Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

MARKETING DU LỊCH: Phân tích tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch biển của thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.78 KB, 20 trang )

Phân tích tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch biển của
thành phố Hải Phòng
1.Vấn đề nghiên cứu
Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế-xã hội phổ biến. Đối
với một số Quốc gia du lịch là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong
ngoại thương. Du lịch đã nhanh chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
nhiều quốc gia trên thế giới. Và ở nước ta Du lịch ngày càng khẳng định được vị
trí quan trọng của mình trong sự phát triển kinh tế đất nước. Du lịch là ngành
kinh doanh dịch vụ,hoạt động kinh doanh ở đây chủ yếu là phục vụ chứ không
phải là sản xuất. Do tác động của nhiều nhân tố khác nhau mà hoạt động du lịch
mang tính thời vụ. Tính thời vụ đó đã gây những tác động nhất định đến hoạt
động kinh doanh du lịch. Nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch ln là một trong
những vấn đề quan tâm của các nhà kinh doanh thuộc lĩnh vực này.
Đối với riêng em, mảnh đất Hải Phịng u dấu-nơi mà du lịch có thể nói là
khá phát triển. Tuy nhiên trước thực trạng của du lịch Hải Phịng hiện nay, bên
cạnh những thuận lợi thì cịn rất nhiều những khó khăn,điều quan trọng ở đây là
mình nhận thức nó ra sao và tìm cách khắc phục nó để hướng tới đích cuối cùng
là phát triển du lịch thành phố Hải Phịng nói riêng,ngành du lịch cả nước nói
chung. Em đã từng sống tại thị xã Đồ Sơn,đó là một khu du lịch biển,được thiên
nhiên ban tặng cho một tiềm năng du lịch đa dang,phong phú và đầy hấp dẫn.
Đồ Sơn và Cát Bà là hai trọng điểm du lịch của thành phố Hải Phòng. Thật đáng
tiếc khi mà phải chứng kiến một nghịch cảnh mà bao nhiêu năm qua vẫn diễn
ra:mùa hè thì rất đơng khách du lịch,nhưng mùa đông lại vô cùng vắng vẻ. Vậy
thì ngun nhân tại sao? Đó là điều đáng buồn mà em vẫn thường băn khoăn.
Nhưng khi được học môn Marketing Du lịch, em đã có thể tự mình trả lời câu
hỏi đó,lý do rất đơn giản:chính tại ảnh hưởng của tính thời vụ trong du lịch biển.
Vì vậy em đã chọn đề tài:”Phân tích tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh
du lịch biển của thành phố Hải Phòng”.


2.Mục đích nghiên cứu:


Tìm hiểu về tính thời vụ trong du lịch biển sẽ giúp em hiểu rõ hơn về bản
chất của tính thời vụ,các nhân tố tác động tới thời vụ du lịch đối với loại hình du
lịch nghỉ biển của Hải Phòng,cả những tác động bất lợi của tính thời vụ và thực
trạng kinh doanh du lịch biển tại đây. Qua đó em có một số kiến nghị và giải
pháp để hạn chế những bất lợi đó.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu ,sử dụng những thông tin thu thập được từ nguồn
thông tin thứ cấp và sơ cấp.


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A/ Thời vụ du lịch và những nhân tố ảnh hưởng tới thời vụ trong du
lịch nghỉ biển.
I.Thời vụ du lich.
1,Khái niệm “Tính thời vụ trong du lịch”và “Thời vụ du lịch”.
Từ sau đại chiến thế giới thứ 2 cho đén cuối những năm 60 của thế kỷ
trước,việc nghiên cứu Tính thời vụ trong du lịch tập trung chủ yếu vào nguồn
gốc,bản chất,đặc điểm của thời vụ du lịch và những nhân tố quyết định độ dài
của thời vụ du lịch.
Thời gian gần đây tuy vẫn quan tâm đến khía cạnh lý thuyết của vấn đề
này,song các tổ chức quốc gia và quốc tế về du lịch tập trung nhiều hơn vào việc
soạn thảo,thực nghiệm và ứng dụng những kế hoạch tổng hợp nhằm hạn chế
những tác động bất lợi của tính thời vụ trong du lịch,kéo dài đáng kể thời vụ
trong du lịch.
Cho đến nay, nhiều tác giả có chung quan điểm về “Tính thời vụ trong du
lịch”như sau:
_Tính thời vụ du lịch là sự dao động lặp đi lặp lại đối với cung và cầu của
dịch vụ và hàng hóa du lịch. Nó xảy ra dưới tác động của nhiều nhân tố du lịch.
_Thời vụ du lịch là khoảng thời gian của một chu kỳ kinh doanh mà tại đó
có sự tập trung cao nhất của cung và cầu du lịch.

Thời gian của mùa vụ du lịch chính là đại lượng thay đổi chứ khơng phải là
bất biến .Nó phụ thuộc vào tính chất và xu hướng phát triển của hoạt động du
lịch. Ví dụ: ở Vịnh Hạ Long những năm trước đây người ta đi du lịch Hạ Long
chủ yếu là tắm biển vào mùa hè,nhưng hiện nay không chỉ tắm biển mùa hè mà
người ta đến Hạ Long quanh năm để du thuyền trên vịnh,thăm quan hang
động…


2,Các đặc điểm của Thời vụ du lịch.
Như đã nêu trên,thời gian và cường độ của thời vụ du lịch không phải là cố
định,mà chúng biến đổi dưới tác động của nhiều nhân tố. Dưới sự tác động của
nhân tố khác nhau thời vụ du lịch có nhiều đặc điểm riêng. Những đặc điểm
quan trọng nhất là:
2.1. Tính thời vụ trong du lịch mang tính phổ biến ở tất cả các nước và các
vùng có hoạt động du lịch.
Về mặt lý thuyết nếu một vùng du lịch kinh doanh nhiều thể loại du lịch và
đảm bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong các tháng của năm (luôn giữ
được lượng khách và doanh thu nhất định),thì tại vùng đó tính thời vụ là khơng
tồn tại. Tuy nhiên khả năng đó là rất khó thực hiện ,vì có rất nhiều yếu tố tác
động lên hoạt động kinh doanh du lịch,làm cho hoạt động đó khó có thể đảm
bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong năm và vì vậy tồn tại tính mùa vụ
trong du lịch.
2.2. Một nước hoặc một vùng du lịch có thể có nhiều hoặc nhiều thời vụ du
lịch, tùy thuộc vào các thể loại du lịch phát triển.
Các vùng biển Đồ Sơn ,Sầm Sơn – Vũng Tàu của Việt Nam chỉ kinh doanh
và phát triển loại hình du lịch nghỉ biển là chủ yếu thì mùa du lịch sẽ là vào mùa
hè. Nhưng nếu như tại đây có nhiều nguồn nước khống giá trị, ở đó phát triển
mạnh hai loại hình du lịch: du lịch nghỉ biển vào mùa hè và du lịch nghỉ dưỡng,
chữa bệnh vào mùa đơng dẫn đến ở đó có hai mùa du lịch.
2.3. Độ dài của thời gian và cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau

đối với các thể loại du lịch khác nhau.
Du lịch nghỉ biển vào mùa hè , leo núi, trượt tuyết vào mùa đơng có mùa
ngắn hơn và cường độ dài hơn (do phụ thuộc vào yếu tố thiên nhiên nhiều hơn).
Còn du lịch chữa bệnh thường có mùa dài hơn và cường độ vào mùa chính yếu
hơn.


2.4. Độ dài của thời gian và cường độ của thời vụ du lịch phụ thuộc vào
mức độ phát triển và kinh nghiệm kinh doanh du lịch của các quốc gia du lịch,
điểm du lịch và các nhà kinh doanh du lịch.
Cùng kinh doanh một loại hình du lịch, với các điều kiện về tài nguyên du
lịch tương đối như nhau thì ở các nước , các vùng, các cơ sở kinh doanh du lịch
phát triển hoen, có kinh nghiệm kinh doanh tốt hơn thì thời vụ du lịch thường
kéo dài hơn và cường độ của mùa du lịch yếu hơn. Ngược lại các nước, vùng ,cơ
sở du lịch mới phát triển, chưa có nhiều kinh nghiệm kinh doanh thường có mùa
du lịch ngắn hơn và cường độ của mùa du lịch chính thể hiện mạnh hơn.
2.5. Cường độ và độ dài của thời vụ du lịch phụ thuộc vào cơ cấu của
khách đến vùng du lịch.
Các trung tâm dành cho du lịch thanh, thiếu niên thường có mùa ngắn hơn
và có cường độ mạnh hơn so với những trung tâm đón khách ở độ tuổi trung
niên. Ngun nhân chính ở đây là do thanh thiếu niên thường hay đi theo đoàn,
hội và vào các dịp nghỉ hè, nghỉ tết ngắn hạn.
2.6. Cường độ và độ dài của thời vụ du lịch phụ thuộc vào số lượng các cơ
sở lưu trú chính.
Ở đâu có chủ yếu là các cơ sở lưu trú chính – khách sạn, hotel, nhà nghỉ,
khu điều dưỡng, mùa du lịch kéo dài hơn và cường độ của mùa chính là yếu hơn
so với nơi sử dụng nhiều nhà trọ và camping. Ở đó mùa du lịch thường ngắn hơn
và cường độ thường mạnh hơn.
Một vài đặc điểm về tính thời vụ du lịch của Việt Nam:
* Việt Nam là một nước có tài nguyên du lịch thuận lợi cho việc phát triển

kinh doanh du lịch quanh năm.
* Trong giai đoạn hiện nay đối tượng khách du lịch Việt Nam có động cơ
và mục đích rấ khác nhau:
Khách du lịch nội địa đi du lịch chủ yếu là để nghỉ biển, nghỉ dưỡng ,lễ hội,
tham quan hoặc họ đi du lịch chủ yếu vào các tháng hè và các tháng đầu năm.


Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hiện nay chủ yếu với mục đích kinh
doanh tham quan, tìm hiểu và họ đến Việt Nam chủ yếu từ tháng 10 đến tháng 3.
*Thời vụ du lịch, độ dài của thời vụ du lịch và cường độ biểu hiện của thời
vụ du lịch ở các thành phố lớn, các tỉnh và các trung tâm du lịch biển là rất khác.
II. Các nhân tố tác động tới thời vụ du lịch nghỉ biển .
1, Nhân tố mang tính tự nhiên:
_ Đối với các thể loại du lịch nghỉ biển, nghỉ núi, du lịch thể thao núi, khí
hậu hoặc tài nguyên du lịch ảnh hưởng lên cầu du lịch. Mức độ ảnh hưởng đối
với các thể loại du lịch như du lịch nghỉ biển, nghỉ núi mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố khí hậu là rất lớn.
Đối với du lịch nghỉ biển các thành phần của khí hậu như cường độ ánh
sáng, độ ẩm, nhiệt độ, cộng với một số đặc điểm khác của biển và bãi biển như:
độ sâu của bờ biển, kích thước của bãi tắm…quyết định mức độ tiện nghi phù
hợp với việc tắm và phơi của khách từ đó dẫn đến việc xác định giới hạn của
thời vụ du lịch.
_ Đối với các thể loại du lịch khác (du lịch chữa bệnh, du lịch văn hóa,du
lịch cơng vụ…) thì khí hậu khơng ảnh hưởng trực tiếp lên tài ngun du lịch .
Khí hậu lại có ảnh hưởng trực tiếp lên cầu du lịch. Khách du lịch của các thể
loại du lịch này thường chọn khí hậu ,thời tiết thuận lợi (vào mùa xuân, mùa thu
hay mùa khô) để thực hiện các cuộc hnahf trình du lịch.
2, Nhân tố mang tính kinh tế- xã hội:
Ở những quốc gia có thời gian nghỉ phép của năm ngắn thì người dân chỉ
có thể đi du lịch một lần trong năm. Khi đó sẽ có xu hướng chọn thời gian chính

vụ để nghỉ. Do vậy sự tập trung của cầu du lịch sẽ thường cao vào thời vụ du
lịch chính.
Phong tục tập quán là những nhân tố tác động trực tiếp lên cầu du lịch và
tạo nên sự tập trung của cầu du lịch vào những thời vụ nhất định.
3, Nhân tố mang tính tổ chức – kỹ thuật:
Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch.


Chất lượng và cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nhân tố ảnh
hưởng đến độ dài của thời vụ du lịch.
4, Câc nhân tố khác:
Nhân tố mang tính tâm lý (nhân tố về mốt và sự bắt chước) họ muốn đi du
lịch ở nơi mà họ không hề biết đến các điều kiện cụ thể về ăn uống, nghỉ ngơi,
vui chơi giải trí. Khi đó họ chọn thời gian đi nghỉ theo các du lịch có kinh
nghiệm hoặc những nhân vật nổi tiếng.
Khi những trường hợp nêu trên là khá phổ biến thì có thể sẽ tạo sự căng
thẳng nhân tạo của thời vụ tại một điểm thời gian nào đó. Tuy nhiên nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng lên cường độ biểu hiện của thời vụ du lịch ,it ảnh hưởng lên độ
dài của thời vụ. Mức độ ảnh hưởng là ít và bất biến.
B/ Phân tích tác động của thời vụ du lịch đến hoạt động kinh doanh du
lịch nghỉ biển tại Hải Phòng.
I/ Tiềm năng để phát triển loại hình du lịch nghỉ biển của Hải Phòng.
1. Điều kiện về tài nguyên du lịch.
Một quốc gia, một vùng dù có nền kinh tế, chính trị, văn hố xã hội phát
triển cao song nếu khơng có được các tài ngun du lịch thì cũng không thể phát
triển được du lịch. Tiềm năng về kinh tế là vô hạn song tiềm năng về tài nguyên
du lịch là có hạn, nhất là đối với tài nguyên thiên nhiên -những cái mà thiên
nhiên chỉ ban cho một số vùng và một số nước nhất định. Riêng thành phố Hải
Phịng được thiên nhiên vơ cùng ưu đãi, ban tặng cho 1 tiềm năng lớn về con
người, môi trường, cảnh quan thiên nhiên, có rừng có biển, có nền văn hoá đặc

trưng của vùng ven biển bắc Bộ để phát triển du lịch. Vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên thuận lợi, Hải Phòng được biết đến với vị thế của một thành phố Cảng,
một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch của cả nước, có nhiều điểm
du lịch nổi tiếng được phân bố trên tồn thành phố với đa dạng các loại hình như
rừng, biển, đảo, di tích văn hố và nhiều thắng cảnh danh lam thu hút khách
trong nước và quốc tế. Bất cứ du khách nào đến Hải Phòng cũng nghĩ ngay tới
các địa danh du lịch biển nổi tiếng như Đồ Sơn, Cát Bà.


1.1. Thắng cảnh Đồ Sơn.
Có 2.450m bờ biển đầy cát mịn làm bãi tắm lý tưởng, từ lâu Đồ Sơn đã là
một trong số những khu nghỉ mát nổi tiếng của nước ta. Bán đảo Đồ Sơn nằm
trên miền cổ lục địa, chạy dài 22,5km ven biển từ cửa sông Cấm đến cửa sông
Văn Úc. Đến với khu du lịch Đồ Sơn, du khách sẽ được đắm mình trong làn
nước biển, nghỉ ngơi để thưởng ngoại cảnh đẹp của một miền biển nổi danh
mang đậm nét truyền thống, lung linh màu của huyền thoại... Du khách các nơi
về Đồ Sơn, ít người biết, cách bãi tắm phía Đông Nam bán đảo Đồ Sơn chừng
800m có đảo Dáu hoang sơ đến lạ kỳ. Người xưa hình tượng hố Đồ Sơn như
đầu rồng đang hướng về phía viên ngọc (đảo Dáu), đi quẫy ra khơi xa thành
Bạch Long Vĩ. Hiếm có hịn đảo nào gần đất liền lại được nhiều ưu ái của cả
thiên nhiên và truyền thuyết như đảo Dáu. Chỉ sau khoảng 20 phút cưỡi sóng từ
bến Nghiêng, du khách đã lạc vào chốn hoang sơ, tận mắt ngắm nhìn tháp đèn
biển, cơng trình hơn trăm tuổi giữa gió biển phóng khống. Cây đèn biển hơn
trăm tuổi đặt trên đỉnh cao 128 m, được xây dựng từ năm 1892, cao như một
tháp pháo đài cổ, chiếu xa tới 40 km. Biết bao lượt du khách đã bước theo những
bậc cầu thang gỗ bóng lống để lên đỉnh ngọn đèn, hưởng cảm giác lâng lâng,
hào sảng khi đứng trên độ cao hàng chục mét đón gió căng tràn sức sống. Con
đường lên đảo không quá dốc và cũng chỉ dài vừa đủ để du khách cảm thấy như
tập thể dục. Thích nhất có lẽ là được đi dưới ‘mái nhà’ lợp bằng tán cổ thụ và
dây leo chằng chịt, những chùm rễ si buông rủ như tơ liễu và cơ man gốc cổ thụ

to vài người ôm. Tuy ở ngay nơi tàu bè qua lại tấp nập, nhưng cảnh quan rừng
vẫn được giữ nguyên trạng. Tương truyền Nam Hải Thần vương rất thiêng,
không ai dám lấy đi ở đảo bất cứ thứ gì, kể cả từ một cành củi. Chuyện kể rằng
thời nhà Trần, sau trận thủy chiến với giặc Nguyên trên sông Bạch Đằng, bà con
trên đảo thấy xác một tướng quân dạt vào. Biết là tướng nhà Trần tử trận, bà con
bèn lập đền thờ và gọi ngài là Nam Hải thần vương. Hằng năm, vào các ngày 8,
9 và 10 - 2 (âm lịch) diễn ra lễ hội đảo Dáu của ngư dân Đồ Sơn tại đền thờ ngài
để cầu may.


1.2. Đảo ngọc Cát Bà.
♦ Cát Bà là đảo lớn nhất trong số 1.969 hòn đảo của quần thể danh thắng
vịnh Hạ Long. Đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải cách thành phố Hải Phòng 30
hải lý. Phần đảo nổi Cát Bà có diện tích khoảng 200km2 gồm 2 dạng cấu trúc cơ
bản là hệ thống đảo và bãi chiều. Hệ thống đảo gồm 366 đảo lớn nhỏ, nằm rải
rác trên vùng biển giáp vịnh Hạ Long nổi tiếng ở phía Đơng Nam. Cát Bà là hệ
thống đảo đá vơi, núi đá vơi có độ cao trung bình từ 50m đến 200m.
♦ Quần đảo Cát Bà với hơn 172 bãi cát nhỏ nằm rải rác trên các đảo, trong
đó có rất nhiều bãi có thể dùng làm bãi tắm như: Cát Cò I, Cát Cò II, Cát Dứa,
Cát Quyển … Những bãi cát này ẩn mình dười chân các đảo nhỏ có nhiều hệ
sinh thái tự nhiên, ít sóng gió. Bãi tắm ở đây đẹp, nhiều hòn đảo chưa đặt tên,
thuận lợi cho việc du lịch mạo hiểm, khám phá… Thiên nhiên ở đây hoang sơ,
rừng, biển, sông, suối, núi, đồi, thung lũng, bãi cát, hang động, xen kẽ gắn kết
với nhau tạo nên nhiều cảnh đẹp kỳ thú.
♦ Với vẻ đẹp quyến rũ do thiên nhiên ban tặng, Cát Bà đang được coi là
một trong những trung tâm du lịch sinh thái cấp quốc gia rất hấp dẫn du khách
trong và ngồi nước.
♦ Cát Bà có hệ sinh vật dưới đáy biển vơ cùng phong phú, bao gồm 135
lồi thực vật, 51 loài động vật, hệ sinh thái san hơ, 27 lồi cá làm cảnh cộng
sinh, 300 lồi cá tại ngư trường 500 loài thân mềm và giáp xác.

2.Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch.
2.1. Các điêù kiện về kỹ thuật.
Ở Hải Phịng có một hệ thống các khách sạn nhà hàng, khu giải trí, cửa
hàng, sân thể thao… có thể kể đến các địa chỉ tiêu biểu như:
- Khách sạn Hữu Nghị, 4 sao, địa chỉ 60 Điện Biên Phủ, số phòng 127.
- Khách sạn Bạch Đằng, 3 sao, địa chỉ 42 Điện Biên Phủ, số phòng 38.
- Khách sạn Hàng Hải, 2 sao ,địa chỉ 282 Đà Nẵng, số phòng 38.
- Câu lạc bộ vui chơi giải trí (khách sạn Hữu Nghị) ,60 Điện Biên Phủ.
- Câu lạc bộ Đất Cảng ,28 Quang Trung.


- Siêu thị Ánh Dương, 32 Trần Phú.
● Cơ sở kỹ thuật hạ tầng xã hội là yếu tố cơ sở nhằm khai thác tiềm
năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch ,bao gồm hệ thống đường
sá, nhà ga, sân bay, mạng lưới điện, cấp thoát nước…
2.2 Điều kiện về tổ chức.
Tại Hải Phòng: Sở du lịch đặt dưới sự quản lý trực tiếp của UBND TP
Hải Phòng, và dưới sự quản lý của chủ thể là Chính Phủ.
Sự có mặt của các tổ chức và doanh nghiệp chuyên trách về du lịch(đó
là bộ máy quản lý vi mô về du lịch). Các tổ chức này có nhiệm vụ chăm lo đến
việc đảm bảo sự đi lại và phục vụ trong thời gian lưu trú của khách du lịch.
Gồm: Kinh doanh khách sạn, kinh doanh lữ hành, kinh doanh vận chuyển khách
du lịch, kinh doanh các dịch vụ khác.
II. Thực trạng của hoạt động kinh doanh du lịch biển ở Hải Phòng
trong những năm gần đây.
Du lịch Hải Phịng dù đang nỗ lực khắc phục tính mùa vụ, song thực tế
mùa hè vẫn là “mùa lấy mật” của dịch vụ du lịch khi các điểm kinh doanh lưu
trú, ăn uống và tham quan đồng loạt tăng giá. Vào mùa hè, Cát Bà là một trong
những điểm du lịch hút khách nhất khơng riêng Hải Phịng mà của cả vùng
Đông Bắc.

Thu đông là mùa “thấp điểm” nhất của du lịch biển Hải Phòng.
1. Các tác động bất lợi của thời vụ du lịch đến kinh doanh du lịch biển.
Tính thời vụ trong du lịch ảnh hưởng bất lợi đến tất cả các thành phần
của quá trình du lịch – đến dân cư sở tại, đến chính quyền địa phương và nhất là
đến khách du lịch và nhà kinh doanh du lịch.
1.1. Các tác động bất lợi đến dân cư sở tại:
Khi nhu cầu du lịch giảm xuống và giảm tới bằng khơng thì những
người làm hợp


đồng theo thời vụ sẽ khơng cịn việc làm. Ngồi ra, ngay cả những nhân
viên cố
định ngoài thời vụ cũng có thu nhập thấp hơn.
1.2 Các tác động bất lợi đến chính quyền địa phương:
Khi cầu du lịch tập trung q lớn sẽ gây ra khơng ít những sự mất thăng
bằng cho việc bảo vệ trật tự an ninh và an tồn xã hội. Ở mức độ nhất định, tính
thời vụ gây ra những khó khăn cho việc quản lý nhà nước đối với hoạt động du
lịch.
Khi cầu giảm xuống và giảm tới mức bằng khơng thì những khoản thu
nhập từ thuế và lệ phí do du lịch đem lại cho du lịch cũng giảm.
1.3. Các tác động bất lợi đến khách du lịch:
Khi cầu du lịch tập trung lớn làm hạn chế khả năng tìm chỗ nghỉ thích
hợp với thời gian tự chọn theo ý muốn. Ngoài ra, vào mùa du lịch chính thường
xảy ra tình trạng tập trung nhiều khách du lịch trên phương tiện giao thông,
trong các cơ sở lưu trú ở các nơi du lịch. Điều đó làm giảm tiện nghi khi đi lại,
lưu trú của khách. Do vậy dẫn đến việc giảm chất lượng phục vụ khách du lịch.
1.4. Các tác động đến nhà kinh doanh du lịch:
- Các bất lợi khi cầu du lịch tăng tới mức vượt quá khả năng cung cấp
của các cơ sở kinh doanh du lịch nhiều lần (độ căng thẳng của độ tập trung cầu
du lịch ):

-

Đối với chất lượng phục vụ du lịch .

-

Đối với việc tổ chức và sử dụng nhân lực .

-

Đối với việc tổ chức các hoạt động cung ứng , các ngành kinh tế và

du lịch có liên quan, dịch vụ cơng cộng.
-

Đối với việc tổ chức hoạch toán .

-

Đối với tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật.

-

Các tác động bất lợi gây ra khi cầu du lịch giảm xuống và giảm

xuống tới mức bằng không .
-

Tác động tới chất lượng phục vụ .



-

Tác đông tới hiệu quả kinh tế trong kinh doanh .

-

Tác động tới việc tổ chức và sử dụng nhân lực nhân lực .

-

Tác đông tới việc tổ chức hoạch toán.

-

Đối với tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật.
2.Thực trạng du lịch Cát Bà.

Năm 2001, Cát Bà có trên 40 khách sạn, trong đó chỉ có 01 khách sạn
nhà nước với 40 phòng, còn lại phần lớn là của tư nhân hoặc cổ phần với qui mô
nhỏ từ 10 đến 20 phòng. Tất cả các khách sạn này đều được xây dựng theo kiểu
tự phát, chấp vá, manh mún, các chất thải lỏng, thậm chí cả chất thải rắn đều
được đưa xuống bãi biển ngay trước mặt khách sạn thông qua đường ống cống.
Về phương tiện vận chuyển các loại của các tỉnh thường xuyên hoạt
động trên đảo, đó là chưa kể đến hàng ngàn chiếc tàu đánh cá loại nhỏ (gia đình)
thường xuyên neo đậu, sinh sống trên đảo.
Việc kinh doanh du lịch ở đây còn tuỳ tiện, công tác đào tạo nghiệp
vụ cho những người làm du lịch trên đảo gặp nhiều khó khăn, phần lớn lao
động ở đây đều làm việc theo thời vụ, họ được tuyển dụng từ những vùng
quê hoặc là những người dân chài của các tỉnh sống di cư trên đảo.

Lượng khách du lịch đến Cát Bà không cân đối, ít về mùa đông nhưng
lại quá tải về mùa hè dẫn đến tình trạng khi thì dồn nén khách, khi thì chèo kéo
khách, chính quyền địa phương khơng kiểm sốt được giá cả, nộp ngân sách địa
phương còn thấp, săn bắt động thực vật, chặt cây, hái củi… vẫn còn tồn tại.
Có thể nói Cát Bà vẫn cịn nhiều khó khăn trong việc đi lại, giá điện và
nước sạch. Vấn đề này không những chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của Cát Bà mà còn gây ra những trở ngại cho việc đầu tư, phát triển
các hoạt động du lịch.
3.Hoạt động du lịch nghỉ biển của Hải Phịng có nhiều khởi sắc.
Khai thác hiệu quả phục vụ vận chuyển khách bằng đường không là
hướng đi mới tích cực tạo động lực tăng trưởng kinh tế, thương mại và du lịch


hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Với những cố gắng của thành phố
cũng như Tổng Cục hàng không dân dụng Việt Nam, sân bay Cát Bi được cải
tạo, nâng cấp với đường băng, sân đỗ, nhà ga, nhà điều hành bay, hệ thống dẫn
đường, thông tin vệ tinh hiện đại đón khách 24/24 giờ trong ngày. Sân bay Cát
Bi cũng chính thức được Hiệp hội hàng không quốc tế công nhận đạt tiêu chuẩn
ICAO, đủ điều kiện thực hiện các chuyến bay từ Hải Phòng đi Đà Nẵng, thành
phố Hồ Chí Minh và đến các sân bay quốc tế trong khu vực.
Các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được chủ động thực hiện với
nhiều loại hình phong phú, đa dạng thực sự tạo sức hấp dẫn cho du khách và các
nhà đầu tư. Ngành du lịch đã xây dựng Websibe du lịch Hải Phịng và thường
xun truy cập thơng tin về du lịch thành phố trên Websibe của Tổ chức xúc tiến
du lịch các thành phố khu vực châu Á - Thái Bình Dương; phối hợp với Truyền
hình thực hiện Chương trình giới thiệu điểm đến của du lịch Hải Phịng phát
sóng tới các khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ, Canada; đồng thời đẩy mạnh các hoạt
động xúc tiến, quảng bá du lịch mở rộng thu hút du khách tại các nước Trung
Quốc, Hàn Quốc, Lào, Malaysia...
Đã qua những tháng cao điểm của mùa du lịch biển do đặc thù thời tiết,

lượng khách đến Hải Phòng giảm 8,2%. Tuy vậy, khác với mọi năm, lượng
khách quốc tế đến với các khu du lịch trên địa bàn thành phố trong thời điểm
này vẫn ổn định và tăng 14,4%, kéo theo doanh thu tăng 4,1% - do tuyến bay
quốc tế MaCao/Hồng Kơng-Hải Phịng chính thức đi vào ổn định từ ngày
04/9/2006. Tính đến ngày 20/10, tuyến bay quốc tế MaCao/Hồng Kơng-Hải
Phịng đã thực hiện 96 lượt chuyến bay đi và đến với tổng số khách là 4.543 lượt
khách, hệ số sử dụng ghế đạt 59%.
3.1.Những khởi sắc trong du lịch biển Cát Bà.
Năm nay lượng khách du lịch đến Cát Bà tăng đột biến. Tính từ đầu
năm đến nay, tổng lượt khách du lịch đến Cát Bà đạt gần 400 nghìn lượt, bằng
90% kế hoạch, tăng 103% so với cùng kỳ năm 2005; trong đó, khách quốc tế


ước khoảng 117 nghìn lượt, doanh thu từ du lịch - dịch vụ đạt 83,5 tỷ đồng. Với
Cát Bà, đã mở rộng đường hè, hồn thành khn viên cây xanh tại thị trấn, đưa
Công viên nước vào họat động; cải tạo cầu nối bãi tắm Cát Cò I, II và tăng
cường vệ sinh các bãi tắm; xây dựng mới một số biển chỉ dẫn bằng hai thứ tiếng
Việt - Anh... thu hút lượt khách tăng 3,1% (khách quốc tế tăng 15,4%), doanh
thu tăng 26,4% so cùng kỳ.
3.2. Một hình ảnh hoàn toàn mới về du lịch biển Đồ Sơn.
Đến với Đồ Sơn dịp này, du khách chắc chắn sẽ cảm nhận được nhiều
sự thay đổi ở khu du lịch này. Thay vào con đường hẹp, gập gềnh là con đường
mới thênh thang rộng mở với 4 làn xe chạy từ cầu Rào đi Đồ Sơn. Suốt chiều dài
tuyến đường rộng thênh thang 20km, là những cây xanh, thảm cỏ đủ màu khoe
sắc và những dự án về du lịch, khu liên hợp thể thao đa chức năng đã và đang
được hồn thành nhanh chóng.
4. Những vấn đề cịn tồn tại trong kinh doanh du lịch nghỉ biển ở
Hải Phòng.
4.1.Vấn đề về cơ sở kỹ thuật.
Để Hải Phòng trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế, du

lịch thành phố vẫn còn những bất cập chưa thật sự hấp dẫn du khách. Tại các
khu du lịch trọng điểm Đồ Sơn, Cát Bà việc thực hiện niêm yết giá dịch vụ du
lịch chưa được thường xuyên; vẫn còn các điểm kinh doanh dịch vụ không đúng
quy hoạch làm mất mỹ quan tại khu du lịch Đồ Sơn; các bãi tắm khu du lịch Cát
Bà còn thiếu phương tiện cứu hộ và điều kiện cấp cứu, giá phòng ngủ tăng giảm
thất thường theo lượng khách. Du lịch sinh thái đa dạng song cịn thiếu tính
chun nghiệp, làm cho du khách chưa mặn mà với các tua du lịch; các doanh
nghiệp lữ hành hoạt động hiệu quả thấp
4.2. Vấn đề môi trường:
Với quy mô to lớn của sự phát triển du lịch biển hiện nay, địi hỏi tìm
kiếm những vùng đất mới để phân bố các cơ sở nghỉ mát du lịch. Môi trường du
lịch biển là môi trường du lịch mỏng manh, dễ bị phá vỡ trước quá trình địa lý


hiện đại và sự tác động của các hoạt động kinh tế của con người. Tập trung
những người đi nghỉ trên một sự căng thẳng khơng kham nổi có thể huỷ hoại giá
trị thiên nhiên của các địa điểm ấy. Khi quy hoạch du lịch biển phải chú ý
nghiêm ngặt đến vấn đề bảo vệ đất đai và môi trường vùng biển có lợi cho việc
xây dựng và phát triển vùng biển sau này. Trong trường hợp không thể khai thác
ngay, cần phải gìn giữ tránh xây dựng tràn lan các cơng trình ít giá trị. Điển hình
nạn lấn chiếm đất dai du lịch biển bằng những nhà cửa riêng lẻ, kiến trúc tầm
thường, các xí nghiệp, bến bãi kho tàng bừa bộn hiện nay.
4.3. Các vấn đề khác.
Mặt khác, cơng tác tun truyền quảng bá sản phẩm cịn rất hạn chế.
Nội dung nghèo nàn. Các cơng ty chưa có chiến lược marketing, đăc biệt trong
quan hệ quốc tế: hầu như chưa có các văn phịng đại diện ở nước ngồi, chưa có
đầy đủ thơng tin hấp dẫn trên các tờ gấp, trang web… Những mảng thông tin
giới thiệu về đất nước, con người chưa đầy đủ hấp dẫn nên chưa giúp cho khách
hiểu về những nét đặc sắc, độc đáo, truyền thống văn hoá dân tộc của con người
Việt Nam trước khi họ quyết định đi du lịch.

Trên thực tế, thì nhu cầu về du lịch tăng lên rất mạnh kể cả du lịch nội
địa cũng như quốc tế, những khả năng cung cấp của chúng ta sẽ khó khăn trong
việc đáp ứng kịp cung cũng như cầu. Phần cung ở đây là các khách sạn, nhà
hàng, nhà dân, giao thơng...(nói chung là hạ tầng du lịch). Những địa chỉ thực sự
là điểm sáng an toàn toàn và chất lượng, để tạo nên những sản phẩm phục vụ
trong du lịch là rất khiêm tốn thậm chí cịn thiếu thốn. Phần cầu có nhiều mặt,
nhưng chủ yếu là nguồn nhân lực và môi trường trong lành, không bị ô nhiễm
đang là vấn đề thiếu và yếu. Hai khía cạnh này là vấn đề nóng bỏng, cấp bách
cần giải quyết cụ thể ngay.
C/ Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hạn chế tác động bất lợi của
thời vụ du lịch đến sự phát triển du lịch ở Hải Phòng.
I.

Một số đề xuất và kiến nghị.


Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII
Đảng bộ thành phố; Chiến lược Phát triển bền vững thành phố giai đoạn 20062010, định hướng đến 2020; Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng
bộ thành phố, từ tình hình, điều kiện thực tiễn, mục tiêu phát triển du lịch thành
phố đề ra là: Từng bước xây dựng Hải Phòng thành một trong những trung tâm
du lịch quốc tế, đào tạo nhân lực du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch cho các địa
phương phía Bắc. Tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch theo hướng hiện đại, đồng bộ; đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản
phẩm du lịch; ưu tiên đầu tư cho khu du lịch trọng điểm Cát Bà và Đồ Sơn; tăng
cường hợp tác du lịch trong nước và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2010 đạt trên
5,6 triệu lượt khách du lịch; GDP du lịch chiếm 4,5% tỷ trọng GDP của kinh tế
thành phố.
Trước hết phải khẳng định rằng Cát Bà là một quần đảo sinh thái
điển hình có giá trị du lịch biển vào loại bậc nhất Việt Nam. Bởi vậy các nhà
kinh doanh du lịch ở đây không thể chỉ rừng lại ở việc đảm bảo cho khách đi

tham quan, nghỉ dưỡng, mà còn phải biết giáo dục môi trường cho cả du khách
và cộng đồng địa phương. Cho nên, việc cần làm ngay là phải hình thành tại đây
một khu du lịch biển mang tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế, cần có một Ban Quan
lý khu du lịch để quản lý và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách
bền vững và hiệu quả. Đồng thời, cần hoạch định chiến lược phát triển du lịch
khu vực bằng một số biện pháp cụ thể như xây dựng quy hoạch bảo tồn thiên
nhiên Cát Bà để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nguồn vốn đầu tư.
Đối với khu du lịch trọng điểm Đồ Sơn, Cát Bà cần hoàn thiện quy
hoạch chi tiết, tập trung đầu tư theo hướng hiện đại, đồng bộ; khẩn trương thực
hiện các dự án khách sạn cao cấp, khu du lịch quốc tế đảo Dáu, tháp Tường Long,
sân gôn Đồ Sơn... quan tâm xây dựng các bãi tắm trở thành khu vui chơi giải trí,
tắm biển hấp dẫn du khách.
Chiến lược phát triển mới của thành phố là : Xác định mục tiêu
phát triển du lịch Hải Phòng theo hướng du lịch sinh thái biển kết hợp với du


lịch văn hóa, lễ hội, Sở Du lịch đã tham mưu với Ủy ban nhân dân thành phố tập
trung chỉ đạo đầu tư, nâng cấp một số điểm du lịch văn hóa, từng bước hồn
thiện các cơng trình xây dựng hạ tầng phục vụ du lịch tại hai trọng điểm du lịch
là: Đồ Sơn và Cát Bà, chú trọng phát triển nguồn nhân lực du lịch, tiếp tục kêu
gọi các dự án đầu tư, thường xuyên hướng dẫn, nắm bắt và kiểm tra các hoạt
động du lịch, có kế hoạch điều chỉnh để phát triển du lịch phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội hiện nay của thành phố.
II.Các phương hướng và giải pháp chính làm giảm những tác động
bất lợi của tính thời vụ trong du lịch.
1 . Làm tăng mức độ phù hợp tối ưu giữa cung và cầu.
♦ Các biện pháp chủ yếu ở đây là :
-

Tổ chức lao động hợp lý – các doanh nghiệp có quỹ lao động cơ


hữu và lao động hợp đồng theo thời vụ .
-

Liên kết với các đơn vị kinh doanh bên cạnh để hổ trợ về nguồn

nhân lực lúc q tải .
-

Tạo cơng ăn việc làm ngồi thời vụ du lịch cho cán bộ công nhân

viên của doanh nghiệp.
2. Làm kéo dài độ dài của thời vụ du lịch:
-

Tăng thêm các loại hình (kinh doanh)dịch vụ bổ xung : giải trí ,

tiêu khiển , thể thao, câu lạc bộ.
-

Dùng chính sách khuyến khích , khen thưởng ngồi thới vụ chính :

giảm giá ,thêm dịch vụ khơng mất tiền , tặng quà, tặng tỷ giá hối đoái.
3. Tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai:
Phải xác định được những thể loại du lịch mới có thể phát triển
đạt hiệu quả kinh tế .Việc đánh giá xác định phải dựa trên cơ sở những tiêu
chuẩn sau:
-

Tính hấp dẫn của tài nguyên du lịch vào thời gian ngoài du lịch


-

Khả năng huy động những tài nguyên du lịch chưa được khai thác .

chính


-

Nguồn Khách triển vọng theo số lượng và cơ cấu .
-

Chất lượng và cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật đã có(đánh

giá theo hướng xem cơ sở vật chất kỹ thuật đó có thể thỗ mãn được
những nhu cầu của các đối tượng khách du lịch khác.
Lượng vốn cần thiết để đầu tư xây dựng thêm trang thiết bị phục
vụ cho mùa du lịch thứ hai .
● Xây dựng thương hiệu du lịch Hải Phòng phải được coi là mối quan
tâm hàng đầu, thành phố cần tiếp tục đẩy mạnh rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố Hải Phòng đến năm 2010 và định
hướng 2020 gắn với phát triển văn hố và bảo vệ mơi trường; xây dựng các
chương trình, kế hoạch dài hạn về huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển
du lịch, tập trung đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo
hướng hiện đại, đồng bộ; nâng cao chất lượng các tuyến và các hình thức du lịch
hiện có, khai thác mở thêm các tuyến và các hình thức du lịch mới; đa dạng hoá
và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, xây dựng và phát triển các sản phẩm
du lịch chủ yếu; mở rộng các loại hình thơng tin, quảng bá, xúc tiến du lịch; tạo
sự liên kết, hợp tác có tổ chức chặt chẽ trong các doanh nghiệp du lịch của thành

phố nhằm tăng cường sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.


Kết luận
Hiện nay du lịch Hải Phòng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn
và là khâu đột phá để phát triển kinh tế thành phố.Năm 2006, Ngành du lịch Hải
Phịng có nhiều cơ hội cũng như những thách thức. Những thành tựu đạt được
trong những năm qua, nhất là năm 2006 sẽ tạo đà phát triển tốt cho năm 2007.
Vị thế thành phố du lịch cảng Hải Phòng tiếp tục được duy trì nâng cao và bừng
sáng, đó cũng là nhân tố khách quan để chúng ta tiếp tục đầu tư mạnh cả chiều
rộng và chiều sâu để phát triển cho được một chiến lược du lịch . Năm nay, đặt
ra những thách thức lớn, đó là khả năng của chúng ta đáp ứng cơ hội hội nhập là
rộng mở, cần sẵn sàng chuẩn bị đủ năng lực để đáp ứng.Hi vọng trong tương lai
không xa, Du lịch Hải Phịng sẽ có một bộ mặt hồn tồn khác, mới mẻ hơn và
tiến bộ hơn, xứng đáng với những gì mà thiên nhiên đã ban tặng , để Du lịch Hải
Phòng sẽ như con rồng bay vào thế kỷ mới.




×