Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Sự hình thành chính sách đối ngoại thời kì đổi mới ( 1986)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.51 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

Bài Thảo Luận môn
QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
Giảng viên: Nguyễn Mỹ Hạnh

SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
(1986)


SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
(1986)
I Hoàn cảnh lịch su:


Tình hình thế giới từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX:

+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ.
+ Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc, Liên Xô sụp đổ, trật tự hai
cực tan rã.
+ Xu thế chung của thế giới là hoà bình, phát triển.
+ Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến
lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên
trong và đặc điểm của thế giới.
+ Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển
đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn,
kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất
kinh


doanh.
+ Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh
giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự, bằng các tiêu chí tổng hợp trong đó sức mạnh
kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
- Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó:
+ Khái niệm: Là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt
qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu. Trong đó
hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin lao động,... vận động thông thoáng ; sự phân công lao
động mang tính quốc tế ; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình
thành mạng lưới quan hệ đa chiều .
+ Tác động tiêu cực: tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và gia tăng sự phân
cực giữa nước giàu và nước nghèo.
+ Tác động tích cực: thúc đẩy phát triển sản xuất giữa các nước, mang lại lợi ích cho các
bên tham gia hợp tác, xây dựng môi trường hoà bình, hợp tác, phát triển.


Tình hính trong nước:


Lợi dụng tình hình Việt Nam - Trung Quốc ngày càng căng thẳng, Mỹ tuyên bố huỷ bo
cuộc đàm phán với Việt Nam dự định vào tháng 2-1978 và đẩy mạnh chính sách bao vây,
cấm vận đối với Việt Nam. Mỹ gắn việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ với
việc đòi quân đội Việt Nam phải rút về Campuchia, giải quyết vấn đề tù binh (POW) và
người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA). Do vậy, quan hệ giữa hai nước căng thẳng
trong suốt những năm 1980. Việc Mỹ thi hành chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam
buộc hầu hết các nước phương Tây và nhiều nước khác phải tuân theo. Tài khoản Việt
Nam tại ngân hàng nước ngoài bị đóng băng, quan hệ thương mại bị ngưng trệ trên diện
rộng khiến cho kinh tế Việt Nam vốn chưa phục hồi sau chiến tranh càng trở nên hết sức
khó khăn.
Mỹ viện trợ cho các nước Đông Nam Á, lôi cuốn các nước ASEAN chống lại Việt Nam,

phản đối Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Trung Quốc tuyên bố không ủng hộ các lực
lượng cộng sản ở Đông Nam Á. Quan hệ quốc tế của Việt Nam bị thu hẹp, hầu hết các
nước lớn (trừ Liên Xô) tiến hành bao vây, cấm vận nhằm bóp nghẹt về kinh tế, gây tình
hình không ổn định về xã hội, bao vây về ngoại giao hòng làm cho nước ta suy yếu , kiệt
quệ.
 Yêu cầu của cách mạng Việt Nam:
- Phá thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại.
- Nền kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng cần khắc phục. Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986 đã đề ra đường lối Đổi mới và quyết tâm thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng
độc lập, tự chủ và rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá.
- Chủ trương: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đề ra
yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế.
- Tháng 5-1988, Bộ chính trị ra Nghị quyết 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong
tình hình mới: chuyển cuộc đấu tranh từ đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại
hoà bình. Lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế,
kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
=> Đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối
ngoại của Đảng ta, đặt nền móng hình thành Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Định dạng những nhân tố cần tính đến trong hoạch
định chính sách đối ngoại của Việt Nam: Trong thời kỳ hội nhập toàn cầu đang diễn ra
mạnh mẽ như hiện nay, việc xem xét, hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam
cũng không nằm ngoài những nhân tố đó.
Thứ nhất, lợi ích quốc gia - dân tộc. Phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc ngày càng trở
thành nguyên tắc tối thượng cho mọi chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại của các


quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Lợi ích quốc gia là kim chỉ nam, là nguyên
tắc chỉ đạo việc hoạch định chính sách đối ngoại, chính vì vậy, mọi chính sách và hoạt
động đối ngoại của Việt Nam đều phải tính đến và phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc.

Đường lối đối ngoại đổi mới được Đảng ta đề xướng từ năm 1986, liên tục được bổ sung
và hoàn chỉnh qua các kỳ đại hội, trong đó đều khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của
lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của đất nước. Hội nghị Trung ương 3 khóa
VII (tháng 6-1992) khẳng định, mục tiêu “hòa bình và phát triển” trở thành chuẩn mực
trong hoạt động quốc tế của Việt Nam, phục vụ cho lợi ích cao nhất của dân tộc là “nhanh
chóng ra khoi khủng hoảng, giữ vững tăng cường ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập và tự do của Tổ quốc”. Trên
tinh thần đó, “công tác đối ngoại phải phục vụ lợi ích đó của dân tộc..., và coi lợi ích dân
tộc là cao nhất và thiêng liêng nhất”. Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (tháng 7-2003) tiếp
tục khẳng định: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ
quốc”. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) khẳng định mục tiêu của đối ngoại Việt Nam
trong thời kỳ mới là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh”. Văn kiện Đại hội XII đã đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất về mục tiêu
đối ngoại, đó là “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Như vậy, lợi ích quốc gia luôn
đóng vai trò trọng tâm trong việc xác định đường lối đối ngoại, hoạch định và triển khai
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Lợi ích quốc gia của Việt Nam trong đối
ngoại bao gồm hai nhóm: nhóm các lợi ích sống còn và nhóm các lợi ích phát
triển. Nhóm các lợi ích sống còn bao gồm giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia; giữ vững hòa bình với bên ngoài, bảo đảm ổn định và trật tự bên
trong; bảo đảm cuộc sống an toàn cho nhân dân; bảo đảm an ninh kinh tế của quốc gia;
giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhóm các lợi ích phát triển bao gồm không ngừng nâng cao khả
năng giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; mở rộng không gian phát triển; phát huy
bản sắc dân tộc; phát huy vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Lợi ích quốc
gia của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi để
phát triển, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phục vụ công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại của Việt Nam

thời gian tới cần phục vụ hiệu quả hơn các lợi ích của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế. Trong quá trình hoạch định chính
sách đối ngoại, mọi quốc gia trên thế giới đều cân nhắc và xem xét yếu tố thế và lực của
quốc gia mình. Chính sách đối ngoại được xây dựng trên cơ sở không những phải phù
hợp với lợi ích của quốc gia, mà còn phải tương thích với vị thế và sức mạnh tổng hợp
của đất nước. Xem xét thế và lực của quốc gia là điều cần thiết khi hoạch định chính sách
đối ngoại của Việt Nam trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Ở những giai đoạn khác


nhau, vai trò và vị thế của Việt Nam ở khu vực và toàn cầu sẽ khác nhau, do vậy, việc
hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của nước ta cũng sẽ khác nhau.
Thứ ba, cục diện thế giới và khu vực. Bên cạnh các nhân tố bên trong, các yếu tố bên
ngoài, như cục diện thế giới và khu vực cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến quá
trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của mọi quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển hoàn toàn biệt lập
với thế giới bên ngoài, ngược lại, mọi quốc gia đều chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp từ các nhân tố bên ngoài và môi trường xung quanh. Trong thời đại toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, sự liên kết giữa các quốc gia ngày càng
trở nên chặt chẽ, hợp tác ngày càng gia tăng, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
ngày càng sâu rộng.
II Quá trình hình thành và phát triển chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam
giai đoạn 1986-1995.
Trong giai đoạn 1986-1995 đường lối đối ngoại được triển khai qua 2 bước:
Bước 1: Giải toa các mối quan hệ láng giềng (1986-1991).
Bước 2: Xúc tiến việc chuẩn bị hội nhập khu vực và quốc tế.

-

-


-

-

-

Trong bước 1 :
Chìa khóa để tháo gỡ tình hình căng thẳng ở khu vực là giải quyết vấn đề
Campuchia với hai điều kiện: loại bo lực lượng Khơme Đo và rút hết quân tình
nguyện Việt Nam khoi Campuchia.
Quá trình giải quyết vấn đề diễn ra trên ba tầng nấc đan xen nhau:
1 Nội bộ các phái ở Campuchia.
2 Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc.
3 Sự tham gia của năm nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (gọi
tắt là P.5)
Tuy có sự tác động, chi phối lẫn nhau tạo nên khung cảnh sôi động trên trường
quốc tế, song vai trò quyết định lại thuộc về sự tham gia của năm nước thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Cuộc họp tháng 7-1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa hai Bộ trưởng ngoại giao
Việt Nam và Inđônêxia là bước khởi động có tính thăm dò để ra khoi chế độ đối
đầu giữa hai khối ở Đông Nam Á (Đông Dương và ASEAN). Ba tháng sau, cuộc
gặp giữa Hun Sen và Sihanouk ở Paris mở đầu tiến trình hòa giải và hòa hợp dân
tộc ở Campuchia. Những cuộc gặp không chính thức giữa bốn phái Campuchia tại
Jakarta (Jakarta Informal Meeting: JIM 1-7-1988, JIM 2-2-1989) cùng với các
cuộc gặp giữa Hun Sen và Sihanouk đã tạo không khí thuận lợi cho việc giải quyết
vấn đề ở Campuchia.
Cùng với đó đã xuất hiện những dấu hiệu hòa dịu:


+ Tháng 12 – 1987, Tổng thống Philippin tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe

dọa, không chống việc Việt Nam gia nhập ASEAN.
+ Tháng 8 – 1988 , Thủ tường Thái Lan tuyên bố muốn “ biến Đông Dương từ
chiến trường thành thị trường”;
+ Tháng 11 – 1990, Tổng thống Inđônêxia là vị tổng thống đầu tiên của một nước
ASEAN đến thăm Việt Nam.
-

-

-

-

-

Việc cải thiện quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc có ý nghĩa quyết định
đối với các giải pháp trong khu vực.
Việc Việt Nam rút quân khoi Campuchia được coi như điều kiện tiên quyết để giải
quyết vấn đề quyền lực chính trị ở Campuchia (với sự tham gia của Khome đo) và
bình thường hóa quan hệ Việt Trung.
Từ năm 1982, hằng năm, Việt Nam rút một bộ phận quân đội về nước. Tổng Bí
thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh công bố quyết định Việt Nam sẽ
rút toàn bộ quân đội khoi Campuchia vào 9-1989. Việc đó phải được tiến hành
song song với việc chấm dứt sự viện trợ của nước ngoài, chấm dứt việc sử dụng
lãnh thổ nước ngoài chống Campuchia, đặt dưới sự kiểm soát quốc tế. 26-9-1989
Việt Nam hoàn tất quá trình rút quân, lý do đòi Việt Nam rút quân không còn là cái
cớ để kéo dài tình hình căng thẳng trong khu vực.
Sau sự kiện Việt Nam rút quân, hoạt động của P.5 trở nên khẩn trương hơn. Với
sáu phiên họp từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1990, giải pháp khung về chính trị ở
Campuchia đã được thoa thuận. 23-10-1991, Hiệp định Paris về Campuchia được

ký kết, ngòi nổ của tình hình Campuchia được tháo gỡ. Tình hình khu vực Đông
Nam Á đi dần vào ổn định.
Nhìn lại chặng đường 20 năm của Campuchia sau Hiệp định Paris (1923-2013),
với sự giúp đỡ của Việt Nam, những mục tiêu cơ bản đã được thực hiện: chế độ
diệt chủng cùng lực lượng Khơme Đo đã tan rã, không thể quay trở lại; chính
quyền nhân dân mặc dầu có nhiều thay đổi nhưng vẫn đứng vững với vai trò chủ
đạo của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP); kinh tế - xã hội được hồi sinh và phát
triển; vị thế quốc tế của Vương quốc được nâng cao, góp phần vào hòa bình, hợp
tác và phát triển khu vực.
Trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc , qua nhiều vòng đàm phán cấp thứ trưởng
diễn ra lần lượt ở Bắc Kinh và Hà Nội (1975-1990), việc bình thường hóa quan hệ
tiến triển rất chậm chạp, có lúc ngưng trệ. 9-1990 cuộc gặp cấp cao không chính
thức ở Thành Đô (Trung Quốc) bước đầu cải thiện quan hệ, đến 5-11-1991 tại Bắc
Kinh hai bên ký Tuyên bố về việc bình thường hóa quan hệ Việt-Trung. Đây là
bước khởi động rất quan trọng để tái lập và phát triển quan hệ bình thường giữa
hai nước.


Cùng với tiến trình trên, quan hệ Việt Nam-Hoa kỳ bắt đầu khởi động lại. Tháng
7-1990, Ngoại trưởng Mỹ Baker tuyên bố Mỹ thừa nhận Việt Nam đã rút quân
khoi Campuchia, sẵn sàng thảo luận với Việt Nam và nhà nước Campuchia để thúc
đẩy giải pháp cho vấn đề Campuchia. Tháng 8-1990, đại biểu Việt Nam và Mỹ
tiến hành đàm phán tại NewYork, tháng 4-1991 đề ra lộ trình bình thường hóa
quan hệ giữa hai nước. Tháng 4-1992, Hoa Kỳ nới long lệnh cấm vận đối với Việt
Nam.
- Tháng 11-1990, quan hệ giữa Việt Nam với Cộng đồng châu Âu (EC) được chính
thức thiết lập.
- Tháng 12-1987, Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đánh
dấu bước đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại, tạo nên sự chuyển biến quan trọng
trong việc thu hút đầu tư nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ vào Việt Nam.

• Trong bước 2:
- Được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam (và Lào) tham gia Hiệp ước Bali vào tháng
7-1992. Điều đó có nghĩa hai bên ASEAN và Đông Dương bắt đầu chấp nhận
nhau, Việt Nam và Lào được coi như thành viên không chính thức, hưởng quy chế
quan sát viên.
- Trong thời gian 1992-1995 đã diễn ra nhiều cuộc đi thăm lẫn nhau của các vị
nguyên thủ quốc gia, nhà ngoại giao, quan chức cấp cao, nhà khoa học, nhà báo,
doanh nhân và nhiều tổ chức xã hội khác làm cho các bên hiểu nhau hơn, xóa bo
đần nghi ngại do những năm Chiến tranh lạnh kéo dài để lại.
- Đặc biệt, trong chuyến thăm Xingapo tháng 10-1993, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã
tuyên bố Chính sách 4 điểm mới của Việt Nam đối với Đông Nam Á; “Việt Nam
chủ trương tăng cường hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với
ASEAN vào một thời điểm thích hợp.” Thái đội thiện chí của Việt Nam đã được
đón nhận, tháng 7-1994 Hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN họp ở Bangkok đã
quyết định chấp nhận Việt Nam gia nhập ASEAN.
- Quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN cũng được thiết lập trong các lĩnh
vực giáo dục đại học (SEAMEO), nghiên cứ về khoa học xã hội và nhân văn, văn
hóa, thể thao (SEAGAME),…
- Quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước châu Âu được khôi phục và mở
rộng. Chuyến thăm của Tổng thống pháp F.Miterand (tháng 2-1993) đã mở đầu
những chuyến thăm tiếp sau của các vị nguyên thủ nhiều nước châu Âu đến Việt
Nam. Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và nhiều quan chức cấp cao nước ta cũng
đến các nước châu Âu, làm việc với EU để tăng cường mối quan hệ với các đối tác
nhiều tiềm năng ở đây.
- Quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có nhiều bước tiến rõ rệt. Ngày 3-2-1994,
Tổng thống B.Clinton ra lệnh bãi bo hoàn toàn lệnh cấm vận đối với Việt Nam và
-


lập cơ quan liên lạc giữa hai nước. Đây là một bước tiến đáng kể, thúc đẩy nhanh

việc thực hiện lộ trình bốn giai đoạn.
 Như vậy, qua gần mười năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã
đi được một bước khá dài, đầy trắc trở trên con đường hội nhập quốc tế. Phải hóa
giải các mối quan hệ đối ngoại mà tâm điểm là vấn đề Campuchia, từ đó, tháo gỡ
dần những vướng mắc các nước Đông Nam Á, các nước láng giềng, nhất là với
Trung Quốc, Hoa Kỳ và các tổ chức khu vực. Cuối cùng bài toán đối ngoại của
Việt Nam đã đem lại kết quả vào tháng 7-1995:
- 11-7 thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ
- 17-7 ký Hiệp định khung Việt Nam – EU
- 28-7 Việt Nam gia nhập ASEAN
 Từ đây Việt Nam có điều kiện mở rộng các hoạt động trên trường quốc tế với vị
thế một quốc gia độc lập có chủ quyền, đồng thời với tư cách là thành viên của tổ
chức ASEAN.
III Nội dung định hướng đối ngoại trong đại hội VI
Đại hội VI (tháng 12 – 1986) là đại hội đổi mới. Đảng bước đầu vạch ra chính sách mở
cửa và hội nhập quốc tế. Sau đó, vấn đề đối ngoại được tiếp tục đề cập trong Nghị quyết
13 của Bộ Chính trị (năm 1988) , Nghị quyết 6 của Trung ương (năm 1989) và được
khẳng định tại Đại hội lần VII (năm 1991) . Những ý tưởng cơ bản dần dần được hình
thành và hoàn thiện, có thể tóm tắt trong mấy điểm sau đây:
Xác định rõ xu hướng phát triển của thời đại, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng
quan hệ với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội
khác nhau.
Củng cố và giữ vững hòa bình, tạo điều kiện và môi trường thuân lợi để đất nước
phát triển trong thế ổn định.
- Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập về kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng
có lợi.
- Kết hợp chính sách kinh tế cởi mở với sách lược ngoại giao mềm dẻo để phá thế
bao vây, cấm vận về kinh tế đối với nước ta.
 Trên tinh thần đó, tại đại hội lần thứ VII (tháng 6 – 1991 ) Đảng cộng sản Việt

Nam tuyên bố : “ Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển .”
-

Đại hội lần VI và lần VII của Đảng đã xác lập đường lối đổi mới trong quan hệ đối ngoại,
mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế, giải toa tình trạng bị bao vây, cô lập, lần lượt thiết lập
quan hệ với nhiều nước, gia nhập ASEAN, từng bước nâng cao vị thế quốc gia trên chính
trường thế giới.


IV Những thành tựu và hạn chế của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đổi mới trong chính sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi
lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt:
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước;
đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm
chính trị - kinh tế lớn trên thế giới.
Việt Nam đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen
lợi ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với
Lào không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu
quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp
tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ
các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn
toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã
ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định
giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong
vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực,
góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác
nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc

tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền
thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các
nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể
hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta. Đồng thời, Việt Nam đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các
nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các
nước bạn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc. Mặc dù
chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của các bên, song kim ngạch buôn bán và
đầu tư giữa ta và các nước này đã và đang có những phát triển tích cực.
Không những thế, Việt Nam cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng
có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai
nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác trên nhiều
lĩnh vực với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Với Mỹ, hai nước đã
xác lập khuôn khổ "quan hệ hữu nghị, đối tác xây dựng, hợp tác nhiều mặt, ổn định, lâu
dài trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi". Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan
hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu,
nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch,
chuyển giao công nghệ. Các nước này hiện đã trở thành những đối tác và thị trường hàng


đầu
của
ta.
Triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt
Nam đã tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của
ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA);
là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO).

Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển đất
nước thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Bằng những việc làm trực
tiếp, cụ thể, hoạt động đối ngoại đã phục vụ cho việc hoạch định chính sách kinh tế, đặc
biệt là công tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư, mở
rộng các thị trường buôn bán, lao động, du lịch; tham gia giải quyết vướng mắc trong
quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với các
mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam tại
các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM,
Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan
hệ đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên
trường quốc tế; đồng thời đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới bảo
vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức,
Đảng ta khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không
thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cụ thể theo
hướng xóa bo ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo
điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào
hội nhập với nước sở tại.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc
tế cũng bộc lộ những hạn chế:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa
xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan
hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa, hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây
khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc tế.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ
trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.



Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nho, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các
ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao
bơn các nước khác trong khu vực.
Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nói chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng
và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh
doanh.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, như: "Công tác nghiên cứu, dự báo chiến
lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao
của nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa đối
ngoại chưa thật đồng bộ".
V Mục tiêu, nguyên tắc và phương châm đối ngoại của Đảng ta hiện nay
Kế thừa những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại qua các kỳ đại hội trước, Đảng ta
đã phát triển và có những bổ sung quan trọng về đường lối đối ngoại trong giai đoạn mới.
Tại Đại hội XII của Đảng, lần đầu tiên nhiệm vụ đối ngoại được nêu như một thành tố
của chủ đề Đại hội, khẳng định tầm quan trọng của đối ngoại trong tổng thể đường lối
phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong những năm tiếp theo. Bên cạnh bốn thành tố là sự lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, sức mạnh toàn dân tộc, công cuộc đổi mới và mục tiêu
xây dựng đất nước tại Đại hội XI, chủ đề của Đại hội XII đã bổ sung thêm thành tố thứ
năm là “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”. Bước phát
triển mới này đã khẳng định hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ
quốc và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, chính sách và các hoạt động đối ngoại
của Việt Nam trong thời kỳ mới sẽ nhằm triển khai hai nhiệm vụ trên.
1 Về mục tiêu đối ngoại:
Đại hội XII chỉ rõ “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định
lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam
được xác định trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi. Đồng thời, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của

mọi hoạt động đối ngoại, mọi chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt Nam phải phục
vụ mục tiêu bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc.
Mục tiêu đối ngoại là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công
cuộc đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


+ Tranh thủ các nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn,
công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ…
+ Nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
+ Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới
2 Nguyên tắc đối ngoại:
+ Bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
+ Bốn nguyên tắc cụ thể trong hoạt động đối ngoại là: tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng
hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
3 Phương châm đối ngoại:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá mối
quan hệ quốc tế.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
- Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước
+ Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc

văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
+ Phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội,
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+ Cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của quá trình hội
nhập.


+ Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù họp với trình độ phát triển của đất nước, vừa
đáp ứng những quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia.
+ Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc
phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những âm mưu thông
qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình.
Tóm lại, đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là sự kế
thừa những nội dung chính của đường lối đối ngoại tại những kỳ đại hội trước, đồng thời
có những bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện và tình hình mới ở trong nước, khu
vực và trên thế giới. Quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Việt
Nam trong thời kỳ mới phải phục vụ tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc, tuân thủ những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, dựa trên thực lực và vị thế của quốc gia, phù
hợp với tình hình và xu thế phát triển của khu vực và thế giới.

KẾT LUẬN
Trong hơn 30 năm đổi mới, nhất là trong 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã không ngừng mở rộng
và tăng cường quan hệ đa dạng với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới,
tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế của các Đảng Cộng sản và công
nhân, các đảng cánh tả và các chính đảng ở châu Á. Từ chỗ chỉ có quan hệ với các Đảng
Cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả theo khuynh hướng cách mạng, giải phóng dân
tộc là chủ yếu, Đảng ta đã chủ động mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, các đảng
tham chính. Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ ở các mức độ khác nhau
với trên 200 đảng ở 115 nước khắp các châu lục; trong đó có trên 100 Đảng Cộng sản và

công nhân, hơn 40 đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham gia Quốc hội - Nghị viện các
nước. Đồng thời, Đảng ta cũng thường xuyên tham gia và tham gia có hiệu quả các diễn
đàn đa phương chính đảng như: Cuộc gặp quốc tế hàng năm của các Đảng Cộng sản và
công nhân trên thế giới (IMCWP); Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP);
Diễn đàn Sao Paulo của các đảng cánh tả....
Đây là kết quả của quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có tư duy đối ngoại là hoàn toàn đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại hiện nay.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng chính trị trên thế
giới trong tình hình hiện nay là đúng đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận và cổ
vũ cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành
thắng lợi.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và kinh
nghiệm 30 năm đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, cơ


hội rất lớn và thách thức cũng không nho. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng qua các
kỳ Đại hội nhất là Đại hội XII đã thể hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ thống với tầm cao
mới. Chúng ta tin tưởng rằng, với kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng và đặc biệt
trong 30 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy
sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta sang một bước ngoặt mới. Thực
hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và
hội nhập quốc tế của nước ta sẽ đạt được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững môi trường hòa
bình và phát huy ngoại lực sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại; thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. Vũ Dương Ninh, Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 – 2010, NXB.

Chính trị quốc gia.

2. Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới,
/>3. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối, />
4. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
/>
Nguyễn Phương Thanh (18031965)
Trần Trung Hậu (18031899)
Đinh Văn Quân (18031960)
Trần Thị Ngọc Trâm (18031976)

Tìm tài liệu, thực hiện phần I
Tìm tài liệu, thực hiện phần II, III
Tìm tài liệu, thực hiện phần IV, làm word
và powerpoint
Tìm tài liệu, thực hiện phần V và Kết
Luận



×