Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tài liệu Bài học" lấy dân làm gốc" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.86 KB, 10 trang )

Chuyên đề 10:
Bài học “Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Bài học “Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên
thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được
đối với vận mệnh của đất nước”.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trang Di chúc
bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt nhấn
mạnh, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử
và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là
gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''. Người còn nói,
nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền hành và
lực lượng đều ở nhân dân.
Quán triệt Điều lệ Đảng và thấm nhuần sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về ''Lấy dân làm
gốc'', chúng ta càng thấm thía rằng: Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nếu Đảng xa
dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại được. Không có sự tham gia giám sát của
nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành "ông quan'', ''bà quan" cách mạng chứ khó trở
lên ''Người lãnh đạo, Người đầy tớ trung thành của nhân dân". Không có sự giám sát chặt
chẽ của quần chúng nhân dân thì tổ chức Đảng khó tránh khỏi tệ quan liêu - một trong
những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành
''Đảng lạm quyền", thậm chí còn dẫn đến thoái hóa, biến chất. Do vậy, sự giám sát cán bộ,


đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của Đảng ta. Đó là bài học ''Lấy dân làm
gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại được khi nào có khả
năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân dân. Trong những giai đoạn cách
mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi nhờ có
sự ủng hộ, che chở, bảo vệ của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các
tệ nạn xã hội, trước hết là làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục tệ
quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên
chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng thực sự tin ở
dân, dựa vào sự tham gia kiểm tra, giám sát của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tham gia giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức dảng còn là quyền và nghĩa vụ của nhân
dân đối với Đảng. Đối với một Đảng cầm quyền, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ
thống chính trị và toàn xã hội tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN. Do đó, toàn bộ cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, văn hóa của mỗi người dân
trong xã hội đều gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng có trong sạch, vững mạnh,
cán bộ, đảng viên có tiên phong gương mẫu thì mới bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, và cũng nhờ đó mà cuộc sống của nhân
dân được đảm bảo, cải thiện và nâng cao. Trái lại, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tha hóa, tổ
chức đảng không trong sạch, vững mạnh thì không chỉ làm cho tổ chức đảng bị rệu rã, dẫn
đến mắc sai lầm, thất bại mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, cuộc sống của
nhân dân. Do vậy mà việc giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng vừa là một quyền cơ
bản không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm vẻ vang của nhân dân đối
với Đảng. Nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng là một nội dung về quyền
làm chủ của nhân dân nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh và
từ đó cũng nhằm bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Dân chủ là bản chất của chế độ và của Đảng ta. Bác Hồ đã khẳng định: ''Nhà
nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân... Làm cho mọi
công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý Nhà nước".
76 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường lối chính trị được lòng

dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân ta đã kết thành một khối
vững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng ta. Ở đâu
và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích của nhân dân,
sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân
có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu
và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm
chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 20 năm thực
hiện đường lối đổi mới, với việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mở mang
dân trí, dân chủ trong xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi
dậy được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của cách mạng. Ý Đảng,
lòng dân là sức mạnh vô tận.
Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ trên
nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng tác động đến đời sống, tâm lý, tư
tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm
lý, ý thức của từng người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp
nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng;
tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh, nâng cao
được sức chiến đấu, bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự của dân, do dân, vì dân, nâng cao
được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần
xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm lấy dân làm gốc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới
bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ
mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi
dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh
hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành
phong trào quần chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn;
cán bộ đảng viên “phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc
thì nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học hỏi dân thì

không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt thành, có
quyết tâm”.
Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân
là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời
của Người là: “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”.
Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải
tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế
đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo việc nước như việc
nhà”, “phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ sao
cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.
Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải thường xuyên
chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người thường nhắc tới
những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”, “dân dĩ thực vi thiên”. Người nhắc
nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng
và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ
có lỗi. Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa học, toàn diện. Đó
là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý:
“Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa
vừa và hạng kém… Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh
đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học hỏi dân
chúng, nhưng “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”; phải “tìm ra mâu
thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai” để vận dụng.
Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người
diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng

là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề thực hiện dân chủ
với dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân chủ” và “hưởng quyền dân chủ”.
Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời
do Người đứng đầu đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông qua
bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ ý tưởng của
Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam. Quan điểm của Người trong
những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể
quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”, “Hễ
là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có quyền bãi miễn
Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp, nếu họ có tư tưởng hoặc việc làm
có hại đến nhà nước, hại đến dân.
Nhà nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà nước
của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực lượng toàn dân đoàn
kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta còn là nhà nước do dân. Bác viết:
“Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Không có lực
lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong”; “Vậy nên Chính phủ với
nhân dân phải đoàn kết thành một khối”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, [Nhà nước của dân, do dân phải được thể hiện ở các chủ
trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt đời sống xã hội là vì dân. Ngay sau khi
nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: “… nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ mãi mãi là người làm
nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của Bác về lấy dân làm gốc, chắc chắn bộ máy Nhà
nước ta sẽ “chạy” đều, hiệu quả quản lý điều hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là việc

làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn./.
Lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh
Là một xã thuần nông của huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, do vậy vấn đề
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải tạo, quy hoạch vườn tạp..., để phát triển kinh
tế luôn được lãnh đạo nơi đây trăn trở. Năm 2003, Phú Sơn đã đưa 92,85% diện tích
gieo cấy giống lúa cấp 1 vào đồng ruộng; trồng 34,5 ha sắn kết hợp với 6,5 ha lạc; lập
20,5 ha vườn trồng xoài, nhãn...
Bên cạnh đó, với kế hoạch chuyển diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang đào ao thả
cá, toàn xã hiện có 15 hồ nuôi với diện tích 1,2 ha, giúp bà con cải thiện bữa ăn, gia đình có
thêm nguồn thu.
Đời sống của nhân dân Phú Sơn đang ngày được cải thiện rõ rệt. Tính đến đầu năm 2004,
toàn xã đã không còn hộ đói, hộ nghèo giảm từ 41% (2002) còn 31,5 %; 80% hộ có nhà
kiên cố và bán kiên cố; 95,55% hộ có điện thắp sáng; Công tác giáo dục được quan tâm và
đang từng bước được nâng lên ở cả chất lượng đào tạo và điều kiện trường lớp, trang thiết
bị dạy học. Tình hình trật tự trị an trên địa bàn xã cũng được giữ vững, ổn định...
Từ một xã nghèo, lãnh đạo xã Phú Sơn đã biết khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần
đoàn kết của người dân để cùng xây dựng quê hương ngày một vững mạnh. Trong những
năm qua, chi bộ Đảng Phú Sơn đã rất chú trọng và nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng,
coi công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là động lực quan trọng nhất để phát
triển xã nhà trên mọi lĩnh vực.
Chi bộ Phú Sơn một mặt đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các đảng viên không ngừng
học tập, bồi dưỡng thêm trình độ lý luận chính trị, làm tốt công tác tư tưởng; mặt khác yêu
cầu thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo niềm tin trong lòng dân. Hiện tại,
trong chi bộ có 5 đồng chí đang theo học lớp quản lý nông nghiệp, kế toán (hệ đại học).
Trong công tác phát triển đảng viên, năm qua, có 9 quần chúng ưu tú được xã gởi đi bồi
dưỡng chính trị và trong số đó đã kết nạp được 3 đồng chí vào hàng ngũ của Đảng, xóa
được tình trạng thôn ''trắng''về đảng viên.
''Chúng tôi lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh" là khẳng định của đồng chí
Phan Viết Giáo - Bí thư chi bộ xã Phú Sơn. Thực hiện đúng nội dung Quy chế dân chủ tại
cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến

quyền lợi của người dân đều được chi bộ công khai trước dân, từ mức đóng góp cho
cácnguồn quỹ AN-QP, quỹ đền đáp, góp công của cho các công trình xây dựng cơ
bản...đến việc phân cấp đất đai cho các hộ gia đình... Ngay cả trong quá trình phát triển
đảng viên, chi bộ phải thông qua ý kiến ủng hộ quần chúng ưu tú của đa số nhân dân sở tại.
Để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của bà con, chi bộ xã Phú Sơn đã thành lập Ban
Dân vận với thành viên là những đảng viên ưu tú. Định kỳ, Ban Dân vận có những buổi
tham gia sinh hoạt trực tiếp với dân, để vừa phổ biến nội dung những chủ trương, chính
sách của Đảng đến bà con, vừa lắng nghe sự phản ánh từ phía nhân dân, kịp thời sửa đổi
những bất cập trong chỉ đạo, chấn chỉnh tư cách những đảng viên chưa gương mẫu...Nhờ
vậy, những chương trình hành động của Phú Sơn trong mọi lĩnh vực đều thống nhất với
tinh thần tự nguyện của bà con rất cao. Trong một tương lai không xa, trên nền tảng đoàn
kết của toàn Đảng, toàn dân, Phú Sơn sẽ thoát khỏi sự nghèo khó, tiến lên lớn mạnh mọi
mặt.
Phát huy truyền thống “Lấy dân làm gốc” trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng
toàn dân hiện nay
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, "Lấy dân làm gốc" là truyền
thống văn hoá chính trị của các nhà lãnh đạo, cầm quyền một lòng vì dân, vì nước. Nó
thể hiện nhất quán tư tưởng : dân là nước, còn dân thì còn nước. Đất nước có tạm thời
bị giặc ngoại xâm chiếm đóng, nhưng làng không mất, dân không mất (mất nước,
không mất làng) thì nhân dân sẽ đứng lên đấu tranh, đất nước nhất định sẽ được khôi
phục trong độc lập, tự do.

×