậc </b>
<b>(...) mn thuở. Đó là nỗi nhớ, là sự thuỷ </b>
<b>Người mượn xác để gửi hồn ln cảm thấy </b>
<b>mình khơng phải là mình nữa. Điều đó khác </b>
<b>chi tồn tại mà như khơng tồn tại?</b>
<b>(...) giữa hồn và xác thực sự là (...)</b> <b>trong </b>
<b>bản thân mỗi con người để làm chủ những </b>
<b>nhu cầu, ham muốn, nhất là khi bị hoàn </b>
<b>cảnh tác động. (...) cảnh báo khả năng lấn </b>
<b>át của thể xác tức những nhu cầu tầm </b>
<b>thường đối với linh hồn – tức khát vọng </b>
<b>sống cao khiết.</b>
<b>Theo Trần Lê Văn, các chiến sĩ Tây Tiến qua </b>
<b>rừng, qua núi, quần áo rách hết, nhân dân </b>
<b>cho họ những tấm (...) để bộ đội khoác chống </b>
<b>rét. Cụm từ “áo bào thay chiếu” là áo bào </b>
<b>(chiến bào) thay bằng (...). Cũng có một ý nữa </b>
<b>là: người lính xưa thường được cấp một </b>
<b>chiếc (...) để nằm. Khi chết người ta dùng (...)</b>
<b>để khâm liệm luôn. Không né tránh những </b>
<b>đau thương nhưng Quang Dũng vẫn cho </b>
<b>thấy được những nét oai hùng của người </b>
<b>lính ngay cả khi họ ngã xuống.</b>
<b>Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng </b>
<b>lúc với sự giác ngộ lí tưởng (...)</b> <b>của nhà </b>
<b>thơ. Các chặng đường thơ ơng gắn bó mật </b>
<b>thiết với các chặng đường của cuộc đấu </b>
<b>tranh (...) thần thánh của dân tộc. Có thể </b>
<b>nói, lí tưởng (...) là ngọn nguồn cảm hứng </b>
<b>nghệ thuật của Tố Hữu. Đối với ông, làm </b>
<b>thơ là một hành động (...) nhằm mục đích </b>
<b>tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh cho sự </b>
<b>thắng lợi của lí tưởng (...). Đó là những </b>
<b>điểm nổi bật nhất của chất trữ tình – chính </b>
<b>trị trong thơ Tố Hữu.</b>
<b>Thể hiện những vấn đề cốt yếu của đời </b>
<b>sống cách mạng và vận mệnh (...), cảm hứng </b>
<b>chủ đạo trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lịch </b>
<b>sử - (...). Thơ ông thường hướng về tương </b>
<b>lai, đặt niềm tin vào thắng lợi của cách </b>
<b>mạng, khơi dậy niềm vui và lòng say mê với </b>
<b>con đường cách mạng. Vấn đề nổi bật trong </b>
<b>thơ Tố Hữu bao giờ cũng liên quan đến (...), </b>
<b>đến cộng đồng. Nhân vật trữ tình trong thơ </b>
<b>ơng thường là những con người đại diện </b>
<b>cho phẩm chất của giai cấp, của (...), của thời </b>
<b>đại.</b>
<b>Đã có một thời người ta tránh nói về (...)</b>
<b>nhưng Quang Dũng đã khơng từ chối điều </b>
<b>đó, vì</b> <b> có chiến thắng nào mà khơng phải </b>
<b>đổi bằng nước mắt và máu! Một nét đặc sắc </b>
<b>của Tây Tiến là nói về (...) mà khơng có một </b>
<b>chữ nào về “trận đánh”, về “tiếng súng”. Và </b>
<b>“hồn về” để bình thường hố (...). Cảm hứng </b>
<b>lãng mạn khiến ngịi bút của ơng nói nhiều </b>
<b>tới cái buồn, (...) như là những chất liệu </b>
<b>thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng.</b>
<b>Bị thương phải nằm lại chiến trường, hai mắt </b>
<b>Việt</b> <b>khơng nhìn thấy gì, người khơ đi vì khát, </b>
<b>tay đau khơng kéo nổi cò súng. Tiếng trực </b>
<b>thăng, tiếng pháo và xe bọc thép chạy qua... </b>
<b>Vào những lúc như thế, Việt chỉ nghĩ nhiều </b>
<b>nhất đến những người thân yêu trong (...)</b> <b>của</b>
<b>mình. Để Việt</b> <b>trong tư thế đối mặt với cái </b>
<b>chết như vậy,</b> <b>tác giả đã tìm được cách thức </b>
<b>hữu hiệu để chứng tỏ rằng: (...) đó là phần </b>
<b>nguồn cội sâu thẳm nhất của con người. </b>
<b>Truyền thống (...) là thực sự thiêng liêng </b>
<b>Phẩm chất (...), trên các mức độ khác nhau, </b>
<b>đều có mặt</b> <b>trong các nhân vật của Nguyễn </b>
<b>Thi</b> <b>- người (...) con đẻ của đất cày, sông </b>
<b>nước. Ở đó cái (...) hồ với cái bình dị, sự </b>
<b>cao cả hiện ra với dáng thân thuộc, chất </b>
<b>phác và lắm khi thơ ngây ngộ nghĩnh. Người </b>
<b>(...) không chỉ là sản phẩm của thời đại mà </b>
<b>còn là sự tiếp nối nguồn cội, di sản thiêng </b>
<b>liêng cha truyền con nối... Chưa lúc nào Việt </b>
<b>hết thơ ngây. Nhưng đó là sự thơ ngây của </b>
<b>chàng trai trẻ chưa bao giờ biết khuất phục. </b>
<b>Chính cái đó làm cho cái chất (...) của Việt </b>
<b>Chỉ được coi là con của gia đình những ai đã </b>
<b>ghi vào và làm nên khúc của mình trong dịng </b>
<b>thống mà là sự nối tiếp (...). Không thể hiểu </b>
<b>khúc sau nếu khơng hiểu khúc trước, khơng </b>
<b>tìm đến ngọn nguồn. Trong truyện, (...) gia </b>
<b>đình kết tinh đầy đủ ở nhân vật chú Năm. </b>
<b>Trong chú, phảng phất tinh thần của Đồ </b>
<b>Chiểu ngày xưa. Chú như một</b> <b>cuốn gia phả </b>
<b>sống. Chú luôn hướng về (...), sống với (...), đại </b>
<b>diện cho (...) và lưu giữ nó trong câu hị và </b>
<b>cuốn sổ gia đình.</b>
<b>Chuyến đi thực tế săn tìm ảnh lịch của nghệ sĩ </b>
<b>Phùng đã giúp anh hiểu biết thêm về</b> <b>sự thật </b>
<b>cay đắng, nghịch lí của (…) đời thường. Anh </b>
<b>nhận ra sâu sắc hơn rằng, một nghệ sĩ không </b>
<b>chỉ biết rung động trước cái đẹp mà còn cần </b>
<b>là một con người biết đồng cảm và chia sẻ, </b>
<b>biết đấu tranh với cái ác, cái xấu để có (…)</b>
<b>xứng đáng với con người. Và (…)</b> <b>cần được </b>
<b>khám phá, lí giải với tất cả nhận thức và tình </b>
<b>cảm, cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới mong </b>
<b>hiểu thấu diện mạo mn màu và bản chất </b>
<b>thực của nó. </b>
<b>Không gian Việt Bắc rung lên với tiếng ve, tiếng </b>
<b>mõ chiều, tiếng chày đêm, tiếng mưa nguồn, </b>
<b>tiếng bước chân, tiếng</b> <b>rộn rã</b> <b>... nhưng chưa </b>
<b>âm vang hối thúc bằng lời song song trong </b>
<b>cuộc đối thoại giữa ta với mình. Cuộc đối thoại </b>
<b>dài xoay quanh trục chính, ln thiết tha một </b>
<b>câu hỏi: </b><i><b>có</b></i> <i><b>(...)</b></i> <i><b>khơng</b></i><b> lặp lại nhiều lần. Bao </b>
<b>nhiêu cung độ khác nhau: (...)</b> <b>người, (...) bản, (...)</b>
<b>rừng, (...)</b> <b>suối, (...)</b> <b>bếp lửa, (...)</b> <b>chiến cơng, (...)</b> <b>cái </b>
<b>gì thật đẹp, (...)</b> <b>mênh mơng, (...)</b> <b>nao lịng, (...)</b> <b>rưng </b>
<b>rưng, (...)</b> <b>trĩu nặng, xót xa, (...)</b> <b>thành kỉ niệm thuỷ </b>
<b>chung như nhất.</b>
<i><b>Nạn </b><b>(...)</b></i> <i><b>dạo đó thật khủng khiếp. Tôi tận mắt </b></i>
<i><b>chứng kiến người chết </b><b>(...)</b><b> nằm rải rác khắp nơi. </b></i>
<i><b>Khi con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của </b></i>
<i><b>cuộc sống thì tồn bộ số phận và tính cách của </b></i>
<i><b>họ sẽ biểu lộ hết. Chết </b><b>(...)</b><b> là một thực tế khốc </b></i>
<i><b>liệt. Cái </b><b>(...)</b></i> <i><b>hành hạ tất cả mọi người nhưng </b></i>
<i><b>không át được sức mạnh của tâm hồn họ. </b><b>(...)</b><b>, </b></i>
<i><b>vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt </b></i>
<i><b>nào đó nó lại loé lên những tia sáng đạo đức và </b></i>
<i><b>danh dự. </b><b>Vợ nhặt</b><b> khai thác các khía cạnh khác </b></i>
<i><b>nhau cùng của bi kịch ấy.</b></i>
<b>Lời nhà văn Kim Lân</b>
<b>Việt Bắc là khúc ca tình của con người kháng </b>
<b>chiến với quê hương cách mạng, với nhân </b>
<b>dân. Những tình cảm này đan xen, quện chặt </b>
<b>vào nhau làm nên sắc thái trữ tình – chính trị </b>
<b>trong thơ Tố Hữu.</b> <b>Xuyên suốt cả bài thơ là lời </b>
<b>nhắc nhở “xin (...)! (...)”. (...) tấm lòng son sắt của </b>
<b>nhân dân đối với kháng chiến và cách mạng.</b>
<b>(...) những mái nhà “hắt hiu lau xám”. (...)</b> <b>những </b>
<b>ngày “chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn </b>
<b>sui đắp cùng”, nhất là (...) cuộc kháng chiến. Vì </b>
<b>chính những năm tháng ấy</b> <b>đã ni nấng và </b>
<b>xây đắp thêm tâm hồn con người Việt Nam.</b>
<b>(...) là một trong hệ thống hình ảnh làm nên thơ </b>
<b>Thanh Thảo. (...) tượng trưng cho sự đơn sơ, </b>
<b>khiêm nhường, dân dã. (...) tượng trưng cho sự </b>
<b>bền bỉ, can trường, (...) là sự sống mãnh liệt </b>
<b>trường tồn. (...) là biểu tượng của tuổi trẻ, tuổi </b>
<b>xuân. (...) tượng trưng cho nhân hậu, nghĩa khí.</b>
<b>(...) - một hình ảnh có sức gợi tạo ra tiếng nói đa </b>
<b>thanh cho ý thơ. Câu thơ mở ra nhiều hướng </b>
<b>diễn dịch: nỗi xót thương cái chết của một </b>
<b>thiên tài; nỗi nuối tiếc của một hành trình cách </b>
<b>tân đang dang dở không ai tiếp tục và nghệ </b>
<b>thuật thiếu người dẫn đường trở thành thứ (...)</b>
<b>mọc hoang?</b>