Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tài liệu mới về "kinh doanh sức khỏe"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.65 KB, 71 trang )

kinh doanh sức khỏe. Tôi chưa bao giờ nhìn nhận công việc của mình ở góc độ này cả. Quí nhà
đầu tư cũng chớ có nghĩ rằng các bệnh viện chỉ làm ăn có lời mà không bao giờ lỗ, bởi thực tế đã
có một số bệnh viện hoạt động tại Tp.HCM phải phá sản rồi đó, mà là bệnh viện nước ngoài hẳn
hoi.
Ông dị ứng với từ “kinh doanh sức khỏe”, vậy quan điểm của ông về lợi nhuận như thế nào? Xin
hỏi thật, mấy năm qua bệnh viện Bình Dân “làm ăn” có lãi không?
Chúng tôi không đặt vấn đề lợi nhuận. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện nay của bệnh viện là do
Nhà nước mua sắm, xây dựng, bảng giá do Bộ Y tế qui định. Trên nguyên tắc bệnh viện Bình Dân
chỉ thu của người bệnh một phần viện phí (không thu đủ), nhưng vẫn đảm bảo một khoản thặng
dư nhất định.
Chẳng hạn, tôi thu của người bệnh 1 triệu đồng, nhưng chi phí thực tế chỉ khoảng 900.000 đồng
thôi, 100.000 đồng còn lại gọi là thặng dư. Khoản thặng dư này được sử dụng để tái đầu tư, nâng
cấp trang thiết bị của bệnh viện.
Tuy nhiên, từ trước đến nay chúng tôi không gọi đó là lợi nhuận.
Nhưng Bình Dân phát hành cổ phần ra ngoài, ban giám đốc mới sẽ chịu áp lực về trả cổ tức cho
cổ đông, nghĩa là bệnh viện buộc phải có lợi nhuận đúng nghĩa, nếu không nói là phải tối đa hóa
lợi nhuận?
Chúng tôi biết, nhưng tỉ lệ cổ tức phải trả bao nhiêu để gọi là đủ? 5%, 10% hay 15%? Tôi đã có
các nhà tư vấn chuyên nghiệp tính toán hết về giá khám bệnh, mức viện phí được áp dụng sau cổ
phần hóa, nhưng không phải là tính hết rồi cộng lợi nhuận, cộng đủ thứ vào để đội giá lên và rồi
người bệnh không còn ai đến với mình nữa.
Tôi cho rằng Bình Dân sẽ làm kinh tế, nhưng vẫn làm tròn trách nhiệm xã hội của mình. Bây giờ
chúng tôi hỗ trợ bệnh nhân nghèo như thế nào thì sau cổ phần hóa vẫn cố gắng làm đúng như thế.
Mỗi năm chúng tôi đều dành ngân sách gần 2 tỉ đồng để trang trải cho việc hỗ trợ này, đặc biệt
cho những trường hợp trốn viện vì không đủ tiền thanh toán. Tất nhiên, hỗ trợ bệnh nhân nghèo
sau cổ phần hóa không thể chỉ nói miệng thôi mà phải có giải pháp tài chính cụ thể. Và chúng tôi
đã có những đề xuất.
Ông có nghe thị trường OTC ngoài kia đang xôn xao vì nhiều người đang chạy mua “thâm niên”
của người lao động trong Bình Dân?
Có cung cầu thì mới có thị trường. Nguồn cung từ đâu, ít hay nhiều tôi chưa thể xác định. Tuy
nhiên, trong các cuộc họp giao ban tôi đã khuyến cáo các cán bộ công nhân viên không nên bán


quyền mua cổ phần vì đây là hành vi bất hợp pháp, có thể dẫn đến lừa đảo. Gọi là “bán lúa non”
thì ít nhất cũng có “lúa non” trong tay, đằng này có người bán thứ mà họ không hề có.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng những ai mua quyền mua cổ phần đó cũng là tiếp tay cho lừa
đảo. Vốn điều lệ hiện nay của Bình Dân chúng tôi còn chưa thể tiết lộ, họ lấy gì làm cơ sở để
chuyển nhượng mua bán?
Theo dự thảo đề án cổ phần hóa, Nhà nước sẽ giữ cổ phần chi phối trên 51%, cán bộ công nhân
viên cứ một năm công tác được mua 100 cổ phần ưu đãi với giá bằng 60% giá đấu bình quân ra
bên ngoài, nhà đầu tư chiến lược nắm tối đa 20% và phần còn lại (tối thiểu 20%) được đem đấu
giá. Điều tôi quan tâm hiện nay là khi đem đấu giá, nếu mọi người định giá trị thương hiệu Bình
Dân cao thì điều này sẽ được chuyển hóa vào giá, tức giá đấu có thể sẽ bị đẩy là khá cao khiến
việc sở hữu cổ phần ưu đãi trở nên quá khó đối với một số cán bộ công nhân viên.
Tôi không muốn giá cao “ảo” nhưng cũng không thể kiểm soát được, thành ra đang chuẩn bị một
số cơ chế tài chính để hỗ trợ các cán bộ công nhân viên có thể vay lãi suất thấp hay vay trả chậm
để họ tiếp tục gắn bó với bệnh viện.
Khu điều trị kỹ thuật cao của bệnh viện Bình Dân được đưa vào hoạt động giữa năm 2006 liệu có
phải là tiền đề để ông thiết lập mặt bằng giá mới của bệnh viện sau cổ phần hóa?
Hiện nay mỗi năm chúng tôi được Nhà nước cấp khoảng 20 tỉ đồng cho mua sắm tài sản cố định
và chi thường xuyên, sau cổ phần hóa bị cắt đi khoản này thì phải có nguồn viện phí bù đắp vào.
Do đó, điều chỉnh giá cả bao nhiêu thì phù hợp với lợi ích của cổ đông và được người bệnh chấp
nhận là điều phải cân nhắc. Chính bệnh nhân sẽ là người quyết định giá cả trong bệnh viện chứ
không phải là chúng tôi, qui luật thị trường là vậy.
Ở khu kỹ thuật cao, chúng tôi thu cao hơn trong bệnh viện trung bình 10%, tuy nhiên giá phòng tối
thiểu trong khu này là 170.000 đồng/giường, còn tại bệnh viện chỉ khoảng 50.000 đồng/giường.
Chúng tôi phải thu cao hơn vì hằng tháng còn phải trả tiền vay cho ngân hàng. Dự án này khởi
động năm 1997, từ đời giám đốc cũ của Bình Dân.
Cách đây ba năm khi tôi về mới xới lại, đem phương án đi thuyết phục các ngân hàng. Nhưng từ
dự án này, tôi hiểu rằng muốn công việc chạy nhanh thì điều quan trọng nhất là mình phải quan
tâm đến nó, gỡ rối ngay từ khi chúng xuất hiện, giao cho anh em triển khai cụ thể và đề ra thời hạn
để cố gắng hoàn thành.
Cũng như tôi kỳ vọng rằng sau khi cổ phần hóa, với cơ chế tài chính linh hoạt, chúng tôi sẽ nhanh

chóng mua sắm được nhiều trang thiết bị hiện đại hơn, gần với sự phát triển của thế giới hơn, và
sẽ chiếm lĩnh được những đỉnh cao mới.
Ông có cho rằng cổ phần hóa các bệnh viện công thì sẽ khắc phục được thực trạng nhũng nhiễu
đang được gọi dưới cái tên là... thiếu y đức?
Biểu hiện của thiếu y đức không chỉ là nhũng nhiễu. Không thể cổ phần hóa rồi cứ xuôi tay yên
tâm rằng y đức tự nhiên nó tăng lên mà phải có hàng loạt giải pháp. Nói một cách lý thuyết là giáo
dục, kiểm tra, quản lý, vận động, và kể cả chế tài xử phạt, mà cổ phần hóa rồi đương nhiên cơ chế
giám sát sẽ chặt chẽ hơn.
Người ta vẫn thường khen các bệnh viện tư có thái độ phục vụ tốt hơn, nhưng thái độ phục vụ tốt
cũng không có nghĩa là y đức tốt. Người bác sĩ luôn nâng cao trình độ, làm các xét nghiệm đúng
bệnh, cho thuốc tương xứng với tình trạng bệnh... cũng là những khía cạnh của y đức.
Có người nói ông đang làm một công việc mạo hiểm vì cổ phần hóa hệ thống bệnh viện hiện nay
vẫn chưa có hành lang pháp lý để thực hiện? Người đi đầu thường dễ bị “lãnh đạn” mà?
Tôi không nghĩ mình là người “lãnh đạn”, vì mỗi bước đi của tôi đều thận trọng và có sự hậu thuẫn
của Thành ủy, UBND và Sở Y tế Tp.HCM.
Đúng là hiện nay các văn bản pháp luật cổ phần hóa là dành cho các doanh nghiệp, mà bệnh viện
lại có những nét rất đặc thù, vì thế cái chúng tôi đang vận dụng có sự điều chỉnh không giống luật
mà lại đúng luật.
Ông là người được Nhà nước bổ nhiệm giữ chức vụ giám đốc, nhưng sau cổ phần hóa thì số phận
của ông có thể được quyết bởi đại hội cổ đông. Ông có ngại mình sẽ không còn ở vị trí lãnh đạo
như hiện tại không?
Không thể nói trước được điều gì. Nhưng tôi đã bước đi vì tôi tự tin mình sẽ được tín nhiệm. Năm
nay tôi mới 55 tuổi, còn có thể làm việc được một nhiệm kỳ nữa!
3 nghịch lý trong cổ phần hóa
“Quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam dù đang được tiến hành mạnh nhưng vẫn đang có ba
nghịch lý tồn tại!”. Bài viết của PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên thành viên Ban nghiên
cứu của Thủ tướng.
Cổ phần hóa có ba mục tiêu cơ bản: huy động vốn, thay đổi cơ chế quản lý, và quan trọng hơn:
tìm được những ông chủ có trách nhiệm, đủ năng lực để Nhà nước giao doanh nghiệp cho họ cải
tổ, phát triển. Hiểu được mặt tốt của cổ phần hóa, đặt ra mục tiêu rất đúng, nhưng mặt khác cách

làm của chúng ta hiện nay lại lộ ra ba nghịch lý ngay trong chính nguyên tắc cổ phần hóa.
Nghịch lý thứ nhất
Nghịch lý thứ nhất là nghịch lý trong tư duy. Ta đã phải công nhận những doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thường làm ăn không hiệu quả, muốn nó tốt lên, muốn tài sản nhà nước không mất đi,
không còn cách nào khác là phải cải cách. Cải cách bao nhiêu kiểu rồi, hiệu quả đều không như
mong muốn. Cuối cùng nhận ra chỉ còn con đường cổ phần hóa mới cứu được doanh nghiệp, cứu
được nguồn vốn nhà nước, tăng được nội lực, sự năng động cho nền kinh tế.
Nhưng dù cổ phần của nhà nước đang được bán cho những cá nhân, những tổ chức của một
nhóm cá nhân nhưng chúng ta lại đang cho rằng cổ phần hóa không phải tư nhân hóa. Vậy cổ
phần hóa là chuyển quyền sở hữu của nhà nước sang ai? Điều này chưa rõ. Tôi nghĩ nên thừa
nhận trong cổ phần hóa có một phần là tư nhân hóa. Không chấp nhận điều này nên quá trình cổ
phần hóa vẫn còn gượng gạo, nhiều nơi không thống nhất cách làm, dẫn đến tình trạng có địa
phương hô hào về chủ trương nhưng khi tiến hành cổ phần hóa thì lại hạn chế.
Nhiều hàng rào đã được lập ra: ai được cổ phần, có thời điểm ta chỉ cho những doanh nghiệp làm
ăn yếu kém cổ phần hóa, còn những công ty có lãi thì không cho. Đến nay nhiều nơi vẫn bị ảnh
hưởng tâm lý này. Nghịch lý này khiến tính toàn dân trong cổ phần hóa không đảm bảo vì không
phải ai muốn mua cổ phần của Nhà nước cũng được trong khi tài sản nhà nước chính là tài sản
của toàn dân.
Nếu ta cứ giữ cổ phần chi phối để rồi cái cổ phần ấy nó không tăng lên thì đó là thất thoát khổng lồ
tiếp theo.
Có một ví dụ rất rõ về khả năng gom cổ phiếu để biến tài sản nhà nước thành tài sản của cá nhân
trong cổ phần hóa. Đó là trường hợp ở một công ty xây dựng quận Ba Đình, Hà Nội. Ông giám
đốc mới được chỉ định đến để tiến hành cổ phần hóa, sau khi tiến hành xong, buổi họp hội đồng
quản trị đầu tiên ông đã... khóc khi người nhà của ông giám đốc cũ đến thông báo: anh sẽ được
cho nghỉ việc.
Lý do rất đơn giản, ông giám đốc cũ đã âm thầm tập hợp lực lượng gom cổ phiếu và đến thời
điểm quyết định, ông gom được lượng cổ phần áp đảo: trên 35%. Sau câu tuyên bố xanh rờn
“công ty giờ là của tôi”, hội đồng quản trị đã quyết định: cho vị giám đốc đại diện quyền sở hữu
nhà nước... về nghỉ vô thời hạn.
Nghịch lý thứ hai

Nghịch lý thứ hai là chúng ta muốn cổ phần hóa để tăng vốn cho doanh nghiệp nhưng lại giới hạn
quyền góp vốn của người dân với tỉ lệ cố định ở mức thấp. Còn rất nhiều doanh nghiệp không
nhạy cảm về an ninh quốc phòng, cũng không thuộc ngành ngân hàng, nhưng các cơ quan chủ
quản doanh nghiệp hoặc bản thân ban lãnh đạo doanh nghiệp vẫn không cho bán quá 49% vốn để
giữ quyền lãnh đạo và những lợi ích thiển cận. Vốn là thực lực của Nhà nước. Thực lực này không
phải để rải ra khắp nơi chi phối từng tế bào A, B, C trong xã hội, mà chỉ nên gom ở một số điểm
mấu chốt nhằm mục tiêu định hướng. Việc định hướng không có nghĩa là phải nắm, nhất là nắm
thật nhiều. Đó là kiểu tư duy cũ.
Nếu ta muốn định hướng tiến tới một nền kinh tế tri thức thì phải đầu tư cho ngành công nghệ cao,
chứ không phải hô hào, rồi vẫn giữ chặt vốn để nắm các doanh nghiệp mì, bia, sợi... cụ thể. Như
thế lực vừa phân tán, vừa không hiệu quả.
Nếu biết tập trung tiền vào những ngành then chốt, tạo điều kiện để nó phát triển, sức mạnh sẽ lớn
lên rất nhiều. Còn cách làm hiện tại của ta, vì định giá đã kém, nếu cứ giữ cổ phần chi phối để rồi
cái cổ phần ấy nó không tăng lên thì đó là thất thoát khổng lồ tiếp theo. Nhà nước cũng là một nhà
đầu tư, mà đã đầu tư thì phải tìm biện pháp hiệu quả nhất, có lợi nhất cho tài sản của Nhà nước,
của dân.
Nghịch lý thứ ba
Cũng từ thói quen muốn giữ cổ phần chi phối nên chúng ta tạo nên nghịch lý thứ ba. Cổ phần hóa
đặt ra mục tiêu thay đổi cơ chế quản lý nhưng thực tế, với cách làm “giữ cổ phần chi phối” thì
doanh nghiệp cơ bản vẫn giữ lại toàn bộ cơ chế điều hành cũ. Có nơi, ông giám đốc để doanh
nghiệp thua lỗ mười năm liên tiếp, sau cổ phần hóa vẫn được đại diện sở hữu nhà nước... tiếp tục
làm giám đốc.
Trường hợp này hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ của doanh nghiệp vẫn giữ nguyên. Nó tạo ra
tình trạng “dở ông dở thằng”. cổ phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, mệnh lệnh hành chính đã
hằn bao nhiêu năm có thay đổi được thì cũng chỉ là tí chút. Trong khi đó, chỗ dựa (là Nhà nước)
không còn, nên nhiều công ty cổ phần hóa xong còn thua lỗ hơn trước.
Đối phó với trường hợp này, thường là ông giám đốc già lên làm chủ tịch hội đồng quản trị, ông
trưởng phòng kế toán thân cận được lên ghế giám đốc. Như vậy thì dù cổ đông có năng động, có
đặt mục tiêu cao bao nhiêu, tình hình doanh nghiệp vẫn không thể có bước ngoặt quyết định.
Thiệt hại cực lớn

Trước đây ta để cho doanh nghiệp tự định giá, rồi sau đó là tạo ra hội đồng định giá, cố nghĩ rằng
với bản lĩnh chính trị người ta sẽ không móc ngoặc tham nhũng. Vì thế thất thoát đã rất lớn. Đến
nay, thất thoát đó vẫn không bớt đi vì chúng ta chưa mạnh dạn nói không với những qui định mang
nặng tính đạo đức. Việc rẻ đắt không phải trong phạm trù đạo đức mà nó là khái niệm của thị
trường.
Thế nhưng chúng ta vẫn qui định phải bán giá ưu đãi cho người lao động, cho lãnh đạo doanh
nghiệp một phần quá lớn. Phải khẳng định cách làm đó là cực kỳ hình thức. Mong muốn cổ phần
hóa không phải tư nhân hóa nên ta dành một lượng đáng kể cổ phiếu để bán ưu đãi cho công
nhân. Đấy là việc tốt nhưng thực tế nó có đồng nghĩa với việc chuyển sở hữu nhà nước cho tập
thể công nhân không, hay nó đang là cơ hội cho nhiều kẻ tham ô, lũng đoạn?
Thực tế nếu công nhân nắm được cổ phần thì đó chỉ là tỉ lệ cực nhỏ, không đáng kể. Tiếng là
10-20% nhưng những công nhân lẻ loi liệu có thể đòi được quyền mua công bằng? Qua 1-2 năm,
thậm chí chỉ vài tháng, chỉ còn rất ít người giữ được “quyền làm chủ” của mình qua việc chiếm giữ
cổ phiếu. Hoặc là cổ phiếu đó được bán tự do, hoặc chính những người lãnh đạo doanh nghiệp
mua, mở đường cho cá nhân nào đấy, có thể là chính lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước sở hữu
công ty.
Cơ chế và cách quản lý cổ phần hóa như thế thì không thể không thất thoát. Người ta có thể định
giá thấp doanh nghiệp, thậm chí giấu tịt một khoản vốn tương đối mà không ai biết. Vì vậy nên
ngay cả những công ty nhỏ khi “lên sàn” giá cũng thường tăng gấp đôi. Lượng hóa tiền mất mát là
không thể. Song, với kinh nghiệm nghiên cứu cá nhân, tôi nghĩ cũng có cách ước lượng một cách
tương đối.
Cứ tính tập hợp nhỏ những công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc đang được mua
bán trên thị trường OTC chẳng hạn. Nhiều công ty giá từ 10.000 đồng/cổ phiếu đã tăng lên gấp 10,
thậm chí 60 lần. Công ty nọ bù công ty kia, cứ trừ yếu tố ảo hẳn một nửa đi, thì một nửa còn lại là
phần thất thoát trong định giá.
Lý thuyết thì phức tạp thế, còn nhìn thực tế những đơn vị A, tổng công ty C., vừa định giá xong,
nhà đầu tư bình thường đã thấy có thể mua gấp 10 lần mệnh giá, cứ thế mở rộng ra ở tất cả
những công ty đã cổ phần hóa, cộng với cả những rò rỉ trong việc bán giá ưu đãi thì lượng thất
thoát của Nhà nước, theo tôi, đã lên tới hàng ngàn tỉ đồng hoặc còn hơn.
3 lý do “đen”

1) Nếu nhìn thẳng vào sự thật thì có thể khẳng định ngay: cái cốt lõi khiến nhiều nơi mặn mà với
việc cổ phần hóa thời gian qua không phải do yêu cầu về chính trị, yêu cầu phát triển sản xuất mà
là vì “tiềm năng” có thể chia chác tài sản quốc gia. Rất nhiều “ông chủ” đang đại diện nhà nước
nắm quyền sở hữu doanh nghiệp khi nghĩ đến cổ phần hóa là nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, đến
chia chác, chiếm hữu.
Nếu nhà nước không nhận thức được điều này thì mất mát là đương nhiên. Mà tại Việt Nam,
người quyết định tiến hành cổ phần hóa không phải người lao động, số ít là do cấp trên, còn lại do
chính những ông giám đốc doanh nghiệp. Nếu thấy những tài sản ẩn, như bất động sản, vị trí độc
tôn, có thể định giá thấp để sau này mình được lợi, thì họ sẽ tiến hành cổ phần hóa rất nhanh. Thế
là tài sản nhà nước, sau khi cổ phần hóa xong, thành “của anh, của tôi, của chúng ta”.
2) Nhiều công ty tìm đủ cách để cổ phần hóa là do món nợ quá lớn. Món nợ đó thường được giấu
kín. Và cổ phần hóa nhằm trút nợ. Hoặc là tìm cách để được khoanh, giãn nợ, hoặc là khoản nợ
đó được trút lên đầu cổ đông. Qua quá trình đi khảo sát doanh nghiệp, tôi đã thấy rất nhiều trường
hợp ở dạng này. Trước khi cổ phần hóa thì không thấy nợ, nhưng sau khi cổ phần hóa xong mới
lòi ra khoản nợ cực lớn.
3) Một số doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa là vì ông giám đốc sắp đến tuổi nghỉ hưu. Khi thành
công ty cổ phần rồi, ông ta vẫn làm thủ tục nghỉ hưu bên Nhà nước, đồng thời vẫn có thể làm giám
đốc công ty cổ phần. Đây là phương pháp rất thời thượng.
Khó quản lý thị trường OTC qua công ty đại chúng
Kế hoạch tăng cường quản lý thị trường cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) của Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước xem chừng khó có thể thực hiện, khi hầu hết công ty cổ phần đều thờ ơ
trước qui định bắt buộc đăng ký lại để trở thành công ty đại chúng.
Tôi còn đợi!
Anh Huy, giám đốc một công ty cổ phần chuyên kinh doanh các mặt hàng viễn thông, nhún vai khi
được hỏi sao chưa đăng ký công ty cổ phần đại chúng: “Đăng ký để được cái gì? Làm công ty đại
chúng dễ bị “thổi còi” lắm, đủ thứ qui định ràng buộc, trong khi quyền lợi chẳng có gì nhiều. Tôi
ngán nhất là việc công bố thông tin, kiểm toán, rồi bao nhiêu người dòm ngó giám sát...”.
Công ty của anh Huy chỉ là một trong số cả chục ngàn công ty thuộc diện công ty đại chúng nhưng
chưa muốn đi đăng ký lại. Anh Huy bày tỏ: “Tôi phải đợi một thời gian nữa mới quyết định. Bây giờ
số cổ đông của công ty là 120 người, ít bữa họ giao dịch bán mua giảm xuống chỉ còn 50 người,

tôi làm đơn xin thôi làm công ty đại chúng xem có được không?”.
Mới đây, PGS. TS Trần Ngọc Thơ (Đại học Kinh tế Tp.HCM) đã thực hiện một cuộc khảo sát trong
235 doanh nghiệp (chủ yếu là các công ty cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước sắp cổ phần
hóa thuộc các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất kinh doanh...) về những vướng mắc của họ
khi “bị” hoặc “được” trở thành công ty đại chúng.
Cuộc khảo sát cho thấy lý do mà các công ty cổ phần không thích trở thành công ty đại chúng vì
lợi ích mang lại không tương thích với những cái mà họ sẽ mất đi.
Cụ thể, các doanh nghiệp e ngại rủi ro bị chia quyền kiểm soát, các ràng buộc về công bố thông
tin, sự thiếu vắng các điều luật bảo vệ nhà đầu tư, các chính sách chưa đầy đủ và công bằng của
Nhà nước...
Về thuế, các doanh nghiệp được khảo sát cho rằng chưa có tính công bằng và hiệu quả về thuế
giữa công ty đại chúng (phải công khai tài chính) so với mô hình hoạt động hiện tại của họ (không
phải công khai minh bạch tình hình tài chính).
Các công ty cổ phần sẽ trở thành công ty đại chúng khi đáp ứng một trong ba điều kiện: thực hiện
chào bán cổ phiếu ra công chúng, có cổ phiếu được niêm yết trên sàn giao dịch chính thức, hoặc
có số vốn điều lệ 10 tỉ đồng trở lên với ít nhất 100 nhà đầu tư tham gia góp vốn.
Luật Chứng khoán cũng qui định các công ty cổ phần phải nộp hồ sơ đăng ký lại thành công ty đại
chúng trong vòng 90 ngày kể từ ngày có số lượng cổ đông đạt từ 100 người trở lên. Theo Ủy ban
Chứng khoán, việc yêu cầu các công ty cổ phần đăng ký lại thành công ty đại chúng là bước đầu
tiên để kiểm soát thị trường cổ phiếu OTC. Sau khi đăng ký, các công ty này sẽ phải thực hiện
kiểm toán, công bố thông tin và quản trị công ty theo qui định của Luật Chứng khoán.
Bước tiếp theo là các công ty tiến hành lưu ký cổ phiếu, sử dụng các công ty chứng khoán làm
đầu mối và chuyển giao dịch về Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Bộ Tài chính sốt ruột
Dường như cũng đã nhận biết được khó khăn trong việc triển khai qui định này, Bộ Tài chính chỉ
quyết định “thử nghiệm” bằng cách kêu gọi các công ty cổ phần mà Nhà nước đang nắm giữ sở
hữu đi đăng ký lại.
Tuy nhiên, kết quả vẫn không mấy khả quan. Sau một tháng gửi công văn đi các bộ, UBND
tỉnh/thành phố, các tập đoàn, các tổng công ty 90, 91..., Bộ Tài chính chỉ nhận được danh sách
công ty đại chúng từ Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, Tổng công ty Lương thực

miền Nam, Tổng công ty Xi măng và Sở Tài chính Lâm Đồng.
Một chuyên gia chứng khoán nhận định nghị định 36 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán với mức phạt 5-20 triệu đồng đối với các công ty không nộp hồ
sơ đăng ký công ty đại chúng cũng chỉ là giải pháp tình thế. “Tôi cho rằng về lâu dài, Nhà nước
nên có những chính sách để khuyến khích các công ty “bước từ bóng tối ra ánh sáng” hơn là ép
buộc họ”.
Còn theo PGS. TS Trần Ngọc Thơ, để khuyến khích các công ty cổ phần (hoặc cổ phần hóa) hoạt
động theo mô hình công ty đại chúng, Chính phủ cần triển khai một số chính sách. Thứ nhất, yêu
cầu bắt buộc phải tiến hành các phương thức quản trị doanh nghiệp hiện đại trong các doanh
nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa để họ không phải “ngỡ ngàng” khi lên công ty đại chúng.
Thứ hai, theo ông, Chính phủ cần ban hành nghị định hướng dẫn cụ thể về minh bạch thông tin
trong các công ty đại chúng để hạn chế tình trạng mất cân xứng thông tin trên thị trường chứng
khoán.
Và thứ ba, cần có những qui định chính sách về các hoạt động mua lại, sáp nhập và bảo vệ nhà
đầu tư, nhất là nhà đầu tư nhỏ. Xu hướng này sẽ diễn ra khá phổ biến trong tương lai và cần phải
được Nhà nước dự báo thấu đáo nhằm đưa ra các chính sách thích hợp để bảo vệ nhà đầu tư.
Thu nhập của người lao động sau cổ phần hóa tăng 12%
T Phong Lan
Theo kết quả khảo sát ở hơn 100 công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước do Tổng liên đoàn Lao
động Việt Nam thực hiện, mức thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá tăng
12% so với trước.
Bên cạnh đó, hàng năm, người lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần còn được nhận cổ tức từ phần vốn cổ phần mà họ
có trong công ty. Mức cổ tức bình quân ở các công ty cổ phần cao gấp 2-3 lần so với lãi suất ngân hàng từ 12% đến 20%/năm.
Cổ đông hoá người lao động
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Lê Duy Đồng cho biết phần lớn số lao động dôi dư sau cổ phần hóa đã được
đào tạo lại, chuyển việc làm mới hoặc tự tìm được việc ngay với thu nhập ít nhất 600.000 đồng/tháng.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy cổ phần hoá vẫn tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. Điển hình như Công ty cổ phần
giấy Hapaco Hải Phòng, trước cổ phần hoá có 524 lao động, nay tăng lên gần 1.000 người; số lao động ở Công ty cổ phần đại lý
liên hiệp vận chuyển tăng 430%; và Công ty cổ phần may Hồ Gươm tăng 280%. Phần lớn lao động được tuyển dụng mới đều đã
qua đào tạo. Cơ chế quản lý đổi mới, bộ máy gọn nhẹ, việc thu chi được giám sát chặt chẽ, công khai được coi là những nguyên

nhân khiến cho thu nhập của người lao động ở các doanh nghiệp cổ phần hoá tăng lên.
Cũng theo kết quả khảo sát của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển đối với khoảng 500 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong hơn một
năm qua cho thấy thu nhập của người lao động tăng 54%, cổ tức bình quân được chia 15,5%/năm.
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thí điểm từ tháng 6/1992, đến tháng 8/2006, cả nước đã cổ phần hóa
được 3.060 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66%;
ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6,4%.
Còn theo báo cáo của cán bộ, ngành, địa phương về hiệu quả sản xuất kinh doanh của 850 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá
đã hoạt động trên 1 năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, trong đó 71,4% số doanh
nghiệp có doanh thu tăng; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%, trên 90% doanh nghiệp sau cổ phần đều hoạt động kinh
doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; số lao động bình quân tăng 6,6%.
Vẫn còn nhiều hạn chế
Theo luật gia Cao Bá Khoát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì: nhìn chung các mục tiêu cổ phần hoá đều đã được thực hiện nhưng mới
chỉ là bước đầu. Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ từ nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi
phối, phổ biến nhất là trong các công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng giao thông.
Người lao động trong nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng mua thêm cổ phần ngoài số cổ phần mua với giá ưu đãi: trong khi đó,
không ít người lưu động không những không mua cổ phần lại bán cổ phần ngay sau khi mua. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh
nghiệp mới đạt 15,4% vốn điều lệ, các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để trở thành những người chủ có vai
trò nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá “khép kín” trong nội bộ, có tới 38% số doanh nghiệp không có cổ phần bán ra ngoài.
Việc cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước chưa thực hiện triệt để theo đúng tinh thần Nghị quyết trung ương 3, chương trình hành
động của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ. Ở nhiều bộ ngành địa phương nhiều doanh nghiệp thuộc diện cổ phần
hoá trong các năm 2003 – 2004 nhưng chưa được tiến hành lộ trình cổ phần hoá.
Tỷ trọng doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn còn rất cao (gần 40%). Tài chính doanh nghiệp còn nhiều tồn tại và lao
động dôi dư vẫn đang tiếp tục là trở ngại không nhỏ đối với việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước.

2010: Mục tiêu cổ phần
hóa hơn 1.500 doanh
nghiệp CẬP NHẬT: 10/10/2006 09:02:38 (GMT+7)
Đặng Nguyễn
Tại Hội nghị về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp

Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 được tổ chức
ngày 7/10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
khẳng định: "Nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp trong 5 năm tới trọng tâm là cổ
phần hoá. Mục tiêu đến năm 2010, chúng ta sẽ
cơ bản cổ phần hoá xong doanh nghiệp Nhà
nước".
Báo cáo về kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua, ông
Phạm Viết Muôn, Phó Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cho biết, tính đến hết tháng
8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hoá (cổ phần hóa) 3.060
doanh nghiệp.
Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830 doanh nghiệp Nhà nước, bằng gần 68% số
doanh nghiệp Nhà nước đầu năm 2001.
Sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ
vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp
gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhìn chung, các doanh nghiệp
sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với các
mức độ khác nhau. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của
850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng
44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%.
Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân
sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng
bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%.
Cùng với việc sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn
cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các
công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước
giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty
thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn.
Như vậy, đến hết tháng 9/2006, cả nước đã có 105 tập đoàn và tổng công ty, cụ thể gồm 7 tập

đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty
thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam.
Sau cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp đã hoạt động hiệu quả hơn.
(Ảnh: TT)
Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn Nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó,
1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản
xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh.
Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ nay
đến 2010 là đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước. Theo
đó, từ nay đến hết năm 2010 sẽ cổ phần hoá khoảng 1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp
thành viên của tổng công ty Nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008), trong đó, năm 2007 phải
cổ phần hoá 550 doanh nghiệp (có khoảng 20 tổng công ty), số còn lại sẽ thực hiện trong các năm
2008- 2009, một số công ty và số ít doanh nghiệp chưa cổ phần hoá được sẽ thực hiện trong năm
2010.
Như vậy, đến cuối năm 2010, cả nước sẽ chỉ còn 554 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, trong
đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh,
quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh
nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước.
Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo, cả nước hiện còn 105 tập đoàn, tổng công ty,
trong số tổng số 2.176 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Để cơ bản hoàn thành xong cổ phần
hoá vào năm 2010, chúng ta dự kiến sẽ phải cổ phần hoá xong 79 tổng công ty trong số 105 tổng
công ty và cổ phần hoá khoảng 1.500 doanh nghiệp, còn lại là các doanh nghiệp công ích, nông,
lâm trường.
Theo Thủ tướng, trước mắt, trong khi chưa thực hiện cổ phần hóa được tổng công ty thì tiến hành
cổ phần hóa tất cả các doanh nghiệp thành viên trước và chuyển sang mô hình hoạt động công ty
mẹ - con. Chúng ta chưa cần cổ phần hóa ngay các tổng công ty vì hiện vẫn chưa có kinh nghiệm
cổ phần hóa tổng công ty. Vì thế, Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp sẽ có hướng dẫn cụ thể đối
với các tổng công ty.
Riêng những lĩnh vực mới, kể cả những lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi Nhà nước phải tham gia quản

lý như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, điện lực, viễn thông thì phải xây dựng đề án cổ phần hóa
cụ thể để trình Chính phủ phê duyệt.
Đối với những doanh nghiệp đã lỗ hết vốn thì buộc phải giải thể và thực hiện chính sách lao động
dôi dư hoặc bán đấu giá mặt bằng thu hồi về cho Nhà nước. Một vấn đề quan trọng nữa là cổ
phần hóa phải gắn liền với vấn đề đưa ra sàn đấu giá và niêm yết trên thị trường chứng khoán
(tính đến thời điểm này, mới chỉ có trên 60 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa đã niêm yết
trên thị trường chứng khoán).
Luật về doanh nghiệp cổ phần: Lúng túng là có
thật CẬP NHẬT: 19/09/2006 04:36:12 (GMT+7)
Lê Văn Tứ (TBKTSG)
Hiện nay vẫn còn tồn tại những quy định không tương thích giữa hai luật - Luật Doanh
nghiệp Nhà nước và Luật Doanh nghiệp mới về loại hình doanh nghiệp cổ phần trong đó
Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn.
Sự không tương thích này trước hết biểu hiện ở chỗ công ty cổ phần có đại hội cổ đông là cơ
quan quyền lực cao nhất để thực hiện quyền quản lý của các cổ đông với tư cách các đồng sở
hữu, còn doanh nghiệp Nhà nước, do chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước, nên không có
đại hội cổ đông để thực hiện quyền quản lý của chủ sở hữu, quyền này mặc nhiên thuộc về cơ
quan nhà nước nhân danh Nhà nước đã tổ chức ra doanh nghiệp (tạm gọi là cơ quan chủ quản:
bộ, UBND địa phương...).
Vậy là khi xuất hiện những vấn đề vượt quá quyền hạn và trách nhiệm của người quản lý (hội
đồng quản trị và giám đốc), thì chủ sở hữu phải quyết định. Ở doanh nghiệp Nhà nước, theo Luật
doanh nghiệp Nhà nước, vấn đề được trình lên cơ quan chủ quản. Ở công ty cổ phần, theo Luật
Doanh nghiệp phải trình ra đại hội cổ đông.
Hệ quả của sự không tương thích này là hình thành hai cơ quan thực hiện quyền chủ sở hữu ở
những doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước nắm trên 50%: a) Cơ quan khiên cưỡng gọi là
chủ quản. b) Đại hội cổ đông. Lúng túng thực tế sẽ phát sinh khi chủ trương chỉ đạo của cơ quan
chủ quản không được đại hội cổ đông chấp nhận.
Thí dụ: ông X. bà Y. được cơ quan chủ quản giới thiệu ứng cử vào các chức danh thành viên hội
đồng quản trị và giám đốc, nhưng khi ra đại hội cổ đông, các vị này lại không thu được túc số biểu
quyết như điều lệ công ty quy định. Xử lý sao trường hợp này? Cơ quan chủ quản ra quyết định

bổ nhiệm theo kiểu bổ nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước hay thay đổi ứng viên cho tới khi
được đại hội chấp nhận?
Thí dụ khác. Vì vẫn được coi là doanh nghiệp Nhà nước nên khi doanh nghiệp có chủ trương đầu
tư lớn, thì theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, dự án đầu tư phải thông qua cơ quan chủ quản.
Nhưng là công ty cổ phần, theo Luật Doanh nghiệp, phải thông qua đại hội cổ đông. Biện pháp giải
quyết thế nào khi quyết định của cơ quan chủ quản và của đại hội cổ đông khác nhau?
Ngoài hai thí dụ nêu trên, còn có thể kể thêm rất nhiều trường hợp lúng túng khác nữa. Công việc
quản lý và điều hành doanh nghiệp vì thế trở nên rối, tạo điều kiện cho nhiều quan chức can thiệp
thô bạo (chưa nói tới vụ lợi) vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa mà còn cố coi là doanh nghiệp Nhà nước thể hiện cách
hiểu tùy tiện khái niệm quyền sở hữu. Theo đúng khái niệm này chỉ những doanh nghiệp có 100%
vốn nhà nước mới được coi là doanh nghiệp Nhà nước, dù rằng nó có thể mang hình thức và
được gọi là công ty TNHH (một thành viên), hoặc công ty cổ phần (Nhà nước nắm giữ 100% cổ
phần nhằm tạo sẵn khả năng cổ phần hóa). Chỉ doanh nghiệp Nhà nước mới chịu sự điều chỉnh
của Luật doanh nghiệp Nhà nước, như là công cụ để Nhà nước quản lý doanh nghiệp với tư cách
chủ sở hữu.
Sự khác nhau giữa Luật Doanh nghiệp Nhà nước với Luật Doanh nghiệp (thống nhất) không phải
ở chỗ một bên quản lý doanh nghiệp Nhà nước, còn bên kia quản lý các doanh nghiệp không phải
nhà nước, mà là ở chỗ Luật Doanh nghiệp là công cụ để Nhà nước quản lý doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế với tư cách cơ quan quyền lực xã hội. Với vai trò này, Luật doanh nghiệp Nhà
nước chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, chứ không phải ngược lại.
Căn cứ vào chế độ sở hữu, tất cả các doanh nghiệp đã cổ phần hóa có cổ phần nhà nước, kể cả
khi Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, đều là doanh nghiệp hỗn hợp và mọi cổ đông đều có
quyền quản lý doanh nghiệp, ít nhất thông qua quyền biểu quyết trong đại hội cổ đông.
Áp dụng Luật Doanh nghiệp Nhà nước vào doanh nghiệp cổ phần hóa phải coi là sự lạm dụng
quyền lực nhà nước, biến Nhà nước từ chỗ chỉ là một trong các cổ đông thành người có đặc
quyền đứng trên mọi cổ đông khác, trái với bản chất công ty cổ phần là sự hợp vốn của những
nhà đầu tư bình quyền trong quyết định kinh doanh, có lãi cùng chia, có lỗ cùng chịu theo tỷ lệ vốn
góp.
Vấn đề đang bàn một lần nữa cho thấy sau 20 năm đổi mới mà tư duy quản lý hành chính quan

liêu vẫn còn khá nặng. Cần thấy rằng quản lý công ty cổ phần chủ yếu phải dựa vào sự đồng
thuận và tín nhiệm. Các nhà lãnh đạo công ty cổ phần sẽ được mọi cổ đông tín nhiệm và ủng hộ
nếu họ chứng minh được tài năng của mình bằng hiệu quả kinh doanh.
Cần nhớ rằng trong trường hợp Nhà nước giữ cổ phần chi phối, các cổ đông thiểu số tuy không có
khả năng thông qua một nghị quyết, nhưng lại có thể ngăn chặn việc thông qua này bằng cách bỏ
phiếu không tán thành, khiến cho dự thảo nghị quyết khó thu được túc số cần thiết.
Như vậy, tuy Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối, nhưng cũng không thể tùy tiện quyết định mà
không tính tới ý chí của các cổ đông khác. Cũng cần nhớ rằng cổ đông có thể rút khỏi công ty
bằng cách bán lại cổ phần. Nếu cảm thấy mất quyền quản lý, cổ đông thiểu số có thể rút khỏi công
ty. Nếu họ rút lui hàng loạt, công ty sẽ ra sao? Cho nên cung cách quản lý công ty cổ phần không
thể rập khuôn cung cách áp dụng trong doanh nghiệp Nhà nước.
Điều cần nhớ nữa: mục tiêu cổ phần hóa chính là nhằm đổi mới tổ chức và quản lý doanh nghiệp
Nhà nước, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vậy vì sao lại cứ phải gán ghép cung cách
quản lý doanh nghiệp Nhà nước cho những doanh nghiệp không còn hoàn toàn là của Nhà nước?
Chào bán cổ phiếu ra công chúng sẽ minh bạch
hơn CẬP NHẬT: 19/03/2007 05:31:54 (GMT+7)
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 17-2007/TT-BTC quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký
chào bán chứng khoán ra công chúng, hồ sơ chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các
trường hợp cụ thể khác.
Theo quy định chung của Thông tư này, các thông tin trong hồ sơ phải chính xác, trung thực,
không gây hiểu nhầm và có đầy đủ những nội dung quan trọng ảnh hưởng đến việc quyết định của
nhà đầu tư.
Tổ chức phát hành, các tổ chức và cá nhân liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán
phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ đăng ký chào bán chứng
khoán ra công chúng theo quy định tại Điều 17, Luật Chứng khoán.
Thông tư trên cũng quy định, hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng ở trong nước
kết hợp với chào bán chứng khoán ra nước ngoài phải kèm theo bản sao tài liệu đăng ký chào bán
với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nơi tổ chức phát hành đăng ký chào bán.
Tổ chức phát hành phải có văn bản giải trình các điểm khác biệt trong báo cáo tài chính, nếu báo
cáo tài chính trong hồ sơ đăng ký chào bán ở nước ngoài không được lập theo chuẩn mực kế toán

Việt Nam.
Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cổ phiếu,
trái phiếu cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt
chào bán, kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản phong tỏa về số tiền thu được
trong đợt chào bán theo mẫu tại Phụ lục số 02A và 02B kèm theo Thông tư này.
Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
được lập bằng văn bản, gồm 1 bộ gốc và 5 bộ sao y bản chính, kèm theo file điện tử theo địa chỉ
cho Ủy ban Chứng khoán quy định.
Sau khi được chấp thuận về nguyên tắc, tổ chức phát hành gửi Ủy ban Chứng khoán 6 bộ hồ sơ
đã được chấp thuận trước khi Ủy ban cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng.
Theo yêu cầu của Bộ Tài chính, bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công
chúng phải phản ánh đầy đủ thông tin tóm tắt về tổ chức phát hành, bao gồm:
- Mô hình tổ chức bộ máy, hoạt động kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, hội đồng quản trị
hoặc hội đồng thành viên, hoặc chủ sở hữu công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc, phó giám đốc
hoặc phó tổng giám đốc và cơ cấu cổ đông (nếu có);
- Thông tin về đợt chào bán chứng khoán chào bán, các yếu tố rủi ro, đự kiến kế hoạch lợi nhuận
và cổ tức năm gần nhất sau khi phát hành chứng khoán, phương án phát hành và phương án sử
dụng tiền thu được từ đợt chào bán.
Báo cáo tài chính của tổ chức phát hành trong hai năm gần nhất phải tuân thủ chế độ kế toán hiện
hành, bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính…
Trường hợp tổ chức phát hành ra là công ty mẹ thì tổ chức phát hành phải nộp báo cáo tài chính
hợp nhất theo quy định của phát luật về kế toán kèm theo báo cáo tài chính của chính công ty mẹ;
báo cáo tài chính năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập được chấp thuận...
ATIP đã thực sự là công ty đại chúng, nhưng...” CẬP
NHẬT: 24/03/2007 09:41:43 (GMT+7)
Lan Hương
Ngày 6/3/2007, tức là sau hơn một tháng kể từ ngày Công ty Dầu khí ATIP là thành viên của
Tập đoàn ATI có trụ sở chính tại 142 Fairbanks, Oak Ridge, Tennessee, USA và Công ty
Thác Đa ATIP chào bán cổ phiếu ATIP tại Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã

chính thức đưa ra khuyến cáo đối với các nhà đầu tư trên website www.ssc.gov.vn.
Theo đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đề
nghị các nhà đầu tư hết sức thận trọng trong
việc mua, bán cổ phiếu này, không sử dụng cổ
phiếu này để gán nợ hoặc trả lương cho cán
bộ, công nhân viên.
Sau khi có kết luận thanh tra về ATIP, ông Vũ
Bằng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, đã có trả lời chính thức.
ATIP nói rằng có gửi hồ sơ niêm yết lên Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước. Điều này có đúng
không, thưa ông?
Thời gian gần đây, trên các phương tiện thông
tin đại chúng có đăng tin về trường hợp phát
hành của Công ty Dầu khí ATIP. Qua thông tin
thì thấy có đề cập đến việc ATIP phát hành ra
công chúng.
Về phía Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, hoàn toàn không có một thông tin chính thức nào từ
ATIP cả. Chúng tôi có nhận được một văn bản của ATIP đề nghị được niêm yết trên trung tâm
giao dịch chứng khoán, nhưng mà mới chỉ dừng ở một công văn đề nghị mà thôi.
Chúng tôi không có một thông tin gì từ ATIP.
"Đối với các nhà đầu tư, phải rất lưu ý trong việc chào bán của các công ty
cổ phần hiện nay".
Sau khi tiến hành thanh tra tại ATIP, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã kết luận như thế nào,
thưa ông?
Để bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt khi có thông tin ATIP chào bán chứng khoán ra công chúng
nhưng chưa có hồ sơ đăng ký với Ủy ban nên chúng tôi chọn giải pháp khuyến cáo qua phương
tiện báo chí để các nhà đầu tư được biết và có kiểm tra đối với ATIP và làm rõ ngay những thông
tin như vậy.
Khi vào kiểm tra, chúng tôi cũng được sự hợp tác hỗ trợ của phía công ty. Ủy ban Chứng khoán

Nhà nước đã có kết luận thanh tra và báo cáo Bộ Tài chính. Bộ Tài chính cũng đã chấp thuận với
kết luận này của thanh tra.
Nội dung kết luận thanh tra này nói rõ, ATIP đã có bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên, phát
hành cho dưới 100 người là cán bộ công nhân viên. Nhưng cán bộ công nhân viên lại có sự
chuyển nhượng ra bên ngoài, dẫn tới số cổ đông trong công ty lên tới hơn 200 người. Và như vậy
ATIP thực sự đã trở thành công ty đại chúng.
Vì vậy, theo quy định của Luật Chứng khoán, ATIP phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, gửi hồ sơ đăng ký lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và tuân thủ các quy định về công bố
thông tin, quản trị công ty và kiểm toán.
Hiện nay, chúng tôi cũng đang chờ hồ sơ của ATIP chuyển lên.
Chúng tôi cũng được biết, ATIP có chương trình niêm yết cổ phiếu tại thị trường chứng khoán
EuroNext (châu Âu). Tuy nhiên theo quy định, khi công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán
nước ngoài phải có báo cáo với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và công bố thông tin ra công
chúng.
Hôm nay, chúng tôi chính thức thông báo cho các nhà đầu tư biết về nội dung kết luận thanh tra
này.
Vậy Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có đặt ra một mốc thời gian để ATIP phải hoàn chỉnh các hồ
sơ đó không, thưa ông?
Theo quy định của Luật Chứng khoán, công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba
loại hình: là công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng, là công ty có cổ phiếu được
niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán, là công ty có cổ
phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và
có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên. Các công ty cổ phần phải nộp hồ sơ công ty
đại chúng cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày trở thành công
ty đại chúng.
Tuy nhiên, do Luật Chứng khoán rất mới, vừa được ban hành, chưa có tập huấn, chưa có phổ
biến và chúng tôi cũng chờ các văn bản hướng dẫn thi hành nên có hiện tượng là có rất nhiều
công ty ở bên ngoài trở thành đại chúng và đã thực sự là đại chúng nhưng họ chưa biết luật này
để mà đăng ký.
Nên chúng tôi có giải pháp du di chung đối với các doanh nghiệp. Nghĩa là, chúng tôi sẽ gửi văn

bản đến yêu cầu doanh nghiệp đăng ký là công ty đại chúng. Sau đó cho họ một thời hạn để họ
chuẩn bị, vì còn phụ thuộc vào kiểm toán, những doanh nghiệp chưa kiểm toán thì phải mời kiểm
toán mà thủ tục kiểm toán mất nhiều thời gian.
Sau khi có thời hạn để họ tiếp cận với những việc đó, tổ chức tập huấn, và nếu lúc đó các trường
hợp không làm đúng theo quy định, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới áp dụng hình thức xử
phạt.
Qua trường hợp của ATIP, Ủy ban có khuyến cáo gì đối với các doanh nghiệp cũng như các nhà
đầu tư?
Trong thời gian tới, Ủy ban Chứng khoán sẽ tổ chức các lớp tập huấn để mọi người hiểu về những
quy định mới trong Luật Chứng khoán.
Qua đây, tôi cũng muốn nhắc nhở các tổ chức khác khi phát hành cổ phiếu phải rất lưu ý rằng
mình là đại chúng hay không đại chúng, phát hành ra công chúng hay phát hành riêng lẻ.
Bởi vì, nếu không đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khi chào bán ra công chúng, doanh
nghiệp sẽ phải chịu một hình thức xử phạt theo quy định. Trường hợp, tự trở thành công ty đại
chúng mà chậm đăng ký thì xử phạt thấp hơn. Nếu chào bán ra công chúng mà không có hồ sơ
đăng ký thì mức xử phạt sẽ rất nặng.
Đối với các nhà đầu tư, phải rất lưu ý trong việc chào bán của các công ty cổ phần hiện nay. Nếu
ra công chúng thì phải xem đã có hồ sơ được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận chưa?
Đã kiểm toán hồ sơ chưa? Đã đủ thủ tục công bố thông tin chưa?
Trường hợp nếu đợt phát hành đó không phải là chào bán ra công chúng mà chỉ là chào bán riêng
lẻ, thì bản thân nhà đầu tư cũng phải xem báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thông tin chính xác,
để tránh những trường hợp lừa đảo, gây thiệt hại đáng tiếc cho nhà đầu tư.
Công ty đại chúng không đăng ký sẽ bị xử phạt CẬP
NHẬT: 28/03/2007 09:09:01 (GMT+7)
L.Hương
Ngày 27/3/2007, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào
tạo chứng khoán đã tổ chức buổi tập huấn
đầu tiên về công ty đại chúng.
Theo bà Vũ Thị Kim Liên, Phó chủ tịch Ủy ban
Chứng khoán, buổi tập huấn này là bước khởi

đầu của việc quản lý công ty đại chúng theo
quy định của Luật Chứng khoán có hiệu lực từ
1/1/2007.
Và như vậy, đến ngày 30/6/2007, tức là sau 90
ngày kể từ ngày tập huấn này, Ủy ban Chứng
khoán sẽ tiến hành xử phạt đối với những
trường hợp công ty cổ phần là công ty đại
chúng mà không thực hiện đăng ký hồ sơ công
ty đại chúng.
Cũng theo bà Liên, ngay trong tháng 4 này, Thủ
tướng Chính phủ sẽ ban hành một chỉ thị riêng
về vấn đề này.
Đến thời điểm hiện nay, Bộ Tài chính mới nhận được danh sách công ty đại chúng của Tổng công
ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, Tổng công ty Lương thực miền Nam, Tổng công ty Xi
măng Việt Nam, Sở Tài chính tỉnh Lâm Đồng, Công ty Cổ phần Suất ăn hàng không Nội Bài, Công
ty Cổ phần Xuất nhập khẩu tổng hợp Bình Phước, Công ty Cổ phần Tổng hợp Bách Hoá và đăng
ký chào bán cổ phiếu ra công chúng của Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang.
Chưa nhiều công ty đại chúng thực hiện đăng ký hồ sơ.
Tiếp sau buổi tập huấn này, Ủy ban sẽ tổ chức một buổi tương tự tại Tp.HCM và một số buổi theo
yêu cầu.
Khẩn trương hợp tác
với Sở chứng khoán
New York CẬP NHẬT: 30/03/2007 09:30:04
(GMT+7)
Lan Ngọc
Thủ tướng vừa yêu cầu Bộ Tài chính khẩn
trương có kế hoạch hợp tác với Sở Giao
dịch chứng khoán New York (Mỹ).
Theo Công văn số 1675/VPCP-QHQT của Văn
phòng Chính phủ, ông John A.Thain, Tổng

giám đốc Sở Giao dịch chứng khoán New York, đã gửi thư cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bày
tỏ sẵn sàng đón tiếp đại diện Ủy ban Chứng khoán Việt Nam để trao đổi thông tin và kinh nghiệm
về thị trường chứng khoán.
Thủ tướng đã yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khẩn
trương có kế hoạch để triển khai các nội dung hợp tác, trao đổi kinh nghiệm giữa hai bên.
Song song với kế hoạch tiếp cận thị trường chứng khoán Singapore (bắt đầu triển khai từ tháng 4
này), việc tìm hiểu và trao đổi kinh nghiệm với Sở Giao dịch chứng khoán New York sẽ là bước đi
cần thiết, góp phần chuẩn bị cho việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước niêm yết tại thị trường
nước ngoài trong tương lai.
Niêm yết tại Singapore: “Khoảng 6-7 doanh nghiệp
Việt Nam quan tâm thực sự...” CẬP NHẬT: 03/04/2007 09:19:23 (GMT+7)
Hoàng Xuân
Sau lễ ký biên bản ghi nhớ về hợp tác
(MOU) giữa Sở Giao dịch Chứng khoán
Singapore (SGX) và Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội (HASTC) tại Hà Nội vào
sáng ngày 2/4/2007, ông Lawrence Wong -
Phó chủ tịch điều hành, Trưởng phòng
Niêm yết của SGX - đã có cuộc trao đổi với
báo giới.
Ông đánh giá thế nào về sự hợp tác giữa Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước và SGX, nhất là
biên bản ghi nhớ vừa được ký kết giữa HASTC
và SGX?
Sự hợp tác này sẽ cho chúng ta hiểu rõ hơn về
bức tranh tài chính và môi trường kinh doanh ở
Hà Nội. Chúng tôi mong muốn có sự hợp tác
chặt chẽ với HASTC để đáp ứng được các nhu
cầu tăng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam.
Mặt tiền Sở Giao dịch chứng khoán New York.

Giao dịch tại SGX.
Sự khởi đầu này nằm trong định hướng phát triển SGX là một kênh châu Á đối với các công ty
muốn huy động vốn quốc tế. Sự hợp tác này là kịp thời và giúp cho các doanh nghiệp niêm yết tại
thị trường chứng khoán nước ngoài.
Lợi ích của việc niêm yết tại thị trường chứng khoán nước ngoài?
Hiện nay, 1/3 trong số doanh nghiệp niêm yết tại SGX là doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có
nhiều tập đoàn và công ty lớn và nổi tiếng.
Việc niêm yết ở thị trường chứng khoán nước ngoài nói chung và tại SGX nói riêng sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam như: có cơ hội quảng bá với quốc tế, đáp ứng được
các chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty và tính minh bạch, tiếp cận với vốn quốc tế, mở rộng
cơ sở cổ đông, tăng tính thanh khoản của giao dịch và sự khan hiếm có thể tác động đến việc định
giá cổ phiếu.
Tuy nhiên, bên cạnh các lợi ích đó, các doanh nghiệp cũng cần phải cân nhắc đến những vấn đề
như: chi phí và nguồn lực trong việc duy trì cùng lúc niêm yết tại hai thị trường.
Riêng với SGX, có những lợi thế riêng như: là trung tâm quản lý các quỹ lớn, là sở giao dịch quen
thuộc của các công ty nước ngoài, có quan hệ kinh doanh và quan hệ chính trị mật thiết với Việt
Nam, các chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty và công bố thông tin, ổn định về chính trị và trung
tâm tài chính khu vực, cơ chế quản lý hướng tới thị trường.
Ngòai ra, SGX cũng có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong giai đọan đầu niêm yết...
Theo ông đánh giá sẽ có khoảng bao nhiêu doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện niêm yết tại
SGX?
Theo khảo sát của chúng tôi thì có khoảng 6-7 doanh nghiệp Việt Nam là quan tâm thực sự đến
việc niêm yết tại SGX.
Tuy nhiên, không thể kể tên chính xác được.
Vậy một doanh nghiệp Việt Nam muốn niêm yết tại SGX sẽ mất bao nhiêu lâu? Và phải đáp ứng
những điều kiện gì, thưa ông?
Một doanh nghiệp nước ngoài muốn niêm yết tại SGX sẽ mất thời gian từ 12 đến 18 tuần, tính từ
lúc nộp đơn xin niêm yết đến khi cổ phiếu được chính thức đưa vào giao dịch.
Theo hy vọng của tôi thì cuối năm 2007 và đầu năm 2008, Việt Nam sẽ có các doanh nghiệp đầu
tiên niêm yết tại SGX.

Các điều kiện niêm yết tại SGX bao gồm: lợi nhuận trước thuế, vốn hóa thị trường, cơ cấu cổ
đông và các điều kiện khác như chuẩn mực kế toán, chọn đồng tiền báo cáo và đồng tiền giao
dịch, phải có 2 thành viên hội đồng quản trị là người cư trú tại Singapore.
Chẳng hạn như điều kiện về cơ cấu cổ đông, công ty có tổng giá trị dưới 300 triệu đôla Singapore
thì phải có 25% bán ra công chúng, công ty có tổng giá trị trên 300 triệu đôla Singapore thì phải có
từ 12 -25% bán ra công chúng. Ngoài ra còn phải có ít nhất 1.000 cổ đông...
Riêng về phí niêm yết, tôi nghĩ các doanh nghiệp không phải cân nhắc nhiều. Sẽ có hai loại phí:
phí ban đầu và phí hàng năm. Đối với các công ty có giá trị thị trường ít hơn 500 triệu đôla
Singapore và hơn 2 tỷ đôla Singapore thì sẽ phải trả một khoản phí tối thiểu (50 nghìn đôla
Singapore) và tối đa (200 nghìn đôla Singapore) cố định tương ứng. Phí hàng năm từ 25 nghìn
đôla Singapore đến 100 nghìn đôla Singapore.
Quy định mới về cổ phiếu quỹ, cổ phiếu thưởng CẬP
NHẬT: 16/03/2007 09:56:10 (GMT+7)
Hải Bằng lược ghi
Một số thông tin mà nhiều nhà đầu tư đang rất quan tâm, nhất là đang vào “mùa” phát hành
cổ phiếu thưởng.
Ngày 13/3, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký quyết định ban hành thông tư quy định chi tiết về việc
công ty đại chúng mua lại cổ phiếu của chính mình, bán lại cổ phiếu đã mua, việc chào mua công
khai cổ phiếu của công ty đại chúng, việc công ty đại chúng phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, phát
hành cổ phiếu thưởng từ nguồn vốn chủ sở hữu và phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa
chọn cho người lao động trong công ty.
Cụ thể, thông tư quy định rõ cổ phiếu quỹ là cổ phiếu do công ty đại chúng đã phát hành và được
chính công ty mua lại bằng nguồn vốn hợp pháp. Công ty đại chúng mua lại cổ phiếu của chính
mình để làm cổ phiếu quỹ phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Có Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua đối với trường hợp mua lại trên 10% nhưng
không quá 30% tổng số cổ phần đã phát hành,
hoặc nghị quyết của hội đồng quản trị thông
qua đối với trường hợp mua lại không quá 10%
tổng số cổ phần đã phát hành trong mỗi 12
tháng.

Trường hợp công ty đại chúng mua lại cổ phiếu
của chính mình dẫn đến số lượng cổ phiếu quỹ
đạt tới 25% trở lên trong tổng số cổ phiếu đang
lưu hành của công ty, công ty phải thực hiện
chào mua công khai theo quy định của Luật
Chứng khoán và hướng dẫn tại Mục III của
Thông tư này.
- Có đủ vốn để mua lại cổ phiếu quỹ từ các
nguồn: nguồn thặng dư vốn, lợi nhuận để lại và
các nguồn khác theo quy định của pháp luật và
có phương án mua lại trong đó nêu rõ thời gian
thực hiện, nguyên tắc xác định giá.
Công ty không được thực hiện việc mua lại cổ
phiếu của chính mình trong các trường hợp: đang kinh doanh thua lỗ hoặc đang có nợ quá hạn;
đang trong quá trình chào bán cổ phiếu để huy động thêm vốn; đang thực hiện tách, gộp cổ phiếu;
cổ phiếu của công ty đang là đối tượng chào mua công khai.
Công ty không được mua cổ phần của các đối tượng sau làm cổ phiếu quỹ: người quản lý công ty;
vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh chị em ruột của cá nhân đó; người sở
hữu cổ phần có hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty; cổ đông
có cổ phần chi phối, trừ trường hợp Nhà nước thực hiện bán bớt cổ phần để giảm tỷ lệ sở hữu.
Công ty đại chúng không có cổ phiếu niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao
dịch chứng khoán, khi mua lại cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua một công ty chứng khoán
làm môi giới, không được gây ảnh hưởng đến giá cả giao dịch, giá trị mua lại tối đa không được
vượt quá 10% tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu này trong ngày.
Việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, phát hành cổ phiếu thưởng thông tư quy định: Công ty đại
Công ty đại chúng không có cổ phiếu niêm yết tại sở giao dịch chứng
khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán, khi mua lại cổ phiếu chỉ
được thực hiện thông qua một công ty chứng khoán làm môi giới - Ảnh:
VNN.
chúng phát hành cổ phiếu để trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ phải được Đại

hội đồng cổ đông thông qua và có đủ nguồn thực hiện từ lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính
gần nhất có xác nhận của kiểm toán.
Công ty đại chúng phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ phải
được Đại hội đồng cổ đông thông qua và có đủ nguồn thực hiện từ các nguồn: lợi nhuận tích lũy,
quỹ đầu tư phát triển; quỹ thặng dư vốn (phần vốn công ty cổ phần được hưởng theo chế độ).
Trường hợp thặng dư vốn do chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu với mệnh giá cổ phiếu được phát
hành để thực hiện dự án đầu tư thì công ty chỉ được sử dụng để bổ sung vốn điều lệ sau ba năm
kể từ khi dự án đã hoàn thành và đưa vào khai thác, sử dụng.
Trường hợp thặng dư vốn do chênh lệch giữa giá bán với mệnh giá cổ phiếu phát hành thêm thì
công ty chỉ được sử dụng để bổ sung vốn điều lệ sau một năm kể từ thời điểm kết thúc đợt phát
hành.
Công ty đại chúng phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công
ty phải đảm bảo các điều kiện: có chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cổ phiếu được
Đại hội đồng cổ đông thông qua; tổng số cổ phiếu phát hành theo chương trình không được vượt
quá 5% vốn cổ phần đang lưu hành của công ty. Hội đồng quản trị phải công bố rõ các tiêu chuẩn
và danh sách người lao động được tham gia chương trình, nguyên tắc xác định giá bán và thời
gian thực hiện.
Về việc công bố thông tin, thông tư quy định: tổ chức phát hành phải công bố thông tin trên các
phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu mười ngày trước khi thực hiện việc phát hành. Trong thời
hạn mười ngày sau khi hoàn thành việc phát hành, tổ chức phát hành phải báo cáo kết quả phát
hành cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Đối với trường hợp phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động, báo cáo
kết quả phát hành phải kèm theo danh sách có chữ ký của người lao động được tham gia mua cổ
phiếu.
Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Chứng khoán CẬP NHẬT: 15/03/2007 09:36:57 (GMT+7)
P.V
Theo nguồn tin từ Ủy ban Chứng khoán, ngày 13/3/2007, Bộ Tài chính đã ban hành một số
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán, cụ thể là:
- Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ban hành kèm theo quy chế quản trị công ty áp dụng cho các

công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán/trung tâm giao dịch chứng khoán;
- Quyết định số 13/2007/QĐ-BTC ban hành kèm theo mẫu bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào
bán chứng khoán ra công chúng và sồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại sở giao dịch chứng
khoán/trung tâm giao dịch chứng khoán;
- Thông tư số 17/2007/TT-BTC hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng;
- Thông tư số 18/2007/TT-BTC hướng dẫn việc mua, bán lại cổ phiếu và một số trường hợp phát
hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.
Văn bản có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo
Vinamilk sẽ phát hành gần 9 triệu cổ phiếu tại
Singapore CẬP NHẬT: 13/03/2007 12:11:40 (GMT+7)
Đăng Long
Dự kiến trong năm 2007, Vinamilk sẽ phát hành gần 9 triệu cổ phiếu tại thị trường chứng
khoán Singapore.
Đây là một nội dung được Hội đồng Quản trị
Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk)
thống nhất trình xin ý kiến Đại hội cổ đông
thông qua vào ngày 31/3 tới.
Cụ thể, Vinamilk dự kiến trong năm 2007 sẽ
phát hành thêm tại thị trường chứng khoán
Singapore 8.852.524 cổ phiếu, tổng mệnh giá
là 88.525.240.000 đồng, tương đương 5% vốn
điều lệ sau khi hoàn tất giai đoạn 3 năm 2007,
theo giấy phép phát hành số 66/UBCK-ĐKPH
do Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
cấp ngày 15/11/2006.
Như vậy, đến thời điểm này, Vinamilk là doanh
nghiệp Việt Nam duy nhất công bố kế hoạch
phát hành cổ phiếu tại thị trường nước ngoài.
Kế hoạch này có thể nằm trong định hướng chương trình tiếp cận thị trường chứng khoán
Singapore mà Bộ Tài chính chuẩn bị triển khai từ tháng 4 tới.

Ngoài kế hoạch trên, Vinamilk dự kiến sẽ chia cổ phiếu thưởng cho cổ đông với tỷ lệ 10 : 1 (10 cổ
phiếu cũ được 01 cổ phiếu mới), tương đương 17.705.048 cổ phiếu, tổng mệnh giá là
177.050.480.000 đồng. Dự kiến thời gian thực hiện chia cổ phiếu thưởng là 30/6/2006 nếu được
Đại hội cổ đông thông qua.
Vinamilk cũng vừa công bố đã đạt 21,8% mức mục tiêu 898 tỷ đồng lợi nhuận năm 2007 sau hai
tháng đầu tiên của năm.
Tính xác thực của thông tin?
T Lan Hương
Có lẽ chưa bao giờ, thị trường chứng khoán Việt Nam lại có nhiều chuyện lạ đến như vậy.
Chỉ với việc loan tin rằng tập đoàn tài chính quốc tế Goldman Sachs là đối tác chiến lược của
Công ty Chứng khoán Thiên Việt (TVS) mà không có bất cứ một lễ ký kết hay văn bản hợp tác nào
nhưng cũng đã khiến cho giá cổ phiếu của công ty dễ dàng tăng lên gấp 6, 7 lần mệnh giá.
Cùng lúc đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước công bố tóm tắt bản đánh giá và khuyến nghị về thị
trường chứng khoán Việt Nam của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), mà trong đó, những số liệu làm căn
cứ phân tích thì lại... thiếu chính xác. (?)
Trong đánh giá của mình, IMF nhấn mạnh rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển
chưa từng có trong năm 2006 cả về số lượng công ty niêm yết và chỉ số chứng khoán. Tuy nhiên,
những con số ước tính mà IMF đưa ra để chứng minh cho những nhận định trên lại hoàn toàn
khác xa so với những số liệu công bố của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM.
Vinamilk đang giữ vị trí cao trong thị trường sữa Việt Nam - Ảnh: TT.
Thứ nhất, nếu căn cứ trên số liệu P/E của các cổ phiếu niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Tp.HCM tại thời điểm phiên giao dịch ngày 31/1/2007 được đăng tải trên Bản tin Thị trường
chứng khoán của Trung tâm, thì P/E trung bình của 20 công ty lớn nhất tại đây chỉ là 54,25, trong
khi IMF đưa ra con số 73.
Thứ hai, tiêu chí để tính toán P/E bình quân này là căn cứ trên P/E của 20 công ty có tỷ trọng vốn
hóa thị trường lớn nhất. Nhưng theo số liệu của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM thì tỷ
trọng vốn hóa thị trường của 20 công ty này chỉ là 73,3%, thấp hơn hẳn so với mức 99% như IMF
công bố.
Thứ ba, trong phần nhận định về P/E, IMF cho rằng hệ số này là rất cao so với hầu hết các chuẩn
mực thị trường khác. Nhưng ngay trong bảng so sánh với một số thị trường chứng khoán châu Á,

tỷ lệ P/E trung bình của Nhật Bản mà IMF đưa ra là 266,1, vượt xa so với mức 73 của Việt Nam.
Lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thì khẳng định rằng, Ủy ban sẽ không có bất kỳ một
nhận định nào về báo cáo này vì đây là ý kiến tham khảo của IMF. Về mặt định lượng thì không
tính lại nhưng về định tính, về cơ bản, các giải pháp của IMF đưa ra tương đối phù hợp với các
giải pháp điều chỉnh của Ủy ban.
Về sự chênh lệch với số liệu của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước khẳng định rằng chưa có thời gian tính lại và cũng cảm thấy có sự chưa chính
xác. Bởi cách tính chỉ số EPS về mặt kỹ thuật cũng còn nhiều tranh cãi nên dẫn đến việc chênh
lệch về P/E. Tuy nhiên, do sức ép của dư luận và thị trường nên Ủy ban buộc phải công bố với
những nội dung tóm tắt.
Khi có tin đồn Goldman Sachs đã chọn Chứng khoán Thiên Việt (TVS) làm đối tác, ông Nguyễn
Trung Hà - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Chứng khoán Thiên Việt - không khẳng định tin đồn
đó đúng hay sai mà chỉ trả lời: Goldman Sachs tin tưởng vào Thiên Việt và chọn Thiên Việt làm đối
tác nội địa để thực hiện các dự án cụ thể tại Việt Nam.
Về mặt nguyên tắc, các thông tin chưa được ký kết thì không phải là thông tin chính thức, nhưng
tại sao TVS lại công bố như một thông tin chính thức? Trả lời báo giới, một đại diện có trách nhiệm
phát ngôn cho TVS (từ Galaxy Communications) cho biết: “Thiên Việt có làm việc với Chủ tịch của
Tập đoàn Goldman Sachs và ông này đã nói như vậy trong cuộc họp. Thường là một lời của ông
ấy nói ra thì mọi người coi đó như một sự khẳng định và không cần phải ký gì cả”.
Liệu rằng sự vênh về thông tin nói trên có được đính chính lại hay không?
Quá tải đăng ký đấu giá
cổ phần PVTrans CẬP NHẬT:
27/12/2006 02:29:58 (GMT+7)
Lan Hương
Hàng nghìn nhà đầu tư đổ xô đăng ký mua
cổ phần của Công ty Vận tải Dầu khí
(PVTrans) khiến phiên đấu giá sắp tới đứng
trước tình trạng quá tải.
Lượng nhà đầu tư đăng ký quá đông buộc
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán phải thay

đổi lại kế hoạch của phiên đấu giá cổ phần
PVTrans sắp tới.
Ước tính có trên 5.000 nhà đầu tư đã có tên trong dánh sách tham gia với khoảng 220 triệu cổ
phiếu PVTrans được đặt mua. Con số này vượt quá dự kiến của Ban tổ chức đấu giá và buộc phải
có sự điều chỉnh kế hoạch để tránh tình trạng quá tải. Một hiện tượng tương tự như phiên đấu giá
cổ phần Bảo hiểm Dầu khí (PVI) vào ngày 30/12 tới trên sàn Hà Nội.
Thông báo của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM cho biết thời gian mở hòm phiếu đấu
giá cổ phần PVTrans phải điều chỉnh lại, đổi từ 14h30 ngày 28/12/2006 sang 13h30 ngày 2/1/2007.
Trung tâm sẽ nhận phiếu tham gia của nhà đầu tư đến 14h30 ngày 28/12/2006.
“Sự cố” bước đầu này đang hé mở về một phiên đấu giá căng thẳng cổ phần của PVTrans sắp tới,
cổ phần của một công ty được đánh giá là khá hấp dẫn trên thị trường.
Trước hết, PVTrans cũng giống như Bảo hiểm Dầu khí, là một thành viên của Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam. Theo đó, đặc thù ngành là một yết tố hấp dẫn.
Hiện PVTrans hoạt động trong lĩnh vực vận tải dầu thô và các sản phẩm dầu khí; cung ứng nhân
lực cho ngành này, thuê và cho thuê vận tải biển, làm đại lý hàng hải và kinh doanh các thiết bị vật
tư liên quan.
PVTrans có vốn điều lệ 720 tỷ đồng, một mức khá cao trên thị trường. Theo kế hoạch, công ty này
sẽ bán đấu giá ra bên ngoài 25.775.100 cổ phần với giá khởi điểm là 10.500 đồng.
Nhà đầu tư từ chối mua hơn 9.600 cổ phiếu PV
Trans CẬP NHẬT: 28/02/2007 10:18:20 (GMT+7)
Hải Bằng
Ngày 27/2, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM thông báo có 9.685 cổ phiếu của
Công ty Vận tải dầu khí (PV Trans) bị từ chối mua.
Những nhà đầu tư từ chối mua chủ yếu do đặt giá mua quá cao so với giá trúng thầu bình quân.
Họ sẽ bị mất toàn bộ tiền đặt cọc.
Cuộc đấu giá cổ phiếu của PV Trans đã được tổ chức ngày 2/1/2007 với số lượng đăng ký mua
tăng vọt, gấp hơn 10 lần số lượng cổ phiếu chào bán, giá đặt mua và trúng đấu giá cao nhất là 111
triệu đồng/cổ phiếu (mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu), giá trúng đấu giá thấp nhất 77.700 đồng/cổ
phiếu và giá trúng đấu giá bình quân lên tới 81.237 đồng/cổ phiếu.
Nhà đầu tư nước ngoài chỉ trúng đấu giá vẻn vẹn có 1.000 cổ phiếu trong khi họ được phép mua

tới 21,6 triệu cổ phiếu, lý do là họ không nhận định “ảo” về Công ty PV Trans như nhiều nhà đầu
tư cá nhân.
Ngày 27/2, Ban tổ chức đấu giá cổ phiếu Công ty PV Trans thông báo, nhà đầu tư có nhu cầu đến
mua tiếp tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM từ 8 giờ ngày 28/2 đến 15 giờ ngày
1/3/2007. Phương thức xác định kết quả đấu giá như sau: số cổ phiếu được phân phối xét theo
thứ tự trả giá từ cao xuống thấp với mức giá nhà đầu tư đặt mua nhưng không được thấp hơn
mức giá đấu thầu thành công bình quân tại cuộc đấu giá cổ phiếu Công ty PV Trans ngày
28/12/2006. Cảnh giác với thông tin chào bán cổ phiếu
công ty chứng khoán CẬP NHẬT: 01/03/2007 03:08:43 (GMT+7)
Đăng Long
Nhà đầu tư cần cảnh giác trước những tin đồn và thông tin chào bán cổ phiếu của một số
công ty chứng khoán.
Hiện nay trên thị trường xuất hiện một số tin
đồn và thông tin rao bán cổ phiếu của cổ đông
sáng lập một số công ty chứng khoán, không
đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
Sáng nay (1/3), Ủy ban Chứng khoán cũng đã
chính thức xác nhận thông tin này và có công
văn gửi tới các công ty chứng khoán để rà soát
lại việc thực hiện chuyển nhượng cổ phiếu
cũng như việc phát hành tăng vốn của những
công ty này.
Ủy ban Chứng khoán yêu cầu các công ty thực
hiện nghiêm các quy định của pháp luật hiện
hành về việc phát hành tăng vốn.
Ủy ban nhắc nhở các cổ đông sáng lập của các
công ty chứng khoán không được chuyển
nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp của mình trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp giấy
phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập khác trong
công ty.

Với nhắc nhở trên cũng như theo quy định hiện hành, có quá nửa các công ty chứng khoán hiện
nay chưa được phép chuyển nhượng cổ phần vốn góp của các cổ đông sáng lập như một số tin
đồn, thông tin rao bán xuất hiện trên thị trường.
Cùng với công văn trên, Ủy ban Chứng khoán yêu cầu các công ty báo cáo tình hình vốn và danh
sách cổ đông của mình tại thời điểm 28/2/2007 trước ngày 7/3/2007.

Đấu giá cổ phiếu lần đầu: Nên phân tích kỹ thông
tin CẬP NHẬT: 22/02/2007 12:04:22 (GMT+7)
Hải Bằng
Trong tháng 3/2007, nhiều doanh nghiệp
nhà nước trong ngành điện, dầu khí, dệt
may, rượu bia... sẽ tiếp tục bán đấu giá cổ
phiếu lần đầu ra công chúng để thực hiện
cổ phần hóa và tiến tới niêm yết cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán.
Những cuộc đấu giá cuối năm qua cho thấy
một làn sóng ào ạt những nhà đầu tư cá nhân
muốn mua cổ phiếu bằng được mà không cần
phân tích thông tin thị trường, bản cáo bạch và
tham vấn ý kiến chuyên gia.
Cuộc đấu giá cổ phiếu của Cadivi vừa qua là
một minh chứng điển hình.
Có quá nửa các công ty chứng khoán hiện nay chưa được phép chuyển
nhượng cổ phần vốn góp của các cổ đông sáng lập - Ảnh: Việt Tuấn.
Theo một số chuyên gia tài chính, thị trường, ngành sản xuất dây và cáp
điện không “ngon ăn” như nhận xét của nhiều nhà đầu tư cá nhân mới
tham gia thị trường chứng khoán - Ảnh: Việt Tuấn.
Ngay ngày đầu tiên đăng ký tham dự đấu giá cổ phiếu của Công ty Dây và Cáp điện Việt Nam
(Cadivi) tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI), lượng người kéo đến ùn ùn làm tắc
nghẽn và chật cứng cửa ra vào của SSI (tổng cộng có 4.064 nhà đầu tư cá nhân tham gia đăng ký

đấu giá).
Trước cuộc đấu giá cổ phiếu Cadivi, đầu tháng 1/2007, Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Việt
Nam (Taya) đã công bố thông tin và giải trình nguyên nhân dẫn đến tình trạng thua lỗ trong quý IV/
2006. Rất đông nhà đầu tư cá nhân “không thèm” đoái hoài đến thông tin về Taya, bản cáo bạch
của Cadivi và sự cạnh tranh rất khốc liệt trên thị trường dây và cáp điện, họ đặt mua cổ phiếu
Cadivi với giá gấp 18 lần giá khởi điểm, có người đặt mua với giá “điên rồ” (có thể do nhầm lẫn) là
44,6 triệu đồng/cổ phiếu trong khi giá khởi điểm chỉ có 11.000 đồng/cổ phiếu.
Trong cuộc đấu giá, tất cả các nhà đầu tư là tổ chức đều không trúng do họ phân tích, đánh giá kỹ
lưỡng những thông tin và đặt mua với mức giá “vừa phải”, hứa hẹn thu lợi nhuận về lâu dài. Nhà
đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá cổ phiếu Cadivi rất ít và chỉ trúng có 16.000 cổ phiếu với giá
trúng thầu thấp nhất.
Tại sao nhà đầu tư là tổ chức không ai trúng đấu giá cổ phiếu Cadivi? Theo một số chuyên gia tài
chính, thị trường, ngành sản xuất dây và cáp điện không “ngon ăn” như nhận xét của nhiều nhà
đầu tư cá nhân mới tham gia thị trường chứng khoán.
Thị trường dây và cáp điện Việt Nam đang cạnh tranh rất quyết liệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro, điều này
có thể nhận thấy qua những thông tin sau:
Giá nguyên liệu đầu vào (chủ yếu là đồng và nhôm) thăng giáng quá thất thường là một rủi do đầu
tiên của các công ty sản xuất dây và cáp điện. Theo Công ty Taya (công ty có vốn đầu tư nước
ngoài đầu tiên lên sàn giao dịch Tp.HCM), quý IV/2005, giá đồng thế giới ở mức thấp, chỉ có 4.500
USD/tấn, quý I và II/2006 tăng đột biến, lên tới 7.200 USD/tấn, tăng 90% so với giá bình quân năm
2005, quý III/2006 tăng lên mức kỷ lục là 8.000 USD/tấn và quý IV/2006 lại đột ngột sụt còn 6.700
USD/tấn.
Theo Hội đồng Quản trị Công ty Taya, sự tăng giá nguyên liệu đồng thế giới trong thời gian qua là
do thị trường Trung Quốc thu hút nguyên liệu đồng quá lớn, lượng đồng nhập khẩu của Trung
Quốc tăng mạnh (Trung Quốc hiện chiếm 1/5 lượng tiêu thụ đồng nguyên liệu của toàn thế giới),
cộng thêm vào đó là khả năng kìm hãm giá cả và đầu cơ của các quỹ đầu tư tại các sàn giao dịch
kim loại trong nước và trên thế giới.
Hiện nay, tại Việt Nam, ngành sản xuất dây và cáp điện phải nhập khẩu toàn bộ nguyên liệu đầu
vào đồng và nhôm nên phụ thuộc rất lớn vào biến động của giá thị trường thế giới và tình trạng
đầu cơ của các quỹ đầu tư trên sàn giao dịch kim loại London, sàn giao dịch kim loại quy mô lớn

nhất thế giới.
Một rủi ro rất lớn nữa của các công ty sản xuất dây và cáp điện ở Việt Nam là thị trường ngày
càng cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty trong nước, công ty có vốn đầu tư nước ngoài và hàng
nhập khẩu từ các nước ASEAN.
Theo khảo sát sơ bộ của Cadivi, hiện nay ở Việt Nam có trên 130 nhà sản xuất dây và cáp điện
lớn, nhỏ có thể chia thành các nhóm đối thủ cạnh tranh sau: các doanh nghiệp dây và cáp điện
thuộc doanh nghiệp nhà nước và thuộc Bộ Quốc phòng khoảng 10 doanh nghiệp, gồm: Công ty
Cơ điện Trần Phú, Công ty Thiết bị điện Đông Anh, Xí nghiệp Vật liệu cách điện Hải Phòng
(Sicadi), Công ty Elmaco (Bộ Thương mại), Công ty Điện dân dụng Hà Nội (nay đổi tên là Công ty
Thiết bị kỹ thuật điện).
Phần lớn các công ty, xí nghiệp là doanh nghiệp nhà nước đều có các ưu thế rất lớn như vốn do
Nhà nước cấp, phần lớn thiết bị được chú ý đầu tư mới, có cán bộ kỹ thuật và quản lý có kinh
nghiệm thương trường.
Cho đến nay, phía Bắc có khoảng 25 cơ sở và phía Nam có trên 80 cơ sở và doanh nghiệp tư
nhân sản xuất dây và cáp điện, được đầu tư máy móc thiết bị tương đối hoàn chỉnh, năng suất
trung bình cao, điển hình là các công ty như: Công ty TNHH Tân Cường Thành, Công ty TNHH Đại
Long, Công ty TNHH Tân Nghệ Nam, Công ty TNHH Liên Đạt, Công ty TNHH Thịnh Phát, Công ty
TNHH Kiện Năng, Công ty TNHH Lioa, Công ty Cổ phần Tự Cường, Công ty TNHH Hoàng Sơn.
Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài có 14 doanh nghiệp gồm: công ty 100% vốn nước ngoài
sản xuất dây và cáp điện: Công ty Cổ phần Dây cáp điện Taya Việt Nam (Đài Loan), Công ty Cáp
điện Evertop (Đài Loan); công ty liên doanh gồm: Công ty LG-Vina, liên doanh giữa Hàn Quốc và
Công ty Điện nước lắp máy Hải Phòng; Công ty Cáp điện Deaung-Vina, liên doanh giữa Nexsan
(Hàn Quốc) và cơ khí Yên Viên; Công ty Liên doanh Nexsan-Lioa, liên doanh giữa Nexsan (Pháp)
và Công ty TNHH Lioa; Công ty Liên doanh TSC, liên doanh giữa Taihan (Hàn Quốc) và Công ty
Cổ phần Sacom...
Trên thị trường Việt Nam hiện nay còn có hàng dây và cáp điện nhập khẩu chính thức và nhập
khẩu lậu từ các nước trong khối ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines..., từ châu
Á như Hàn Quốc, Trung Quốc... Đây cũng là “đối thủ” đáng gờm của các nhà sản xuất dây và cáp
điện ở Việt Nam.
4 thách thức lớn của thị trường chứng khoán năm

nay CẬP NHẬT: 23/02/2007 10:14:01 (GMT+7)
Năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục hứa hẹn nhiều cơ hội, nhưng những
thách thức cũng không hề nhỏ.
Cơ chế chính sách chưa hoàn thiện
Rủi ro hệ thống là những rủi ro mà nhà đầu tư
không thể đa dạng hoá hay chính xác hơn là
phải chấp nhận nó. Rủi ro hệ thống bao gồm
sự thay đổi về chính sách pháp luật, chính sách
quản lý thị trường chứng khoán, quản lý dòng
vốn gián tiếp nước ngoài đầu tư vào thị trường
chứng khoán, sự thay đổi tỉ giá hối đoái...
Hiện tại, Luật Chứng khoán đã có hiệu lực
nhưng các văn bản hướng dẫn vẫn đang trong
quá trình dự thảo, các quy định quản lý về thị
trường, giao dịch còn lỏng lẻo, thể hiện nhiều
bất cập và cần phải sửa đổi phù hợp, do vậy,
chưa thể đáp ứng ngay yêu cầu về tính ổn
định, rõ ràng, minh bạch.
Trước khi kết thúc năm Bính Tuất, có một số tin
đồn về việc Ngân hàng Nhà nước dự kiến hạn
chế dòng vốn nước ngoài đầu tư vào thị trường
chứng khoán Việt Nam. Tin tức này đã khiến giao dịch chứng khoán kém sôi động, đặc biệt là khối
đầu tư nước ngoài đã có bước đi cẩn trọng hơn.
Việc hạn chế dòng vốn "đầu cơ" nước ngoài trên thị trường chứng khoán là cần thiết và quản lý
ngoại hối là việc hết sức bình thường đối với bất kỳ quốc gia nào. Dòng vốn đầu cơ có đặc điểm
lớn và thời hạn đầu tư ngắn nên khi đồng loạt rút khỏi thị trường dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ.
Hiện tại tính minh bạch của thị trường không cao, vẫn còn đó những giao
dịch bị nghi ngờ là nội gián, những lợi ích thu được từ nguồn thông tin bất
cân xứng.
Tuy nhiên việc làm như thế nào là vấn đề cần phải cân nhắc. Để thị trường phát triển bền vững,

Chính phủ cần có chính sách điều chỉnh, quản lý vĩ mô hợp lý nhằm minh bạch hoá các giao dịch.
Tuy nhiên, hiện tại tính minh bạch của thị trường không cao, vẫn còn đó những giao dịch bị nghi
ngờ là nội gián, những lợi ích thu được từ nguồn thông tin bất cân xứng.
Quy mô vượt trội
Trong năm 2006, thị trường chứng khoán là kênh đầu tư đem lại lợi nhuận cao nên đã thu hút
mạnh nguồn vốn đầu tư từ các lĩnh vực khác đổ vào mà rõ nhất là tiền gửi, bất động sản. Năm
2007 hứa hẹn quy mô thị trường cổ phiếu sẽ tăng gấp nhiều lần năm 2006.
Điều này có nghĩa là thách thức đối với nhà đầu tư "nội" là rất lớn, thể hiện trên những khía cạnh
chính:
- Rất nhiều cơ hội để xem xét đầu tư.
- Dòng vốn rất lớn sẽ chuyển sang các doanh nghiệp mới cổ phần hóa.
- Các tiêu chí đầu tư không chỉ dừng ở một số thông số cơ bản như EPS hay P/E...
- Xuất hiện các hình thức đầu tư mới không đơn thuần chỉ là đầu tư vào cổ phiếu mà còn cả các
công vụ phát sinh.
- Xuất hiện các nghiệp vụ đầu tư mới như hoán đổi, mua khống, bán khống...
"Chơi" cùng các "ông lớn"
Phần thắng thuộc về kẻ mạnh là chân lý trên thương trường nói chung và thị trường chứng khoán
nói riêng. Sức mạnh trên thị trường chứng khoán được hiểu là: vốn dài hạn lớ, nắm bắt được các
quy định pháp lý liên quan, nắm bắt được cách thức vận hành của thị trường, sự biến động giá cổ
phiếu và các tiêu chí ảnh hưởng đến giá đồng thời đánh giá được giá trị cổ phiếu mà mình đầu
tư...
Khi Việt Nam mở cửa thị trường chứng khoán, nhà đầu tư trong nước cần ý thức được sự kiện
nhà đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục đổ vốn lớn vào thị trường cùng kinh nghiệm hàng trăm năm tại
thị trường chứng khoán quốc tế. Chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với các nhà đầu tư quốc tế là
thách thức thực tế phải đối mặt.
Chất lượng nhà đầu tư "nội"
Điểm yếu nhất hiện tại là hiện tượng đầu tư, đầu cơ của các nhà đầu tư cá nhân theo phong trào
trong khi chưa trang bị cho mình những kiến thức cần thiết. Thị trường vẫn thiếu lực lượng nhà
đầu tư chuyên nghiệp, những nhà tạo lập thị trường với những kiến thức chuyên sâu, có kinh
nghiệm và am hiểu về luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán.

Từ thực tế kiến thức hạn chế, nguồn vốn đầu tư mang tính ngắn hạn, thiếu tầm nhìn dài hạn và
chuyên nghiệp thì có thể dễ dàng hiểu được sự biến động phi lý của giá chứng khoán trong thời
gian qua. Hội nhập quốc tế với những "phong trào" như vậy thì kết quả sẽ đi về đâu?
Bên cạnh những thách thức trên, có thể thấy Việt Nam vẫn rất hấp dẫn trong con mắt nhà đầu tư
nước ngoài, thể hiện ở: môi trường chính trị xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng mạnh; cam kết
hoàn thiện môi trường đầu tư của Chính phủ nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài cũng như nâng cao tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư; đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp lớn trong các lĩnh vực ngân hàng, điện lực, viễn thông...

×