Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Cơ sở lý luận của việc hình thành chính sách TCXH và hệ thống ASXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.32 KB, 31 trang )

Cơ sở lý luận của việc hình thành chính sách TCXH và hệ thống ASXH
_______________
1.1. Chính sách của nhà nước
1.1.1. Quan niệm chính sách
Chính sách của nhà nước là tổng thể các quan điểm, chuẩn mực, biện
pháp, thủ thuật mà nhà nước sử dụng để tác động lên xã hội nhằm đạt được
các mục tiêu quản lý xã hội cụ thể nào đó một cách tốt nhất sau một thời gian.
Chính sách của nhà nước là sự cụ thể hoá các ý đồ quản lý của nhà nước, nó
phải tuân thủ theo.
Chính sách là một trong những công cụ, phương tiện quản lý của nhà
nước để tác động lên xã hội nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đề ra. Chính
sách được cụ thể hoá trong hệ thống văn bản luật pháp, các chương trình
phát triển kinh tế xã hội, các dự án và các giải pháp, biện pháp can thiệp trực
tiếp vào các nhóm đối tượng tác động cụ thể.
1.1.2. Nguyên tắc xây dựng chính sách
Việc xây dựng, thực hiện các chính sách của nhà nước cần tuân thủ các
nguyên tắc sau:
1) Đảm bảo tính khách quan, tránh tuỳ tiện duy ý chí
2) Đảm bảo tính chính trị, phải thể hiện được quan điểm ý đồ của Đảng
và nhà nước
3) Phải có tính hệ thống, bảo đảm cho các chính sách kết hợp thành một
hệ thống hoàn chỉnh, chặt chẽ
4) Phải có tính thực tiễn, bảo đảm cho các chính sách đưa ra phải được
cuộc sống chấp nhận và trở thành hiện thực
5) Phải đạt hiệu quả, đòi hỏi chính sách đưa ra phải đem lại hiệu lực và
kết quả cao nhất trong khả năng cho phép.
1.1.3. Đánh giá hiệu quả chính sách
Chính sách của nhà nước khi ban hành và tổ chức thực hiện cần phải
được phân tích và đánh giá hiệu quả. Việc đánh giá chính sách bao gồm các nội
dung sau:
- Đánh giá về mục tiêu của chính sách.


- Đánh giá phạm vi bao phủ, đối tượng hưởng lợi của chính sách.
- Đánh giá về sự tác động của chính sách đối với nhóm hưởng lợi và đối
với nền kinh tế, văn hoá xã hội (tác động trực tiếp và tác động gián
tiếp).
- Đánh giá về thể chế tài chính và tính bền vững của chính sách.
- Đánh giá về hệ thống tổ chức thực hiện.
- Đánh giá về hệ thống theo dõi giám sát thực hiện cuả chính sách.
Từ kết quả đánh giá rút ra những kết luận về hiệu quả, tác động tích cực
và tiêu cực cảu chính sách, những hạn chế cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp.
1.2. Hệ thống ASXH Việt Nam
1.2.1. Quan niệm hệ thống ASXH
Việc định nghĩa ASXH phụ thuộc vào cánh tiếp cận của mỗi tổ chức, học
giả nghiên cứu hoặc quốc gia. Trên thế giới có nhiều tổ chức, hoạc giả đã đưa
ra định nghĩa ASXH. Khái quát cụ thể một số khái niệm như sau
1
:
Trong cuốn ASXH từ bác ái đến công bằng, năm 1971, J.M. Romanyshyn
cho rằng: ASXH là sự can thiệp vào xã hội với mối quan tâm trực tiếp và cơ bản
là sự phát huy vai trò xã hội cho cá nhân và cho toàn xã hội... Nói cách khác
ASXH là các biện pháp, quá trình liên quan đến việc giải quyết và phòng ngừa
các vấn đề xã hội tác động đến con người, sự phát triển tài nguyên nhân lực và
cải tiến chất lượng cuộc sống.
1 Trích dẫn các khái niệm v tác già ả từ Báo cáo kết quả nghiên cứu đề t i " à Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù
hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Viện Khoa học xã hội Việt Nam (Dự án đánh giá
20 năm đổi mới), năm 2005- 2006.
B.R. Compton, năm 1980 trong cuốn Nhập môn ASXH và công tác xã hội
quan niệm: ASXH là một thiết chế bao gồm các chính sách và luật pháp được
thực thi bởi các tổ chức tự nguyện hay tổ chức nhà nước nhằm cung ứng cho
các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội các dịch vụ xã hội, tiền và quyền lợi khác (y

tế, giáo dục, nhà ở...), do họ không nhận được từ thị trường nhằm mục đích
ngăn ngừa, giảm nhẹ hay đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện
trực tiếp cuộc sống cá nhân, nhóm, cộng đồng.
Karger và Soesz, trong nghiên cứu năm 1990 đưa ra khái niệm: ASXH là
những quy định về trợ giúp cho những người cần tới sự trợ giúp để đáp ứng
nhu cầu cơ bản trong cuộc sống như: Việc làm, thu nhập, lương thực, thực
phẩm, y tế và mối quan hệ xã hội.
Dinikito, năm 1991 định nghĩa ASXH là bất cứ điều gì nhà nước quyết
định làm, hoặc không làm có liên quan đến vấn đề xã hội, mà tác động đến chất
lượng cuộc sống của công dân nước đó.
T.S Darkwa, trường tổng hợp Illinois, Chicago, năm 1993 cho rằng:
ASXH là những khoản trợ cấp và các dịch vụ giúp cho con người đáp ứng nhu
cầu cơ bản " hay "là sự chuyển dịch các phúc lợi bên ngoài thị trường.
Năm 1993, Dolgilf Feldstein quan niệm: ASXH là chức năng phi lợi
nhuận của xã hội, nhà nước và giới tình nguyện nhằm mục đích xoá bỏ sự đói
rách, những tình cảnh bần cùng hoá của xã hội.
Karger & Soesz, Năm 1994, đưa ra quan niệm “ASXH là một bộ phận cấu
thành của chính sách xã hội được coi là chính thức và là sự quy định phù hợp
với những vấn đề của con người".
Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), năm 2004, trong báo cáo xây dựng
chỉ số ASXH cho giảm nghèo đã định nghĩa: ASXH là tập hợp các chính sách và
chương trình được thiết kế để giảm nghèo đói và tính chất dễ bị tổn thương
bằng cách nâng cao hiệu quả của thị trường lao động, giảm bớt khả năng mắc
phải rủi ro của con người và nâng cao khả năng của họ để tự bảo vệ mình
trước những mối nguy hiểm và gián đoạn/mất thu nhập
2
. Khái niệm này của
Ngân hàng phát triển châu á (ADB) tiếp cận theo hướng xây dựng các giải
pháp, biện pháp, chính sách nhằm can thiệp, tác động và điểu chỉnh nền kinh tế
hướng cho giảm nghèo của các quốc gia.

Ở nước ta, thuật ngữ "An sinh xã hội" được dịch từ định nghĩa "Social
Protection" (Bảo trợ xã hội) cụ thể: ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với công
dân thông qua các biện pháp công cộng nhằm giúp họ khắc phục những khó
khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập từ những nguyên
nhân khác nhau (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, già cô
đơn, TEMC…), đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và các khoản trợ cấp thiết
yếu”
3
.
Có sự khác nhau về phương pháp tiếp cận định nghĩa ASXH giữa các tổ
chức quốc tế và các quốc gia. Nhận xét chung cho thấy các khái niệm đều nặng
về giải thích ngữ nghĩa của từ và còn trừu tượng. Điều đặc biệt là phạm vi
định nghĩa rộng, gồm nhiều lĩnh vực xã hội (Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm
y tế (BHYT), trợ giúp xã hội (TGXH), CTXH cộng đồng, trợ giúp mất việc làm,
thất nghiệp, tín dụng vi mô nhỏ, quyền trẻ em và phụ nữ v.v..).
Tổng hợp các quan niêm trên và từ thực tiễn của nước ta có thể đưa ra
định nghĩa về hệ thống an sinh xã hội như sau: An sinh xã hội, hay hệ thống an
sinh xã hội là tập hợp các giải pháp, biện pháp về mặt xã hội được nhà nước
thiết kế song song với hệ thống chính sách kinh tế để bảo vệ cho dân cư có khả
năng ngăn chặn, phòng ngừa và khắc phục được các khó khăn trong cuộc sống
do các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Như vậy, hệ thống ASXH có đặc điểm sau:
- ASXH là những chính sách, hệ thống luật pháp của nhà nước, một mặt
trực tiếp thực hiện các chức năng trợ giúp và quản lý xã hội trên phạm vi
2 Ngân h ng phát trià ển Châu á, Báo cáo xây dựng chỉ số ASXH cho giảm nghèo, năm 2004
3 Từ điển Bách khoa Việt Nam to n tà ập, năm 1995
quốc gia, mặt khác tạo môi trường pháp lý để mọi cá nhân, tổ chức hoạt động,
bảo đảm sự an sinh của mọi người dân.
- ASXH là những hoạt động hàng ngày của cá nhân, gia đình, cộng đồng,
các tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện, các tổ chức kinh tế, của nhà nước nhằm

phát triển kinh tế, phòng ngừa rủi ro, tổ chức các dịch vụ y tế, giáo dục.
1.2.2. Cấu trúc hệ thống ASXH
Có nhiều cách tiếp cận phân tích khác nhau để đánh giá về hệ thống
ASXH. Tuỳ vào mục đích, phương pháp nghiên, yêu cầu, nội dung xác định phân
tích hệ thống phù hợp. Việc phân tích các hợp phần của hệ thống ASXH chỉ có tính
tương đối, mỗi hợp phần mang những đặc tính chung và riêng.
1.2.2.1. Chia theo chức năng của hệ thống
- Các chương trình, chính sách phòng ngừa rủi ro: Vai trò của tầng chính
sách này là can thiệp mạnh vào toàn bộ dân cư (độ bao phủ 100% dân số)
trong vùng lãnh thổ, quốc gia. Nội dung của hợp phần này là các chính sách,
giải pháp giúp cho tất cả mọi người có thể phòng ngừa rủi ro một cách tốt
nhất để họ tránh được những rủi ro trong cuộc sống. Hệ thống này của cả quốc
gia thường là các chương trình, giải pháp tầm vĩ mô. Cụ thể như các chương
trình về hình thành thị trường lao động, phòng ngừa rủi ro tài chính, phòng
ngừa thiên tai, chiến tranh, ngăn chặn chiến tanh xung đột vũ trang... Để
phòng ngừa rủi ro tốt thì cần thiết lập hệ thống thông tin dự báo về thiên
nhiên, thông tin thị trường.
- Các chương trình chính sách giảm thiểu rủi ro: Đây là tầng thứ hai của
hệ thống ASXH, tầng này quan trọng khi có những rủi ro xẩy ra. Các giải pháp
thực hiện của tầng này bao gồm cả các chính sách và giải pháp vĩ mô và vi mô.
Đối tượng độ bao phủ của tầng chính sách này hẹp hơn so với phòng ngừa rủi
ro. Chủ yếu là nhóm dân cư đã và dang chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
của rủi ro, như: Người tàn tật, người già, trẻ em, phụ nữ; dân tộc thiểu số,
người thất nghiêp, mất việc làm, người thu nhập thấp (không đủ sống)...
- Các chương trình, chính sách khắc phục rủi ro: Tầng dưới cùng của hệ
thống ASXH là hệ thống lưới an toàn xã hội (hoặc lưới ASXH). Hệ thống lưới an
toàn xã hội được ví như tấm lưới có vai trò “hứng” và làm cho người dân bật
trở lên khỏi những tình trạng đặc biệt khó khăn. Yêu cầu của tầng chính sách
này là không phải là cái phao để mọi người dân “bám” mãi vào đó để sống
mà chỉ là nơi “hứng” và “bật” người ta trở lại với cuộc sống tích cực hơn. Với

mục đích như vậy, hệ thống lưới này không bao gồm các chính sách, chương
trình trợ giúp ngắn hạn và trung hạn. Hệ thống này có tác động rất tốt trong
những trường hợp gặp phải tình huống biến động của nền kinh tế, xã hội như
khủng hoảng kinh tế, thiên tai diện rộng v.v. Tầng này có tác động đối với tất
cả các quốc gia, và nhất là các nước đang phát triển, chưa xây dựng được hệ
thống phòng ngừa rủi ro.
- Hệ thống tổng hợp (thực hiện cả 3 chức năng): Hệ thống tổng hợp
chức năng được đánh giá là hữu hiệu nhất và đang là định hướng phát triển
cho tất cảc các quốc gia. Hệ thống ASXH được chia thành các bộ phận trong đó
có một bộ phận là xương sống của toàn bộ hệ thống ASXH quốc gia. Cơ chế
hình thành ngân sách của bộ phận chính phải dựa trên cơ sở là thu của người
tham gia và chi cho các nội dung hỗ trợ. Độ bao phủ của bộ phận chính này
hướng tới 100% dân số, mức độ thể chế cũng phải là bắt buộc mọi người phải
tham gia. Bộ phận chính này cũng đảm bảo thực hiện đủ cả 3 chức năng là
phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Thiết kế theo hướng như
vậy tạo ra sự ổn định lâu dài của hệ thống ASXH quốc gia. Nước ta cũng đang
phát triển và hình thành bộ phận chính là hệ thống BHXH. Tuy nhiên, hệ thống
BHXH chưa thật sự được phát triển, mức độ bao phủ của hệ thống chính sách
mới đảm bảo ảnh hưởng tới khoảng 10% dân số, nguồn quỹ thu chưa ổn định,
còn phụ thuộc vào ngân sách của nhà nước.
Với phân chia hệ thống ASXH theo chức năng thì TCXH sẽ là một trong
những nội dung quan trọng thực hiện đồng thời hai chức năng là chức năng
giảm thiểu rủi ro và chức năng khắc phục rủi ro. Chính sách TCXH thực thực
hiện đối với những người gặp phải các rủi ro không có sức lao động, không có
thu nhập và không có nguồn sống. Nhưng đồng thời giảm thiểu rủi ro đối với
những người thân, hộ gia đình khi cần phải chăm sóc người cao tuổi, người
tàn tật, trẻ em khó khăn, người nhiễm HIV/AIDS... Do vậy TCXH đồng thời thực
hiện cả hai chức năng là giảm thiểu rủi ro và khác phục rủi ro.
1.2.2.2. Chia theo nội dung của từng hợp phần và đối tượng tham gia
Cấu trúc này được hình thành trên cơ sở các nhu cầu của các quốc gia

và mô hình hệ thống chính sách xã hội và các dịch vụ xã hội. Dựa trên cơ sở
phân đoạn các nhóm dân cư tham gia hưởng lợi (khách hàng) của các nhóm
chính sách phân chia thành các trụ cột chính sách. Sự phát triển của các trụ
cột chính sách phụ thuộc vào thực trạng kinh tế xã hội và đòi hỏi của từng
quốc gia. Hệ thống ASXH theo cấu trúc này bao gồm:
+ Hệ thống bảo hiểm xã hội: trong đó bao gồm các chế độ bảo hiểm xã
hội dài hạn (hưu trí) và các chế độ ngắn hạn,
+ Hệ thống BHYT.
+ Bảo hiểm thất nghiệp và thị trường lao động.
+ Trợ giúp xã hội và ưu đãi xã hội.
+ Hệ thống các chương trình, dự án vi mô.
+ Quyền trẻ em và phụ nữ.
+ Khắc phục chiến tranh.
Với cách phân chia này thì trợ cấp xã hội là một trong những nội dung
chính của trợ giúp xã hội.
1.2.2.3. Chia theo người cung cấp dịch vụ
Nếu phân chia hệ thống ASXH theo cấu trúc cung cấp thì ASXH chia
thành hai cấu phần đó là:
 Dịch vụ xã hội do nhà nước cung cấp: Đối với những dịch vụ do nhà nước
cung cấp đi theo hướng phi lợi nhuận và không thương mại hoá.
 Dịch vụ do cộng đồng và các cá nhân cung cấp: Đối với dịch vụ xã hội do
thị trường cung cấp (cộng đồng) cần đi theo hướng thương mại.
Phát triển theo hai hướng này sẽ giải quyết tốt mối quan hệ giữa vai
trò quản lý điều tiết của nhà nước và điều tiết của thị trường. Thương mại hoá
một số lĩnh vực dịch vụ xã hội tạo điều kiện để nâng cao chất lượng dịch vụ và
giảm gánh nặng cho nhà nước và thực hiện xã hội hoá các vấn đề.
1.2.2.4. Chia theo thời gian, không gian
Theo thời chia hệ thống ASXH thành các chương trình chính sách dài
hạn, trung hạn và ngắn hạn. Thì các chương trình dài hạn có vai trò quan
trọng, giải quyết cả 3 nội dung là phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro.

Tuy nhiên, không phải quốc gia nào khi xây dựng các chương trình chính sách
hướng cả vào dài hạn. Trong ngắn hạn khi chính sách dài hạn chưa phát huy
tác dụng, hoặc chưa bao phủ cả hệ thống thì cần thiết phải có những giải pháp
trung hạn và ngắn hạn. Bên cạnh đó do các yếu tố tác động rủi ro là bất ngờ,
hay những thách thức, vấn đề bức xúc của xã hội cũng chỉ xẩy ra ở những thời
kỳ nhất định... Chính vì vậy mà đôi khi các chương trình chính sách trung hạn
và ngắn hạn rất quan trọng.
Do đặc điểm, đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi khu vực, mỗi địa
phương khác nhau. Bên cạnh phạm vi các chương trình chung có phạm vi toàn
quốc, còn cần có các chương trình quốc gia (thực hiện trong phạm vi cả nước),
chương trình vùng (ở một số địa phương), hay các chương trình riêng cho
một, hoặc một số nhóm dân tộc, nhóm tuổi.... Những chương trình/chính sách
này mặc dù có khác nhau về không gian, thời gian, đối tượng tác động... nhưng
đều hợp thành hệ thống ASXH hoàn chỉnh và hiện đại.
1.2.2.5. Chia theo mức độ thể chế hành chính
Phân chia các hợp phần của hệ thống ASXH theo mức độ thể chế về hành
chính bao gồm:
+ Hệ thống các bộ luật.
+ Hệ thống các quy định dưới luật của Chính phủ.
+ Hệ thống các quy định của chính quyền các địa phương.
+ Các dự án - kế hoạch của các tổ chức, doanh nghiệp.
+ Các hoạt động của các cá nhân, cộng đồng.
+ Các hoạt động của chính đối tượng hưởng lợi.
Trong đó dạng cấu trúc luật là quan trọng nhất, các quốc gia trên thế
giới đều hướng tới việc xây dựng một hệ thống luật quy định chi tiết về các chế
độ, chính sách của hệ thống ASXH. Nước ta trong những năm tới cũng cần
hướng việc xây dựng hệ thống ASXH theo hướng luật hoá tất cả những chính
sách, giải pháp, biện pháp.
1.2.2.6. Chia theo hệ thống quản lý
Theo cách thức phân chia này, hệ thống ASXH được phân chai thành các

hợp phần theo hệ thống tổ chức bộ máy hoàn chỉnh thực hiện. Cụ thể:
- Hệ thống các hoàn chỉnh về tổ chức: Các lĩnh vực chính sách giải pháp
được được thiết kế song song nội dung chính sách là bộ máy tổ chức và thể
chế chức năng tổ chức đầy đủ để thực hiện các chức năng. Ví dụ như hệ thống
Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội, hệ thống phòng chống lụt bão...
- Hệ thống chính sách, giải pháp có gắn liên với tổ chức bộ máy không
đầy đủ để tổ chức thực hiện. Bộ máy kiêm nghiêm, như: các chính sách ưu đãi
xã hội; chính sách phòng chống tệ nạn xã hội...
- Hệ thống các chính sách và giải pháp ASXH không thiết lập hệ thống
tổ chức và bộ máy thực hiện. Đây là hệ thống các chính sách, giải pháp ban mới
được ban hành của nhà nước dựa trên cơ sở của hệ thống cơ quan hành chính
của nhà nước hoặc các bộ máy tổ chức khác thực hiện giúp. Hình thức này
đang phổ biến ở nước ta như các chính sách Bảo trợ xã hội (trợ cấp xã hôi,
chăm sóc đối tượng yếu thế, cứu trợ đột xuất thiên tai); các chương trình giảm
nghèo, hỗ trợ dân tộc thiểu số, trẻ em, phụ nữ....
Với mỗi loại cấu trúc tổ chức đều có mặt mạnh và những hạn chế nhất
định. Việc lựa chọn mô hình tổ chức như thế nào là phải dựa trên cơ sở mục
tiêu của chính sach và hệ thống tổ chức hiện tại.
1.2.3. Thực trạng hệ thống ASXH Việt Nam
1.2.3.1. Hệ thống cứu trợ xã hội đột xuất
Đây là chính sách đặc biệt, chính sách này hỗ trợ cho nhưng đối trượng
do rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh. Ở nước ta do
đặc thù chiến tranh kéo dài, thiên tai, hoả hoạn thường xuyên đã dẫn đến bộ
phận lớn đối tượng cần trợ giúp của hệ thống chính sách này.
Đối tượng hưởng lợi chính sách là người, hộ gia định chịu hậu quả của
chiến tranh, thiên tai địch hoạ, thiếu đói lượng thực. Bao gồm người chế, bị
thương, hộ gia đình có người chết, người bị thương, hộ gia đình thiếu đói, hộ
gia 1.đình mất tài sản, phương tiện phục vụ sản xuất.... Theo số liệu tổng hợp
từ 2001-2004 thiên tại đã làm cho 1.760 người chết (bình quân 440
người/năm; 1.279 người bị thương (bình quân 320 người/năm); 33.867 nhà

bị đổi trôi, cháy (bình quân 8,5 ngàn nhà/năm); trên 117 ngàn nhà hư hỏng
nặng (bình quân trên 29 ngàn nhà/năm), tổng thiệt hại dân sinh khoảng 8
ngàn tỷ đồng/4 năm (bình quân 2 ngàn tỷ đồng/năm). Các vùng nông thôn,
miền núi, vùng ven biển hàng năm có khoảng 1,2 đến 2 triệu người thiếu đói
(thiếu lương thực 3-6 tháng). Bên cạnh đó cả nước còn khoảng 160 ngàn hộ
đồng bào dân tộc thiểu số, do phòng tục tập quán, trình độ dân trí thấp,
không biệt cách làm ăn, sống ở các vùng sâu vùng xa đang cần có cứu trợ
lương thực hàng năm.
Biểu đồ 1.1. Số người chết, bị thương do thiên tai 1997-2004
(Nguồn: Báo cáo Bảo trợ xã hội năm 1997 đến 2004, Bộ LĐTBXH)
-Nguồn ngân sách nhà nước được bố trí trong nguồn dự phòng ngân
sách các cấp (3% tổng chi ngân sách). Trong những trường hợp thiên thiên tai
xẩy ra trên diện rộng ngân sách Trung ương hỗ trợ. Cơ chế tài chính này được
quy định trong Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn dưới luật.
1.2.3.2. Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội
Hệ thống hính sách trợ giúp xã hội là hướng vào nhóm đối tượng dân
cư khó khăn, chịu thiệt thòi trong cuộc sống như người tàn tật, người già, trẻ
em đặc biệt khó khăn, dân nghèo. Mục tiêu chính sách là duy trì và phát triển
cuộc sống. Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội được hình thành từ lâu, phát
triển đa dạng cả về nội dung, đối tượng hưởng lợi.
Về hình thức hỗ trợ: Thực hiện thông qua hai hình thức là hỗ trợ trực
tiếp đối với nhóm dân cư đặc biệt khó khăn và hỗ trợ gián tiếp thông qua các
giải pháp nâng cao năng lực tiếp cận với các dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội,
để từ đó tự vươn lên thoát khỏi khó khăn.
Về nội dung hỗ trợ: Thực hiện 3 nội dung hỗ trợ chính là hỗ trợ vật chất,
hỗ trợ tạo điều kiện phát triển sản xuất, tăng thu nhập và hỗ trợ tạo cơ hội để
tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nước sạch, văn hoá xã
hội...). Mỗi nội dung hỗ trợ được thực hiện theo các chính sách khác nhau và
các nhóm đối tượng cụ thể khác nhau theo từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
+ Hỗ trợ vật chất chủ yếu thực hiện thông qua hình thức TCXH cho nhóm

đối tượng đặc biệt khó khăn. Nội dung này là một trong những trụ cột chính
của chính sách (được trình bày chi tiết ở những phần sau).
+ Hỗ trợ tạo điều kiện cho hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập
bao gồm: Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo; chính sách hỗ trợ đất sản
xuất; khuyến nông- lâm- ngư; dạy nghề tạo việc làm; phát triển cơ sở hạ tầng
thiết yếu các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo và các xã
nghèo; thử nghiệm các mô hình đặc thù có hiệu quả; xây dựng quỹ phát triển
cộng đồng.
+ Tạo cơ hội để tiếp cận các dịch vụ xã hội bao gồm: Chính sách hỗ trợ
về y tế; hỗ trợ về giáo dục; hỗ trợ về nhà ở và nước sinh hoạt...
Đối tượng bao phủ của chính sách: Với mỗi hình thức chính sách có đối
tượng riêng và phạm vi riêng. Nhưng trên tổng thể nhóm chính sách này trợ
giúp cho các nhóm dân cư là người tàn tật, người già, trẻ em đặc biệt khó
khăn, người nghèo, dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. Tính chung chiếm
khoảng từ 25-30% dân số cả nước.
Cơ chế thực hiện: Thực hiện thông qua các chính sách thường xuyên, các
chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình ngành và các dự án, các kế
hoạch của các ngành và các địa phương.
- Về mức độ thể chế chính sách: Nhóm các chính sách này cũng đã được
thể chế thông qua hệ thống luật (Luật lao động, luật giáo dục, luật chăm sóc
sức khoẻ nhân dân). Hệ thống các văn bản hướng dẫn dưới luật. Tuy nhiên,
mỗi loại đối tượng, hình thức trợ giúp quy định các văn bản khác nhau do vậy
mức độ thể chế khác nhau, chưa đồng bộ.
1.2.3.3. Chính sách ưu đãi xã hội (ưu đãi người có công)
- Chính sách ưu đãi xã hội được xác định là một trong những hợp phần
của hệ thống ASXH Việt Nam. Đây là những chính sách của nhà nước đối với
một bộ phận dân cư có công với đất nước. Mục đích là tôn vinh, đãi ngộ, bù
đắp một phần mất mát cho những người, những gia đình có đóng góp công
lao, máu thịt, cuộc sống của mình cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải
phóng dân tộc, chủ quyền độc lập và phát triển đất nước. Chính sách này cùng

được thực hiện từ năm 1945 và đã được thể chế hoá trong hệ thống luạt pháp
sớm. Hiện tại thực hiện heo pháp lệnh ưu đãi Người có công năm 1995, Pháp
lệnh Phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng và một hệ thống văn
bản hướng dẫn dưới Luật như nghị định, thông tư, quyết định... Hình thức hỗ
trợ cũng rất đa dạng, có thể nhóm thành các nhóm trợ giúp sau:
 Hộ trợ tài chính: Trợ cấp hàng tháng hoặc trợ cấp một lần.
 Hỗ trợ y tế: Chế độ chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, chỉnh hình, phục
hồi chức năng, an dưỡng, điều dưỡng…

×