Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu LỊCH SỬ NHÂN LOẠI KHÔNG DỪNG LẠI Ở CHỦ NGHĨA TƯ BẢN MÀ TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.87 KB, 7 trang )

LỊCH SỬ NHÂN LOẠI KHÔNG DỪNG LẠI Ở CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
MÀ TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Nguồn: fpe.hnue.edu.vn
V.I. Lê-nin từng viết, nếu hình dung lịch thế giới là con đường thẳng tắp, không
có những bước quanh co, không có những bước lùi tạm thời, đôi khi rất lớn, thì
không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận. Lịch sử của chủ
nghĩa tư bản đã như vậy. Lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội lại
càng như thế. Song, nhân loại nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản.
Xét trên bình diện lịch sử toàn thế giới, cuộc Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại là mốc son chói lọi mở đầu một thời đại mới
trong lịch sử thế giới mà nội dung của thời đại mới này, theo V.I. Lê-nin, là
xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và các tàn tích của nó; thiết lập những cơ sở của
xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi
toàn thế giới. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài nhưng tất yếu. Nó chưa
bao giờ và không ở đâu lại tiến lên theo một con đường phẳng phiu, thẳng
tắp.
1. Phải chăng chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ?
Thời đại mới trong lịch sử thế giới được khởi đầu từ nước Nga, một
nước tư bản phát triển ở trình độ lạc hậu so với châu Âu đương thời, nhưng
đã mau chóng vươn lên trở thành một siêu cường - Liên bang xã hội chủ
nghĩa Xô-viết. Những công tích vĩ đại mà Liên Xô đã đạt được trên mọi
phương diện của đời sống xã hội và trong sự nghiệp cứu nhân loại thoát
khỏi thảm họa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai là một thực tế hào
hùng không thể phủ nhận. Trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX, chế độ
xã hội chủ nghĩa được thiết lập ở một loạt nước từ châu Âu, đến châu Á và
sang cả Mỹ La-tinh với hơn một tỉ dân đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giữ
gìn hòa bình thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, thúc đẩy phong
trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi
toàn cầu. Tuy nhiên, do những hạn chế, thiếu sót của mô hình xã hội chủ
nghĩa, như chủ quan duy ý chí, quan liêu, giáo điều, xem thường các quy


luật kinh tế khách quan, chậm trễ trong việc ứng dụng những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại chưa được phát hiện và khắc phục kịp thời,
nên hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới chẳng những không thể phát huy đầy
đủ sức sống và ưu thế của mình mà còn lâm vào tình trạng trì trệ và khủng
hoảng trầm trọng. Cùng với những nguyên nhân sâu xa đó, sự chống cộng
ráo riết của các thế lực phản động quốc tế đồng thời với sự phản bội của
một số lãnh đạo cao nhất trong bộ máy đảng cầm quyền là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến cơn “địa chấn chính trị” gây sốc lớn đối với cả nhân loại-
sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối
những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ qua.
Song, sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô,
trước hết, không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách
một học thuyết cách mạng và khoa học duy nhất đúng trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, một học thuyết đã vạch đường cho sự giải phóng hoàn
toàn, triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức
và cho việc xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh thực sự-
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chúng ta biết rằng, các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, như chính C.Mác từng nhấn mạnh,
chỉ là “kim chỉ nam” định hướng cho hành động. Vậy nên, áp dụng một cách
rập khuôn, máy móc các nguyên lý đó là trái với tinh thần của Mác. Các
nguyên lý đó đòi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện
lịch sử cụ thể ở từng nơi từng lúc. Bởi vậy, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu với những hạn chế của nó chỉ là một mô hình của chủ nghĩa
xã hội, hơn nữa, mô hình này lại phản ánh không đầy đủ, thiếu sáng tạo
những ý tưởng của học thuyết Mác - Lê-nin.
Thứ hai, sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu càng
không có nghĩa là sự phá sản cả một xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn cầu. Thực tế hôm nay khẳng định, chủ nghĩa xã hội vẫn
đang tồn tại, đang cải cách, đổi mới và tràn đầy sức sống ở một số nước xã
hội chủ nghĩa với hơn 1,4 tỉ dân. Ông K. Ta-da-si, Ủy viên trung ương Đảng

Cộng sản Nhật Bản, nhấn mạnh rằng chủ nghĩa xã hội thông qua nền kinh
tế thị trường đang được thực hiện ở một số nước sẽ là xu hướng chính có ý
nghĩa quyết định tiến trình lịch sử thế giới. Ở Việt Nam, những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong hơn
20 năm qua chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo. Điều này được đánh giá tổng kết rõ trong văn kiện Đại
hội X của Đảng: “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị
thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới
cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”. Mặt khác, ngay tại các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, những lực lượng xã hội chủ nghĩa đang
dần phục hồi, tiếp tục và phát triển không ngừng cuộc đấu tranh giai cấp.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã để lại một nét son đậm, một dấu ấn không
thể xoá mờ trong tâm khảm của quần chúng nhân dân nơi đây. Sự rêu rao
rằng chủ nghĩa tư bản là liều thuốc chữa bách bệnh đã lắng xuống bởi
những mâu thuẫn về kinh tế và xã hội ở những nước này đã ngày càng trở
nên sâu sắc.
Thứ ba, sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô
càng chứng tỏ rằng chế độ mới ra đời bao giờ cũng phải trải qua một quá
trình đấu tranh quyết liệt, phức tạp và lâu dài với các thế lực thù địch luôn
tìm mọi thủ đoạn chống phá nó. Trong quá trình đó, do tác động của nhiều
nguyên nhân mà chế độ mới trên mỗi bước tiến của nó có thể bị vấp phải
nhiều khó khăn, trở ngại, tổn thất lớn, thậm chí thoái trào. Lịch sử của chế
độ tư bản đã như vậy, lịch sử phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa lại
càng như thế, bởi xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là xây dựng một chế

độ hoàn toàn mới và khác về bản chất so với các chế độ bóc lột tồn tại
trước đó, một xã hội mà ở đó, như C. Mác khẳng định trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.
2. Chủ nghĩa tư bản có là trường cửu?
Nhìn lại lịch sử thế kỷ trước, sự phát triển của hệ thống xã hội chủ
nghĩa trong suốt nhiều thập niên, phong trào giải phóng dân tộc của các
nước vốn là thuộc địa, cuộc đấu tranh liên tục của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động tại các nước tư bản đã buộc chủ nghĩa tư bản hiện đại
phải thực hiện một số điều chỉnh nhất định về kinh tế và xã hội nhằm xoa
dịu phần nào những mâu thuẫn cố hữu của chế độ tư bản và kéo dài thêm
khả năng tồn tại của nó. Nhưng khả năng kéo dài thêm sự tồn tại đó không
đồng nghĩa chủ nghĩa tư bản là trường cửu như sự rêu rao của một số học
giả tư sản bởi:
Một là, tiến trình xã hội hoá tư bản được thể hiện ở quá trình tập trung
hoá sản xuất ngày càng cao đang diễn ra mạnh mẽ tại các nước thuộc hệ
thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Theo một thống kê của Liên hợp quốc, trên
thế giới hiện có hơn 45. 000 công ty mẹ và hơn 300. 000 công ty con. Số
lượng các công ty con xuất hiện ngày càng nhiều không có nghĩa thực tế đó
đi ngược lại xu thế tập trung hoá sản xuất mà ngược lại đây cũng chỉ là một
biểu hiện mới của sự tập trung sản xuất và sự lệ thuộc của các công ty con
vào công ty mẹ về công nghệ, vốn, thị trường… Mặt khác, trong đời sống
kinh tế của các nước tư bản phát triển từ giữa thế kỷ XX đến nay cho thấy,
vấn đề sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân đã không còn là giải pháp
kinh tế duy nhất. Chế độ sở hữu hỗn hợp mang tính xã hội hóa ngày càng
rộng với các hình thức mới như các công ty cổ phần, công ty liên doanh
dưới các dạng khác nhau... Trong cơ cấu nền kinh tế của các nước tư bản,
những hình thức khác nhau của chế độ sở này hiện tuy mới chỉ chiếm một
tỷ lệ còn khiêm tốn và hoạt động của nó vẫn phụ thuộc vào các quy luật của
thị trường tư bản chủ nghĩa, song không thể coi những quan hệ xã hội được

hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu đó là những quan hệ tư bản chủ nghĩa
trong hình thức cổ điển của chúng. Đương nhiên, những quan hệ này cũng
chưa hẳn đã là những quan hệ mang tính chất xã hội chủ nghĩa theo đúng
nghĩa của nó. Nhưng dẫu sao xu hướng phát triển của những hình thức sở
hữu đó cũng chứng tỏ rằng, chủ nghĩa tư bản không hề chệch hướng trên
con đường tự phủ định mình.
Hai là, từ khi xuất hiện cho tới nay, bản chất của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa vẫn không thay đổi. Giáo hoàng G. Pôn II đã từng nhấn
mạnh rằng trong hệ tư tưởng cộng sản có những hạt nhân chân lý mà một
trong những hạt nhân chân lý đó là việc vạch trần bản chất bóc lột giá trị
thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho dù giai cấp tư
sản có làm rùm beng chuyện “hữu sản hoá” những người vô sản hay “trung
lưu hoá” xã hội tư bản… thì họ vẫn tiếp tục tìm mọi thủ đoạn bóc lột người
làm thuê và kiếm lợi nhuận bằng cách bòn rút giá trị thặng dư ngày càng
khủng khiếp. Tỉ suất bóc lột giá trị thặng dư theo thời gian vẫn tăng lên một
cách chóng mặt: từ trên 200% vào những năm 50, tăng lên 300% trong
những năm 90 của thế kỷ XX và đến nay con số đó đạt tới ngưỡng 500-
600%. Sự phân cực giữa giai cấp tư sản và những người nghèo khổ mà
chính những người của thế giới tư bản đã phải gọi những người nghèo khổ
này là “thế giới thứ tư” trong xã hội, càng tăng lên nhanh chóng. Ở Mỹ, nơi
được xem là mô hình toàn cầu của sự phát triển, thì vẫn có khoảng 10%
người da trắng và 31% người da đen là những người nghèo. Thời báo Lốt
An-giơ-let ngày 16-6-2005 đưa tin, hạt này đã trở thành “thủ đô của những
người vô gia cư Mỹ” với số người lang thang cơ nhỡ lên tới 90 nghìn người
mỗi ngày, trong đó có 35 nghìn người thường xuyên phải sống trong cảnh
màn trời chiếu đất. Theo Báo cáo tình trạng người Mỹ da đen 2005 do
Liên đoàn thành thị toàn quốc công bố, mức thu nhập của các gia đình
người Mỹ gốc Phi chỉ bằng một phần mười thu nhập của gia đình người Mỹ
da trắng. Cục Thống kê Mỹ (2005) cho biết, thu nhập của phụ nữ Mỹ chỉ
bằng 77% thu nhập của nam giới cùng công việc…Chỉ một vài con số đó

chứ chưa phải tất cả đã có thể xem là những minh chứng cho nhận định
của Ông M. Pa-ren-ty, tác giả cuốn “Nền dân chủ cho thiểu số” rằng: chủ
nghĩa tư bản vẫn là “một hệ thống biến nhân dân lao động thành nô lệ của
nó”.
Không chỉ có thế, các thế lực tư bản đế quốc luôn mưu đồ xâm phạm
nền độc lập của các quốc gia, chà đạp quyền tự quyết của các dân tộc bằng
mọi thủ đoạn, từ can thiệp vũ trang thô bạo, trắng trợn đến tiến hành âm
mưu “diễn biến hoà bình” thâm độc, nham hiểm…Chính các thế lực này là
thủ phạm gây ra các cuộc chiến tranh tàn khốc, liên miên trong suốt thế kỷ
XX- thế kỷ được xem là đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại từ trước đến
nay, với hai cuộc đại chiến thế giới và gần 130 cuộc chiến lớn nhỏ khác đã
cướp đi sinh mạng của hơn 120 triệu con người. Ngoài ra, sự hủy hoại môi
trường sinh thái hơn 100 năm qua đối với nhân loại mà thủ phạm gây ra
chính là chủ nghĩa tư bản cũng vô cùng tàn khốc. Rất nhiều người đã đặt
câu hỏi rằng liệu sự sống trên trái đất và chủ nghĩa tư bản có thể chung
sống hòa bình với nhau không. Bình luận về vấn đề môi trường toàn cầu bị
hủy hoại hiện nay, ông T. Phu-oa, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Đảng Cộng sản Nhật Bản đưa ra kết luận rằng, về một phần nào đó, sự hủy
hoại môi trường còn nghiêm trọng hơn cả sự trì trệ và suy thoái kinh tế;
rằng chủ nghĩa tư bản đã hoàn toàn mất khả năng điều khiển thế giới. Ngay
tại Hội nghị bàn về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc được tổ
chức ở Ri-ô Đờ-gia-nê-rô (Bra-xin) hồi tháng 6-1992, trong khi tập trung sự
chú ý đến việc đưa ra quan điểm về sự phát triển bền vững, các đại biểu đã
thống nhất với khẳng định rằng chính chủ nghĩa tư bản là trở lực lớn nhất
đối với việc thực hiện những ý tưởng của quan điểm đó; rằng chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới bảo đảm trên thực tế cho sự phát triển bền vững mà thôi.
Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước thuộc thế
giới thứ ba - một thế giới nghèo nàn, lạc hậu, nợ nần chồng chất đang được
thực hiện với một tốc độ thu lợi nhuận ngày càng tăng. Theo con số thống
kê của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2004, thế giới hiện có khoảng 1,2 tỉ

×