Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.02 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>BÀI 2: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT.</b>
<b>A. Kiến thức cần nhớ.</b>
<i><b>1. Tác giả</b></i>
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp đại học, năm
1964 vào bộ đội, hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những nhà
thơ tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Thơ ông giàu chất liệu hiện thực, chiến trường, thể hiện sinh động, có giọng điệu ngang
tàng, tinh nghịch, sôi nổi, tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ ở Trường Sơn và
những khó khăn của thời đánh Mỹ gian khổ.
- Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống đế
quốc Mỹ qua những hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến
đường Trường Sơn.
- Tác phẩm chính: Vầng trăng -Quầng lửa(1970), Thơ một chặng đường ( 1971), Ở hai
đầu núi (1981). Nhiều bài thơ đã đi vào trí nhớ của công chúng như các bài: <i>Trường Sơn</i>
<i>Đông, Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong….</i>
<i><b>2. Tác phẩm:</b></i>
a. Hoàn cảnh.
- Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả. Là
tác phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970).
- Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ trút
hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi đó những
đồn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước.
b. Nội dung.
- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe khơng kính, qua đó khắc hoạ
nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống
Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi
thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải
phóng miền Nam, trái tim u nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.
c. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.
<i><b>4. Phân tích những nội dung chính của bài thơ.</b></i>
<i><b>a. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.</b></i>
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu
hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của
tồn bài: những chiếc xe khơng kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả,
thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực dời sống chiến tranh trên tuyến
đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai
chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết
về những chiếc xe khơng kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu
là Phạm Tiêến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam
dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
<i><b> b. H</b><b> ình ảnh</b><b> những </b><b> chiếc xe khơng kính</b><b> . </b></i>
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe khơng kính vẫn băng ra
chiến trường.
-Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”,
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe khơng kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực.
Lẽ thường, để đảm bảo an tồn cho tính mạng con người, cho hàng hố nhất là trong địa
hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe khơng
kính” lại là mơt thực tế, những chiếc xe “khơng kính” rồi “khơng đèn”, “khơng mui” ấy
vẫn chạy băng ra tiền tuyến.
+ Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần khơng bình thường
ấy:
<i>Khơng có kính khơng phải vì xe khơg có kính</i>
<i>Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”</i>
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai
lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó
ngờ của ngơn từ. Câu thơ rất gần với văn xi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong
đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung”
vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của dịch vừa
giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là ngun nhân để những chiếc
xe vận tải khơng có kính.
<i><b>b. Hình ảnh những chiếc xe khơng kính đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe</b></i>
<i><b>ở Trường Sơn.Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lái</b></i>
xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lịng
dũng cảm, tinh thần bất chấp khó khăn, gian khổ.
*Trước hết là tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy.
- Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng
hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung
dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt
đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe khơng kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ
“nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người
làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu khơng khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”,
vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi
thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên
chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những
nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với
kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những người
chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình
tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Khơng
có kính chắn gió, bảo hiểm, đồn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi
chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
* Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc quan hồn nhiên, yêu đời
của người lính trẻ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng
của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là
một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian
khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng
theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6
thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc
quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hồ trong những hình ảnh hóm
hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sơi
động như sự sơi động hối hả của đồn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ
nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng.
Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống
trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa
hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi,
không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến
Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách
ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, u đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn
tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khối vơ tư, khác với cái cười buốt
giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống
Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
* Tình đồng chí, đồng độ i thắm thiết.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại
gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe khơng kính”
-tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên tinh nghịch. Hình
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường
nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chơng chênh... chỉ trong
một thống chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên
sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi
trời xanh thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa
chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ.
Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai
lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe khơng kính mà khơng một sức
mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống khơng chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong
một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
- Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe khơng cịn ngun vẹn về phương tiện kĩ thuật,
dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra:
những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “khơng kính, khơng mui, khơng đèn, thùng xe có
xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Ấy vậy mà những chiếc xe mang trên
mình đầy thương tích đó lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm
hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Vậy là đồn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra
tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc
lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại nguyên vẹn một
=> Điệp ngữ “khơng có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn … chỉ cần có” đã làm cho giọng
thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính
nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng
liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính khơng có đạn bom nào của
kẻ thù có thể làm lay chuyển được.
<b>B. Câu hỏi luyện tập.</b>
<i><b>Câu </b><b> 1 : “</b><b> Khơng có kính rồi xe khơng có đèn”</b></i>
<i><b>a.</b></i> <i><b>Chép tiếp câu thơ trên để hoàn chỉnh đoạn thơ gồm 4 dòng.</b></i>
<i><b>b.</b></i> <i><b>Cho biết, đoạn thơ vừa chép trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng</b></i>
<i><b>tác bài thơ</b></i>
<i><b>c.</b></i> <i><b>Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng của đoạn vừa chép được dùng với nghĩa</b></i>
<i><b>như thế nào? </b></i>
<i><b>d.</b></i> <i><b>Viết một đoạn văn diễn dịch từ 6 đến 8 câu phân tích hình ảnh người lính lái</b></i>
<i><b>xe trong đoạn thơ.</b></i>
<i><b>Gợi ý: </b></i>
Khơng có mui xe thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
b. (tham khảo phần kiến thức cần nhớ)
c. Từ “Trái tim” trong câu thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:
- Chỉ người lính lái xe
- Chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lịng u nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
d. Đoạn văn phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức (tham khảo câu 3,4)
- Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ, ác liệt (qua hình ảnh những chiếc xe ngày càng méo
mó, biến dạng)
- Bất chấp gian khổ, hi sinh, những chiếc xe vẫn thẳng đường ra tiền tuyến.
- Những người lính lái xe quả cảm vững tay lái vì học có một trái tim tràn đầy nhiệt tình
cách mạng, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá.
<i><b>Tham khảo đoạn văn phân tích:</b></i>
Hai câu cuối của “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ
của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ
số an tồn, tưởng như khơng thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có
chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy
trong bom rơi đạn lửa bời phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Cơng cuộc giành độc lập
tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không
chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu
bật được ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh
hốn dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người lính lái xe, chỉ sự nhiệt
tình cứu nước, lịng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất
Tổ quốc. Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh
vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc
chiến của người lính lái xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và
chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.
thản, vui tươi. Điều khiển những chiếc xe khơng kính với một tốc độ phi thường như lướt
nhanh trong bom đạn họ có cảm giác thích thú, như cảm nhận cả con đường như “chạy
thẳng vào tim”. Qua khung cửa qua những chiếc xe khơng kính, các anh cảm nhận được
vẻ đẹp của những “cánh chim chiều” và “cả những ánh sao đêm” lấp lánh trên bầu trời..
như “sa như ùa” vào buồng lái. Gió cũng được nhân hoá và chuyển đổi cảm giác thật ấn
tượng: “gió vào xoa mắt đắng”, mắt đắng, mắt cay là những con mắt đói ngủ vì phải thức
thâu đêm. Trong gian khổ ấy, họ vẫn cất lên những nụ cười lạc quan, yêu đời từ những
khuôn mặt lấm lem khi đồng đội gặp nhau. Những câu thơ lạc quan u đời như thách
thức với mọi khó khăn : “khơng có kính, ừ thì có bụi. Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.Cái bắt tay của
người lính cũng thật hồn nhiên, mộc mạc mà thấm thía tình đồng chí đồng đội: “bắt tay
qua cửa kính vỡ rồi”. “Từ trong bom rơi” mà vẫn có cái bắt tay như thế thì thật mừng vui,
tự tin và tự hào biết mấy. Đời người lính là đi, nhất là lính lái xe, nhưng trong những phút
dừng chân ngắn ngủi, ta càng thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội.
<i><b>Câu </b><b> 3 : Triển khai câu chủ đề:</b></i>
<i><b>Bài thơ gây được ấn tượng mạnh về các anh, những chiến sĩ lái xe rất dũng cảm, rất</b></i>
<i><b>đáng yêu bởi những nét nghịch ngợm, ngang tàng. Thật vậy, người lính trong thơ Phạm</b></i>
Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có
lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh
thản, vui tươi. Lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom đạn,
mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các vẫn tràn đầy nghị lực bất
chấp gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “khơng kính, khơng mui, khơng
đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió
chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh
nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thách thức với mọi khó khăn:
- Khơng có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi
Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ
<b>Câu 4 : Cảm nhận của em về hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu</b>
<i><b>đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật.</b></i>
Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn
nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường: ừ thì có
bụi, ừ thì ướt áo. Thái độ “chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc, chưa cần thay, lái
trăm cây số nữa là sự thách thức, coi thường khó khăn gian khổ. Những chiếc xe từ trong
bom rơi, bị bom giật, bom rung, nhưng người chiến sĩ vẫn ung dung. Các anh nhìn thẳng
phía trước, vui vẻ bắt tay nhau. Xe hư hỏng khơng có kính, khơng có đèn, khơng có mui
xe, thùng xe có xước, nhưng xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước. Tất cả vì tiền tuyến, vì
mặt trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh
ra mặt trận. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết
định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
<b>Câu 5 : </b>
<b>a. Phân tích giá trị biểu cảm của từ “Chơng chênh” trong câu thơ: “Võng mắc chông</b>
chênh đường xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
b. Chỉ với hai câu thơ trên, Phạm Tiến Duật đã cho ta hiểu vẻ đẹp người lái xe Trường
Sơn thời chống Mĩ. Hãy viết tiếp từ 7 đến 12 câu tạo đoạn văn diễn dịch hồn chỉnh
(trong đó có sử dụng phép nối và câu đơn mở rộng thành phần chủ ngữ)
Gợi ý:
a. - “Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi
tả tư thế không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm
của người lính trên đường lái xe ra tiền tuyến. Đây là một nét vẽ hiện thực mà
Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn.
Trong hồn cảnh chiến đấu hết sức gian khổ, họ phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ
ngắn trên xe hoặc trên dọc đường đi, giữa làn mưa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt
sự sống.
lửa ấy đã chứng minh điều ngược lại: sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại
trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng.
b. <i><b>Viết đoạn văn</b><b> : </b></i>
<b>-</b> Câu thơ tái hiện một cách tinh tế gian khổ mà những người lính lái xe Trường Sơn
phải trải qua. Đó là cuộc sống gian khổ, phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn
ngay trên xe giữa những làn mưa bom của giặc đang ngày đêm trút xuống nhằm
huỷ diệt sự sống.
<b>-</b> Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư
thế không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm. Song
trong hồn cảnh của bài thơ, từ “chơng chênh” cịn gợi tả phong thái hiên ngang
của người lính như ngạo nghễ, thách thức kẻ thù.
<b>-</b> Họ ln có tư thế tiến về phía trước. Điệp từ “lại đi” tái hiện vịng bánh xe lăn tiến
lên phía trước, rộng hơn là đồn xe vận tải lao nhanh ra mặt trận bỏ lại đằng sau tất
cả đạn bom u ám để đến với bầu trời xanh phía trước.
<b>-</b> Bầu trời xanh là hình ảnh tượng trưng cho hồ bình, cho cuộc sống tươi đẹp. Với
hình ảnh này, ta thấy được niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của người lính vào
chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh lớn lao để đồn xe lăn bánh tới đích?
<i><b>Câu 6: </b><b>Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”, trong phần giải</b></i>
<i><b>quyết vấn đề, bạn em đã nêu được một nhận xét: </b></i>
“Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình
<i>ảnh những chiếc xe khơng kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là</i>
<i>lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường</i>
<i>Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ”</i>
a. Câu văn trên chứa đựng đề tài gì?
b. Triển khai 1 ý trong đề tài trên thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
<b>Gợi ý: </b>
a.Đề tài:
- Bài thơ phản ánh được cái khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những ch
iếc xe khơng kính.
- Bài thơ là khú hát ngợi ca vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
a. Triển khai đề tài 2: Vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe (theo các ý sau)
<b>-</b> Tư thế hiên ngang, bình tĩnh (khi xe mất đi những hệ số an toàn)
<b>-</b> Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy, đón nhận gian khổ khó khăn rất đàng
hồng, chủ động.
<b>-</b> Lạc quan, vui vẻ, trẻ trung
<b>Phần tập làm văn </b>
<i><b>Phân tích bài thơ “tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật. </b></i>
<b>I - Mở bài : </b>
<b>Cách 1:</b>
- Phạm Tiến Duật là một trong những tác giả tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời
chống MĨ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng ngang tàng, tinh nghịch mà sơi nổi,
tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ - đặc biệt là lớp trẻ ở tuyến đường Trường
Sơn và khơng khí của thời đánh Mĩ gian khổ, ác liệt.
-“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” ra đời trong hồn cảnh đó. Đây là một trong những
bài thơ đặc sắc của Phạm Tiến Duật, nằm trong chùm thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ
báo văn nghệ 1969 - 1970.
-Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo : Những chiếc xe khơng kính để làm nổi bật
hình ảnh những người lái xe ở chiến trường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung,
sôi nổi…Qua đó nhà thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của Việt Nam thời đánh
Mĩ.
<b>Cách 2: </b>
Người lính trở thành một đề tài lớn trong văn học chống Pháp, chống Mĩ thời kì 1945 –
1975. Những anh bộ đội cụ Hồ, những con người chịu bao hi sinh thử thách. Vì thế thật
dễ hiểu tại sao hình ảnh của họ lại in đậm trong văn chương thời kì đó, như: Đồng chí,
Khoảng trời hố bom….. Và “bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật là
một trong những sáng tác ấy. Bài thơ đã khắc hoạ một cách độc đáo người lính lái xe
Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
<b>II – Thân bài :</b>
<i><b>1. Hình ảnh những chiếc xe khơng kính.</b></i>
-Tứ thơ xe khơng kính là một hình ảnh độc đáo và ít thấy trong thơ và nó rất khác với
những hình ảnh xe cộ đã từng có trong thơ ca trước đó. Thơng thường hình ảnh xe trong
thơ ca thường được miêu tả theo cách “mĩ lệ hóa” hoặc “tượng trưng”.
-Ở bài thơ này, hình ảnh chiếc xe khơng kính là một hình ảnh hồn tồn có thực trong
chiến tranh được tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết và rất thực
-Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:
-“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính.
<i>Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.</i>
<i><b>2.Hình ảnh người chiến sỹ lái xe : </b></i>
Tác giả miêu tả những chiếc xe khơng kính nhằm làm nổi rõ hình ảnh những người
chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện phương tiện vật chất tối thiểu lại
là một cơ hội để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao
của họ. Những phẩm chất cao đẹp ấy được khắc hoạ 1 cách cụ thể và gợi cảm ở 14 câu
thơ tiếp theo.
a. Trước hết là sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy.
- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Khơng có kính chắn gió, bảo
hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là
“:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh
chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào
mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng
- Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ,
hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung
dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt
đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe khơng kính. Hai chữ “ta ngồi” với điệp từ
“nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người
làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu khơng khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”,
vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi
thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên
chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những
nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với
kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những người
chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình
tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Khơng
có kính chắn gió, bảo hiểm, đồn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi
chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
<i><b>b. Những người lính trẻ rất yêu đời lạc quan, bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ.</b></i>
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng
vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc
trắng” và “mưa tn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời).
Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi
gian khổ.
chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy
của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian
khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng
theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6
thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc
quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm
hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sơi
động như sự sơi động hối hả của đồn xe trên đường đi tới.
(Nếu chúng ta quen đọc, hoặc u thích nhưng vần thơ trau chuốt, mượt mà thì lần
đầu tiên đọc những vần thơ này, có thể cảm thấy hơi gợn, ít chất thơ. Nhưng càng đọc thì
lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ
đương cười đùa, teeos táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến
đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời
sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau
chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những
câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của
những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của
người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khối vơ tư, khác với cái cười buốt giá trong
bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ
cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.)
<i><b>c. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương.</b></i>
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại
gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi. Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm
một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của
những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng
của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”,
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường
nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chơng chênh... chỉ trong
một thống chốc. Để rồi lại tiếp tục hành quân”Lại đi lại đi trời xanh thêm”. Trong tâm
hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi
phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống
chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe khơng kính mà khơng một sức mạnh đạn bom nào
có thể ngăn cản nổi. Sự sống khơng chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh,
hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
+ Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường
trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “khơng kính, khơng mui, khơng đèn,
thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp ngữ “khơng có” nhắc
lại 3 lần như nhân lên 3 lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm 4 khúc như bốn
chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn.... Ấy vậy mà những chiếc xe như
những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình
cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Hai câu cuối âm điệu đối chọi mà trơi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn
xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn
với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất
đất nước đang vẫy gọi.
+ Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người
cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giầu bản lĩnh và chan
+ Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí
của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng khơng phải là vũ khí, là công
cụ... mà là con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường
dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói, bài thơ hay nhất là câu
thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp
của hình tượng nhân vật trong thơ.
(Tô đậm những cái không để làm nổi bật cái có….=> nổi bật chân lí của thời đại,
bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất
nhưng không thể bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nước nhỏ như
Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn…. Phải chăng đó là câu trả lời …? )
<b>III - Kết luận : </b>
“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” là bài thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống
Mĩ. Bài thơ gợi lại bao kỷ niệm hào hùng của người chiến sĩ lái xe nơi Trường Sơn khói
lửa. Đọc xong bài thơ, ta càng hiểu hơn về các chiến sĩ lái xe, về lòng dũng cảm, tư thế
hiên ngang bất khuất của họ. Ta cũng thấy được chất tinh nghịch hồn nhiên của mỗi
người lính trẻ. Chiến tranh đã qua đi nhưng lời thơ của Phạm Tiến Duật vẫn còn văng
vẳng đâu đây cái chất vui tươi khỏe khoắn yêu đời của cả một thế hệ trẻ Việt Nam thời
chống Mĩ.
<i><b>================</b></i>
<i><b>Đề số 2: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe</b></i>
<i>Đồn giải phóng qn một lần ra đi.</i>
<i>Nào có sá chi đâu ngày trở về.</i>
<i>Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.</i>
<i>Ra đi ra đi thà chết cho vinh.</i>
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng.
Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung
và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Khơng biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ
-những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và
chống Mĩ là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe khơng kính” của
Phạm Tiến Duật.
- Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét
đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng
chiến cứu nước.
<b>B.Thân bài.</b>
<i>1. Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát</i>
<i><b>vọng độc lập tự do để đi vào cuộc chiến đấu. </b></i>
- Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “<i>nước</i>
<i>mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nơng dân vừa được cách mạng</i>
giải phóng khỏi kiếp nơ lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội cầm lấy khẩu
súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của
mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ
“mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân
<i>Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay</i>
- Cịn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai cịn rất trẻ, có tri thức, họ
sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo
tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
<i>Mà lịng phơi phới dậy tương lai”.</i>
<i><b>2.Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hồ và nhờ lòng dũng</b></i>
<i><b>cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn</b></i>
<i><b>thành nhiệm vụ.</b></i>
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu
thốn.
những ngày đầu tiên bước vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng
chí! Và chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức
mạnh lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đẹp làm sao giữa
đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những
người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn
chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở các anh một tinh thần chiến
đấu dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt. Đời lính gian khổ nhưng ln giữ
mãi nụ cười dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng trăng treo”, một biểu tượng đẹp của
hình ảnh người lính, biểu tượng cao q của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí
mọi người.
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:
<i>Tây Tiến đồn qn khơng mọc tóc</i>
<i>Qn xanh màu lá dữ oai hùm</i>
<i>Mắt trừng gửi mộng qua biên giới</i>
<i>Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”</i>
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta thêm cảm phục sự
hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là
hình ảnh chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp - những con
người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ
lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những
người con của quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật
ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với
nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày trút xuống con
đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt hiện hình trong
hình ảnh những chiếc xe khơng kính rồi khơng cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo
mó. Gian khổ tưởng chừng như khơng thể vượt qua được, cái chết như kề bên, vậy mà lúc
nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những
chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng
cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được vậy mà nó vẫn tiến
lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái
xe rất phớt đời:
<i>“Khơng có kính, ừ thì có bụi.</i>
<i>Bụi phun tóc trắng như người già.</i>
<i>Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.</i>
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã
xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì
phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức của họ đối với quân
thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn
băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong những
chiếc xe khơng kính có những trái tim u nước, ln hướng về Miền Nam phía trước với
là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước:
<i>“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước</i>
<i>Chỉ cần trong xe có một trái tim”</i>
3. Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen
giữa những người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp
trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ PTD đều có
chung một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc
quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau rèn,
huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã vững vàng
nay lại vững vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần
trụi của cuộc sống người lính nhưng hai bài thơ cịn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu
riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng
vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính, cịn PTD thì lại tập trung làm nổi
bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù
của những người lính lái xe.
<b>C. Kết bài: </b>