Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tài liệu Tiểu luận tài chính doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.86 KB, 7 trang )

Câu hỏi: Ngân hàng trung ương(NHTW) đã sử dụng công cụ nào vào
chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Ý kiến của các chuyên gia về vấn đề
này?
BÀI LÀM
Trong những tháng đầu năm 2008, do những tác động không thuận của
biến động kinh tế thế giới và những vấn đề nội tại của nền kinh tế, tình hình
kinh tế Việt Nam diễn biến khá phức tạp. Lạm phát cao, nhập siêu tăng
mạnh đã làm ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống nhân dân, đe
doạ ổn định kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư, kinh
doanh. Đánh giá đúng tình hình, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ
trọng tâm trong giai đoạn này là “kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng hợp lý bền vững, trong đó kiềm chế
lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu”.
Trước những diễn biến suy thoái của nền kinh tế toàn cầu, Ngân hàng Nhà
nước đã đưa ra nhiều giải pháp thực hiện những nhiệm vụ mà Chính phủ đề
ra nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Để làm việc này, NHTW đã sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ như: Lãi suất, dự trữ bắt buộc, lãi suất tái
chiết khấu, tái cấp vốn, phát hành tín phiếu NHNN và các công cụ khác
I. Các công cụ của chính sách tiền tệ NHTW đã sử dụng
1. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phải
duy trì thep quy định của NHTW. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm
nhất định trên tổng số tiền gửi trong một khoảng thời gian xác định. Công cụ
này nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vat) của các NHTM.
Chính vì vậy việc đầu tiên mà NHTW đã làm là việc điều chỉnh dự trữ bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng của NHTW theo Quyết định số
187/2008/QĐ-NHTW ngày 16/1/2008. Theo tinh thần Quyết định này, dự
trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng tăng thêm 1% và quyết định mở rộng
thêm phạm vi phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi trên 24
tháng, thay vì chỉ có tới 24 tháng như trước đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền
gửi VND không kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi có


kỳ hạn từ tháng 12 trở lên tăng từ 4% lên 5%; tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn
đến có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ
hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%. Như vậy từ tháng 2/2008, các
1
ngân hàng thương mại bỏ thêm ra ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để nộp dự
trữ bắt buộc cho NHTW
Đây có lẽ là tác động mạnh nhất đến các ngân hàng thương mại. Nhiều ngân
hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại cổ phần bắt đầu gặp khó
khăn về khả năng thanh khoản buộc phải tìm cách tăng cường huy động vốn.
Do vậy, cuộc chạy đua lãi suất bắt đầu, đồng thời một số ngân hàng thương
mại lớn tăng lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
2. Ấn định lãi suất
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước vì nó
có ảnh hưởng đến mọi hoạt động, mọi chủ thể của nền kinh tế.
Việc điều chỉnh lãi suất là động tác thứ hai mà NHTW đã thực hiện. Ngày
30/1/2008, ban hành Quyết định số 305/QĐ-NHTW về điều chỉnh lãi suất cơ
bản bằng đồng Việt Nam là 8,75% và Quyết định số 306/QĐ-NHTW về
điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, theo đó lãi suất tái cấp
vốn là 7,5% và lãi suất chiết khấu là 6,0%/năm. NHTW vẫn duy trì thị
trường mở, với việc cung ứng 20.000 tỷ đồng để hỗ trợ các tổ chức tín dụng
giải quyết tình trạng mất cân đối vốn khả dụng tạm thời, song những ngân
hàng nhỏ vẫn không thể tiếp cận được với thị trường này vì không đủ điều
kiện (không có nguồn vốn để dự trữ giấy tờ có giá). Đồng thời NHTW mở
rộng biên độ mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ 0,75% lên 1%, kết hợp với
điều hành linh hoạt tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng
và sử dụng tiền rút về từ lưu thông để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối
Nhà nước...
3. Chính sách lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn.
Đây là cửa sổ chiết khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho

vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh
tế.
Ngày 1/2/2008, NHNN ban hành Quyết định số 03/QĐ-NHNN về việc
cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
Theo đó, quy định đầy đủ, rõ ràng và chặt chẽ các điều kiện các TCTD được
cho vay chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán, và quy
định về hệ số rủi ro cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh
chứng khoán thuộc nhóm tài sản “Có” có hệ số rủi ro là 250%, tỷ lệ cho vay
theo mục đích này không vượt quá 20% vốn tự có. Quyết định số 03 nêu
trên thay thế cho Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 của NHNN
về kiểm soát quy mô chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh
2
chứng khoán và một số văn bản liên quan khác là sự thay thế một mệnh lệnh
hành chính bằng một quy định pháp luật với những ràng buộc về điều kiện
cần và đủ trong việc cho vay kinh doanh đầu tư chứng khoán. Những
NHTM nào đáp ứng được những quy định của NHNN thì tiếp tục cho vay,
những ngân hàng cho vay vượt mức 20% thì phải thực hiện các biện pháp
giảm hoặc tăng vốn điều lệ và những NHTM không đủ điều kiện thì không
được cho vay.
Việc NHNN ban hành Chỉ thị 03 và Quyết định 03 nêu trên, tuy có làm
cho thị trường chứng khoán chững lại, một số nhà kinh doanh, đầu tư chủ
yếu bằng vốn vay ngân hàng sẽ gặp khó khăn, song đó là biện pháp giảm
tăng trưởng nóng và giảm cả tăng trưởng “bong bóng” trong điều kiện thị
trường chứng khoán Việt Nam còn đang mới. Và đó là những giải pháp kịp
thời.
4. Phát hành tín phiếu NHNN
Tiếp theo, ngày 13/2/2008, NHNN ban hành Quyết định số 346/QĐ-
NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc với tổng
giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày (một năm), lãi
suất 7,8%/ năm, ngày phát hành 17/3/2008. Tín phiếu NHNN được phân bổ

cho 41 NHTM theo quy mô tỷ trọng vốn huy động bằng đồng Việt Nam (4
NHTM Nhà nước, 28 NHTM cổ phần, 7 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 2
Ngân hàng liên doanh và công ty tài chính Dầu khí). Đó là những ngân hàng
vẫn còn khá dồi dào nguồn vốn. Nhưng sau khi chấp hành quy định tăng dự
trữ bắt buộc và mua tín phiếu bắt buộc theo quy định này làm cho một số
NHTM đã khó khăn nay lại khó khăn hơn, trong khi trước đó đã “mạnh tay”
đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Cuộc đua lãi suất trở
nên quyết liệt hơn. Chính vì vậy, tháng 2/2008, NHNN phải ra Công điện số
02, yêu cầu các TCTD không được huy động lãi suất tiết kiệm với lãi suất
vượt quá 12%/năm, đồng thời Hiệp hội Ngân hàng đã tổ chức thoả thuận
giữa các hội viên thực hiện mức lãi suất không quá 11%/năm.
Công điện số 02 nêu trên là cần thiết và đó là việc sử dụng “bàn tay Nhà
nước” trong những điều kiện cụ thể để giữ cho thị trường ổn định.
Một lần nữa, NHNN lại phải sử dụng văn bản mang tính hành chính trong
bối cảnh chạy đua lãi suất, tranh thủ huy động vốn để, làm cho thị trường
tiền tệ đã nóng lại thêm nóng thêm, thậm chí bị rối thì đó là việc cần thiết.
Lãi suất huy động của các NHTM thực hiện theo Công điện số 02 của
NHNN chính là trần lãi suất do NHNN chỉ đạo. Trong khuôn khổ trần lãi
suất đó, thời gian đầu, các NHTM có thuận lợi trong việc xử lý các mức lãi
suất cụ thể cùng với các “chiêu” khuyến mãi nên mức lãi suất huy động
3
thường trên 12%, thậm chí có nơi lên đến 13-14%/ năm. Tuy vậy, nhiều
ngân hàng vẫn không đủ nguồn vốn để cho vay, một số ngân hàng, chủ yếu
là NHTMCP có quy mô nhỏ vẫn còn trong tình trạng thiếu khả năng thanh
khoản, phải “chạy đôn chạy đáo” để vay, trong khi đó, những ngân hàng này
vẫn không đủ điều kiện tiếp cận thị trường mở, nhưng NHNN chưa kịp thời
thực hiện các biện pháp tháo gỡ.
5. Các công cụ khác
NHTW đã có những biện pháp bao gồm từ việc hoàn thiện các quy định
pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng; tăng cường công tác thanh tra

giám sát (cụ thể là Chỉ thị số 03/2008/CT-NHNN ngày 22/4/2008 “về việc
tăng cường công tác thanh tra giám sát của NHNN”); những biện pháp điều
hành chính sách tiền tệ, tín dụng, tỉ giá như: xây dựng phương án điều hành
tỉ giá năm 2008, xây dựng cơ chế kiểm soát luồng vốn nước ngoài; tiếp tục
bổ sung hoàn thiện cơ chế điều hành dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái cấp vốn,
nghiệp vụ thị trường mở; xây dựng phương án điều hành chính sách tiền tệ
và tín dụng để cả năm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện
thanh toán không vượt quá 30%...
Với những biện pháp chỉ đạo đồng bộ và khá quyết liệt phù hợp với sự chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ cùng với diễn biến của thị trường trong và
ngoài nước, NHNN đã phát tín hiệu một cách rõ ràng, nhất quán đối với việc
kiểm soát chặt chẽ tiền tệ, vì vậy, ngay trong quý I /2008, đã có những kết
quả nhất định như: rút về khoảng 40.000 tỷ đồng để mua 1,5 tỷ USD góp
phần giảm bớt sức ép từ nguồn cung ngoại tệ dư thừa cho các NHTM (Tuy
nhiên, sau một thời gian, tỷ giá ngoại tệ lại vào tình trạng đảo chiều, giá
USD tăng, cầu ngoại tệ tăng và NHNN lại phải can thiệp). Mặt bằng lãi suất
được kiểm soát ở mức hợp lý (lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng
phổ biến ở mức 8%-10%/năm, lãi suất huy động VND của TCTD phổ biến ở
mức 1%/tháng, lãi suất cho vay ngắn hạn khoảng 11%-13%/năm, cho vay
trung và dài hạnở mức 14% -16%/năm, lãi suất USD được điều chỉnh tăng
từ 0,11%- 1,29%/năm).
Kết quả rõ nhất trong quý I/2008 là tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng
bằng khoảng 1/2 tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước, hoạt động tín dụng
của các NHTM được kiểm soát chặt chẽ hơn dẫn đến tỉ lệ lạm phát của
tháng 4/2008 ở mức 2,2% (tuy nhiên, tháng 5/2008 lại tăng ở mức 3,91%,
tăng dư nợ tháng 5/2008 lên 18%).
II. Ý kiến chuyên gia về vấn đề trên
4
"Từ khi tôi trở lại sinh sống và làm việc ở Việt Nam năm 1995, chưa bao
giờ kinh tế lại trải qua những giờ phút căng thẳng như hiện tại. Để chặn

đứng cơn sốt lạm phát, cần có những chính sách minh bạch, cứng rắn và hữu
hiệu từ trên xuống dưới" - Giáo sư Hà Tôn Vinh, ĐH Hawaii viết cho
VnExpress.
Chỉ số giá tăng 19% so với cùng kỳ năm trước là một con số đáng kể.
Hiện tượng lạm phát phi mã gần đây ở VN có tất cả những dấu hiệu của
lạm phát ở các nước chậm tiến hay đang phát triển, đã được nhiều chuyên
gia và các tổ chức quốc tế đề cập đến và cảnh báo khá nhiều từ hơn một năm
nay. Nguy cơ lạm phát bùng nổ khi Chính phủ cũng như doanh nghiệp chạy
theo chỉ tiêu và hào quang của tốc độ phát triển kinh tế cũng đã được đề cập.
Chính phủ trong những năm gần đây thúc đẩy doanh nghiệp chạy nước rút
để đạt nhiều chỉ tiêu kinh tế, năm sau cao hơn năm trước. Cố gắng này làm
giảm sự chú ý tới khả năng chịu đựng và phát triển của doanh nghiệp, sự mất
cân bằng cung cầu tiền tệ trong thị trường và ảnh hưởng của nền kinh tế dựa
trên tiêu thụ và nhập khẩu của đại bộ phận doanh nghiệp và người dân.
Chính phủ đã thấy rõ được tác hại của lạm phát trên nền kinh tế còn non
trẻ của VN, trên cuộc sống của người dân, nhất là trên công cuộc xóa đói
giảm nghèo. Chính phủ đã có quyết tâm chặn đứng lạm phát bằng mọi giá,
đã kịp thời giảm thiểu lưu lượng tiền trong nền kinh tế, cắt giảm tín dụng
ngân hàng, áp dụng nhiều biện pháp chế tài mạnh mẽ, công khai chấp nhận
không cần đạt chỉ tiêu phát triển kinh tế bằng mọi giá, kêu gọi người dân
thắt lưng buộc bụng, điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước...
Một số chính sách và công cụ tài chính tiền tệ đã bắt đầu có dấu hiệu tốt.
Trong lúc mọi người chờ đợi lạm phát dừng lại hay giảm xuống, đây có lẽ là
lúc Chính phủ phải bắt đầu một cuộc trường chinh chống lạm phát, ổn định
kinh tế lâu dài và đem lại sự thịnh vượng bền vững cho đất nước.
Tuy nhiên theo ông, trong bối cảnh lạm phát đang thao túng thị trường, để
đạt được và duy trì sự cân bằng cho những yếu tố nêu trên, cần ngay một
chính sách và công cụ kiểm soát lạm phát mới, được sử dụng trong một thập
niên vừa qua tại nhiều nước tiến bộ cũng như đang phát triển hay chậm tiến.
Chính sách và công cụ kiểm soát lạm phát mới này được gọi là “Inflation

Targeting’’, tạm dịch là chính sách ‘’xác định hạn mức lạm phát”.
Trong một thập kỷ qua từ khi chính sách “xác định hạn mức lạm phát”
được đưa vào sử dụng, đã có một số quốc gia phát triển cũng như chậm tiến
5

×