Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tho ve Thay co

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.1 KB, 40 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Bé tập viết (Phạm Đình Nhựt) (06/11/2010)


Bàn tay cầm bút xinh thon
Bé ngồi tập viết o trịn che ơ
Luyện theo đường hướng dẫn tơ
Vậy mà nghiêng, lệch ngã xô cả vào


Long lanh đôi mắt trái đào
Môi cười chúm chím, yêu sao dáng ngồi


Reo vang: 'Con viết xong rồi!'
'Cái ô to lắm mà trời chẳng mưa'.


<b>BÀI THƠ DÂNG THẦY</b>


<b> Nguyễn Lãm Thắng</b>


Như ngàn con sóng dạt dào
Vịng tay rộng mở ngọt ngào u thương


Thời gian bụi phấn cịn vương
Tóc thầy thêm những vui buồn tháng năm


Lòng thầy khắc một chữ tâm
Bao chuyến đị, bấy nghĩa nhân vời vời


Tình thầy cao rộng biển trời
Làm sao con viết thành lời… khó thay!


Đã bao năm, con làm thầy
Cũng đưa bao chuyến đò đầy sang sơng



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Chưa làm trịn những hồi mong của thầy
Vụng về câu chữ đêm nay


Dâng thầy một chút lòng này cỏn con
Gieo câu lục bát chưa tròn
Bài thơ con viết vẫn cịn… dở dang!


Thơ tình người đứng tuổi (Nguyễn Trọng Tạo) (13/11/2010)


<b>THƠ TÌNH NGƯỜI ĐỨNG TUỔI</b>


<b> Nguyễn Trọng Tạo</b>


sao người chẳng hỏi một câu
ngây thơ như thuở đã lâu, hỡi người


sao người chẳng đếm sao trời
cho tôi sống lại cái thời trẻ con?...


cái thời ngọn cỏ thì non


bơng hoa như quả chng con người cầm
cái thời giọng hát trong ngần
nắm bàn tay, để một lần chia tay.


bây giờ cao bổng vịm cây
dịng sơng trôi đã vơi đầy tháng năm


áo tôi đạn xé bao lần



tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ.
lá rừng rụng mấy mùa khô
trang thư qua mấy mùa mưa phập phồng


chiến trường tây, chiến trường đơng
gặp dịng sơng, nhớ dịng sơng, nhớ mình...


lắm khi ngỡ đến vơ tình


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sau cơn sốt rét xa nhà mười năm
bây giờ qua cuộc chiến tranh
bây giờ qua tuổi xuân xanh tôi về


bàn tay người có gầy đi
run run nước mắt ướt nhịe ngực tơi


vẫn dịng sơng thuở xa xơi
vẫn bờ đê gió xanh ngời trăng khuya


vẫn là người của ngày xưa
mà bàn tay nắm như vừa yêu nhau!...


<b>N.T.T</b>


<b>GẶP LẠI</b>


<b>Đàm Đức Lợi</b>
Áo cơm cứ mải miết đi
Quờ tay chạm 'Cổ lai hy' mất rồi



Tóc nghiêng sợi nhớ bồi hồi
Nắng mưa chèo chống cho đời bến xn.


Gót mịn, phấn vẫn trắng ngần
Bước đi mải miết gieo vần ước mơ


Vui chung đầy ắp bến bờ
Nỗi riêng len lỏi sững sờ mắt nhau…


Sông đời trong- đục, nông- sâu
Lựa từng con chữ dựng cầu tin yêu…


Bóng ai đi đứng liêu xiêu
Vẳng nghe lời bạn nhắn điều chi đây:


'Các bạn cứ uống thật say
Hàn huyên cho bõ những ngày xa nhau


Rồi ra người trước kẻ sau
Cuộc đời hư ảo biết đâu mà lường.


Bấy nay cách biệt âm dương
Nhớ trần gian vượt dặm trường về đây


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bước chân đã mỏi đường ngày lối đêm
Ước gì ta có phép Tiên


Mãi làm Phấn trắng đi trên cõi Trần
May cịn níu được chữ Nhân


Kẻ sống, người chết quây quần tràn say


Hoàng hôn các bạn hôm nay:
Dưỡng sinh, thơ phú… tràn đầy tin yêu!'


Nghe như nắng ngẩn ngơ chiều
Vườn xưa xoắn xuýt tình yêu Cỏ gà !


Vét Xuân, đất dậy mùa hoa
Thơ Tình lên Mạng chan hồ tiếng chim.


<b>HUẤN CAO*</b>


<b>Nguyễn Duy Xuân</b>
Lạnh lùng chúi xuống rỗ gông
Vẫn khinh khi, vẻ anh hùng trần ai


Tài hoa khí phách hơn người
Sa cơ lỡ vận vẫn ngời lòng nhân


Lao lung ngạo nghễ tinh thần
Ung dung tự tại, đâu cần lụy ai


Cả đời chỉ lạy hoa mai
Mến yêu cái đẹp, cho đời lưu danh


Đêm nay nhà ngục hôi tanh
Bỗng thành hội quán, lung linh thư phịng


Chân vướng xiềng, cổ đeo gơng


Huấn Cao múa bút, nét rồng phượng bay


Ở đâu thỏi mực thơm này
Cả vuông lụa nữa... Này thầy quản ơi


Ở đây hoen ố mất thôi


Muốn chơi chữ đẹp – giữ đời thanh tao!
Ngục quan, thơ lại nghẹn ngào
Cúi đầu bái lĩnh, thu vào tận tâm


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>



Kỉ niệm 100 năm sinh Nguyễn Tuân
04 - 6-2010


<b>N.D.X</b>


(*) Nhân vật trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân


<b>Câu thơ lục bát là gốc của một số làn điệu dân ca Quan họ</b>



(Phạm Thanh Cải)


Quan họ là một làn điệu dân ca, một lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc
Bộ, mà tập trung chủ yếu ở vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc.


Nội dung chính trong buổi hát quan họ thường là khi hai bên nam - nữ hát đối nhau. Bên
nam gọi là liền anh, bên nữ gọi là liền chị. Các câu hát có thể được chuẩn bị sẵn, nhưng ra đến
khi đối đáp nhau thì thường dựa trên khả năng ứng biến của hai bên



Các chàng trai, cô gái xứ sở quan họ hào hứng, hồi hộp đón chờ ngày hội làng, bởi trong
những ngày hội đó, họ được thức thâu đêm, suốt sáng để được nghe, được hát và thi hát. Qua
đó, họ học thêm ở nhau những câu ca, những làn điệu mới, họ tìm thấy ở nhau sự đồng cảm
qua những ánh mắt, nụ cười.




Hầu hết lời ca của các bài ca Quan họ là thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Có tài liệu đã
thống kê, phân loại thì thấy trong tổng số 285 bài lời ca Quan họ in trong cuốn sách ấy, có 237
bài theo thể lục bát hoặc lục bát biến thể, chiếm chừng 80%, 29 bài theo thể bốn từ hoặc bốn từ
hỗn hợp, chiếm 12%, 19 bài theo các lối biến thể khác 8%.




<b>Một số bài hát quan họ có lời gốc là thơ 6/8 và 4/8.</b>
Thể thơ Lục bát 6/8:


<b>Trống cơm</b>
Trống cơm khéo vỗ nên bơng
Một đàn con xít lội sơng đi tìm


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tình bằng có cái trống cơm
Khen ai khéo vỗ


Ố mấy bông mà nên bông
Ố mấy bông mà nên bông
Một bầy tang tình con xít
Một bầy tang tình con xít
Ố mấy lội, lội, lội sơng



Ố mấy đi tìm, em nhớ thương ai
Đôi con mắt ố mấy lim dim
Đôi con mắt ố mấy lim dim
Một bầy tang tình con nhện
Ơ ố ơ ơ mấy giăng tơ


Giăng tơ ơ mấy đi tìm, em nhớ thương ai
Duyên nợ khách tang bồng


Duyên nợ khách tang bồng...
<b>Trúc xinh</b>
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh


<i>Trúc xinh trúc mọc sân đình</i>


Em xinh em đứng một mình cũng xinh


Khi hát lên sẽ thành:


Cây i trúc xinh, tang tình là cây trúc mọc
Qua i lối nọ i như bờ ao


Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng
đứng, đứng nơi nào qua lối như cũng xinh
đứng, đứng nơi nào qua lối như cũng xinh
Cây i trúc xinh, tang tình là cây trúc mọc
Qua i lối nọ i như bên đình



Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng
đứng, đứng một mình qua lối như cũng xinh
đứng, đứng một mình qua lối như cũng xinh


<b>Cịn dun</b>


Cịn dun kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lịng


Cịn dun ngồi gốc cây thơng
Hết dun ngồi gốc cây hồng hái hoa


Yêu nhau chơi cửa chơi nhà
Cho thầy mẹ biết, đuốc hoa định ngày


Cịn dun bn nụ bán hoa
Hết duyên ngồi gốc cây đa đợi chờ


Đừng thấy lắm bạn mà ngờ
Tuy rằng lắm bạn vẫn chờ người ngoan
Khi hát lên sẽ thành:


Còn duyên là duyên kẻ đón a đón người đưa
Hết i duyên là dun đi sớm sớm về trưa í mặc lịng
Người cịn khơng đây tơi vẫn ở khơng


Tơi mà cịn khơng, đây em chửa có chồng
Đây tơi chửa có ai, tính a tinh tính tình tình tinh
A hội hà, hư hội hừ là hứ hội hừ



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Hết í duyên là duyên ngồi gốc gốc cây hồng là hồng hái hoa
Có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà


Cho thầy là thầy mẹ biết để đuốc hoa đuốc hoa định ngày
Tính a tinh tính tình tình tinh


A hội hà, hư hội hừ là hứ hội hừ


Cịn dun là dun bn nụ nụ bán hoa


Hết i duyên là duyên ngồi gốc cây đa chứ đa đợi chờ
Đừng thấy tơi lắm í bạn mà ngờ


Tuy rằng tôi lắm bạn nhưng vẫn chờ là chờ người ngoan
Tính a tinh tính tình tình tinh


A hội hà, hừ hội hừ là hứ hội hừ
Thế thơ 4/8


<b>Ngồi tựa song đào</b>
Ngồi tựa song đào
Hỏi người tri kỷ ra vào vấn vương


Gió lạnh đêm trường


Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường, đợi ai.
Khi hát lên sẽ thành


Ngồi rằng là ngồi tựa ối a song đào
ngồi tựa ối a song đào



Hỏi người là người tri kỷ ra vào có thấy vấn vương
Hự rằng hứ hối hư


Gió rằng là gió lạnh ối a đêm trường
Gió lạnh suốt đêm đơng trường


Nửa chăn là chăn nửa chiếu ối a cũng có nửa giường là nửa giường để đấy đợi
ai


Hự rằng hứ hối hư


Ca dao theo thể thơ lục bát là gốc của nhiều làn điệu dân ca. Những câu thơ lục bát
mang đậm âm hưởng và hưng sắc tâm hồn Việt khi biến thành ca khúc nó càng đằm thắm và
man mác tỉnh thơ của con người với tự nhiên và xã hôi. Ca dao dân ca truyền khẩu là kho tàng
văn hố dân tộc vơ cùng q báu, nó là di sản của cha ơng ta từ ngàn đời nay để lại cho con
cháu.


Sau Nhã Nhạc cung đình Huế và cồng chiêng Tây Nguyên, Việt Nam đã có thêm 2 di sản
phi vật thể được UNESCO công nhận: Quan họ là di sản phi vật thể đại diện, và Ca trù là di sản
phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Giờ đây, Quan họ, Ca trù, Cồng chiêng, Nhã nhạc đã trở
thành tài sản chung của toàn thế giới. Bảo tồn kho tàng di sản văn hóa vơ giá này, từ nay đến
mai sau khơng chỉ còn là nhiệm vụ riêng của dân tộc Việt Nam, mà còn là nghĩa vụ của chúng ta
đối với toàn nhân loại.


Tham khảo http// e-cadao.com


<b>Phạm Thanh Cải</b>


LẬP ĐƠNG 1



<i>Gió về mùa đã lạnh chưa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Hanh heo mấy để ấm lịng</i>
<i>Xa xơi mấy để thuỷ chung về gần</i>


LẬP ĐÔNG 2


<i>Cuối năm rét khác bây giờ</i>
<i>Căm căm nắng cũng tựa hồ đóng băng</i>


<i>Đầu mùa rét mới chớm sang</i>
<i>Dịu dàng chút ấm cịn vương trước thềm.</i>


<i>07-11-2010 (LẬP ĐƠNG)</i>


<b>Kỹ năng thuyết trình</b>


-Mực tím –


Thuyết trình bằng giáo án điện tử là một trong những cách “trực quan sinh động” làm
tăng hiệu quả học tập.


Môi trường làm việc nghiêm túc, năng động đầy đủ phương tiện ở bậc đại học đã tạo cơ
hội cho sinh viên chúng tơi phát huy kỹ năng thuyết trình ở mức tốt nhất. Nếu các bạn
học sinh phổ thông cũng áp dụng những kinh nghiệm dưới đây, thì chất lượng học tập sẽ
được nâng lên đáng kể.


Qua rồi cái thời học sinh chỉ biết thụ động đọc – chép. Phương tiện giảng dạy hiện đại
ln có sẵn, nội dung bài học ln địi hỏi các bạn phải tích cực tìm kiếm tài liệu để
nghiên cứu thêm, hoặc ứng dụng thực tiễn. Do vậy, thuyết trình bằng giáo án điện tử là


một trong những cách “trực quan sinh động” nhằm làm tăng hiệu quả học tập.


Sau đây là một số kỹ năng thuyết trình bằng giáo án điện tử mà các bạn học sinh thường
ít chú ý và hay mắc sai sót. Để đạt được hiệu quả tuyệt đối, các bạn nên


Đồn kết và có trách nhiệm


Các bạn học sinh phổ thơng thường có thói quen làm việc lẻ tẻ, dù có chia nhóm thì đa
phần nhóm trưởng đảm trách rất nhiều cơng việc, thậm chí cịn “ơm sơ tồn bộ”. Vì vậy,
chỉ có nhóm trưởng đạt điểm cao, các thành viên khác chỉ việc “hưởng thụ”, khơng đóng
góp chút cơng sức nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

công việc cho từng người và mọi thứ đều trao đổi qua email. Mọi người luôn phải nội tài
liệu đúng thời hạn. Không ai bảo ai, nhưng họ đều có ý thức tốt, có tinh thần đồng đội,
hết mình vì giáo án điện tử của mình. Khi tác phẩm được hoàn thành, mọi người cùng hội
ý, bàn lại để chỉnh sửa.


Phân cơng “lao động”


Như đã nói, từng thành viên trong nhóm đều có việc phải làm. Bạn có thể chia ra và phân
cơng cho mỗi người một trong những việc sau: tìm tư liệu ở một phần nào đó, tìm hình
ảnh minh họa, tổng hợp và phân tích tư liệu, thiết kế nội dung trong Power Point, chỉnh
sửa và trang trí, nghiên cứu kĩ để đứng trước lớp thuyết trình, ứng phó với những câu hỏi
hóc búa từ các nhóm khác.


Sự bình đẳng


Khi thuyết trình trước lớp, nếu làm việc nhóm, các bạn nên để từng người trong nhóm
thay phiên thuyết trình, như thế sẽ tạo hiệu quả cao, tránh gây nhàm chán và bạn nào
trong nhóm cũng hiểu bài, cũng phải tìm tịi để truyền tải nội dung bài học đến với các


bạn nhóm khác. Hơn nữa, tránh thể hiện cái tôi cá nhân và luôn phải làm việc theo nhóm,
khơng nên hành động lẻ tẻ, dễ dẫn đến những sai sót (ví dụ, trong lớp tơi có một bạn tự
đứng trước lớp chê chính bài thuyết trình của nhóm mình, điều đó thể hiện sự mất đồn
kết nội bộ).


Tích cực và tự tin


Các bạn sinh viên ở bậc đại học thường suy nghĩ thoải mái, dễ chịu hơn học sinh phổ
thông nên họ tự tin và khơng sợ mất lịng người khác. Có những buổi thuyết trình xảy ra
rất căng thẳng vì các nhóm ln đặt vấn đề hỏi ngược lại nhau nhằm gây khó dễ cho
nhau, hệt như một cuộc “đại chiến” thực thụ, nhưng nhờ sự khó khăn đó mà mọi người
hiểu bài sâu hơn, nhận ra nhiều khuyết điểm từ đề tài của nhóm mình hơn, và rút kinh
nghiệm cho lần sau. Nhờ vậy, bài thuyết trình sau ln chất lượng hơn bài thuyết trình
trước và mọi người ln tìm hiểu chun sâu trước khi thuyết trình vì sợ bị hỏi khó. Dù
trong lớp, mọi người “đàn áp” nhau như thế, nhưng khi học xong vẫn vui vẻ thoải mái
như thường. Các bạn học sinh nên chú ý kĩ điều này


Rút kinh nghiệm sau mỗi bài


Các sinh viên chúng tơi, tự học là chính nên ln có trách nhiệm với những “đứa con tinh
thần” của mình. Sau những buổi thuyết trình cực kì căng thẳng, chúng tơi hội ý lại và
cùng phân tích những điểm yếu từ bài thuyết trình cũng như một vài thiếu sót của từng cá
nhân, để ở buổi thuyết trình sau làm việc tốt hơn. Các bạn học sinh thường viện lí do
“khơng có thời gian” nên hiếm khi có hoạt động này. Hơn nữa, tinh thần tự giác của các
bạn chưa cao. Các bạn cịn thói quen “đùn đẩy trách nhiệm” và coi trọng điểm số, nếu có
điểm thì làm tốt, khơng thì chẳng làm. Tinh thần đồng đội cũng chưa cao, nhóm khơng ổn
định (nên việc quản lý thành viên và phân công nhiệm vụ cũng phức tạp).


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

giờ cũng là cách để các bạn chuẩn bị cho tương lai, khi bước chân vào môi trường đại
học.



<b>CHIA TAY MÙA THU</b>
<b>Nguyễn Thị Thúy Ngoan</b>


Thôi chia tay nhé mùa thu
Trời xanh thôi biếc sương mù đã giăng


Với tay buộc nửa vầng trăng
Mắc lên làm võng em nằm ru thơ


Ru thời con gái ngu ngơ
Cầu vồng bắc nhịp em mơ thật nhiều


Tay cầm một lá bùa u
Bây giờ ngoảnh lại thì chiều trắng tay


Bồ hịn đắng, quả ớt cay
Em ngồi nhặt chút heo may cuối mùa


<b>VỌNG THU</b>


<b>Trần Xn Trường</b>


Nhạt nhịa lối cũ mưa rơi
Bên sơng tiếng vạc đầy vơi sóng lịng


Gọi đị, đị đã sang sơng
Người đi tình ở mênh mơng chốn nào?


Biết rồi cứ gửi cứ trao


Cứ trông cứ đợi cứ ao ước cùng


Em như làn nước mát trong
Ta con sóng biếc thong dong tháng ngày


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Chỉ còn câu hát bỏ quên
Người đi xa mãi về miền nắng phai....


<b>ĐI TÌM</b>


<b>Nguyễn Thị Kiều Việt</b>
Tơi đi tìm gió cho mây
Tìm tia nắng ấm cho ngày mưa ngâu


Tìm sơng để bắc nhịp cầu
Tìm hoa cho trẻ cài đầu làm dun


Tơi đi tìm bến cho thuyền
Tìm nhịp tim giữa truân chuyên cuộc đời


Tìm thật trong giả người ơi
Tìm xuân về với đầy vơi rượu cần


Tìm câu lục bát gieo vần
Tìm người tri kỷ quây quần thơ ca


Tìm gần rồi lại tìm xa
Tìm nơi núi thẳm cùng là sơng sâu


Đi tìm những đẩu những đâu


Vẫn chưa tìm được một câu cho đời


<b>VỢ TÔI</b>


<b> Vũ Nhang</b>
Vợ tôi chân chất người quê
Sáng ra đồng cạn tối về đồng sâu


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Ruộng nương hôm sớm theo trâu cày bừa


Tháng ngày gánh nắng, đội mưa
Quên đi một thuở năm xưa má hồng


Lối về tím cả chiều đông


Bữa cơm rau muối yêu chồng thương con


Thuỷ chung một dạ sắt son
Tảo tần hơm sớm đã mịn gót chân


Lịng như hạt gạo trắng ngần
Một đời thanh bạch, chẳng cần vàng son


Nắng mưa năm tháng chẳng sờn
Như hoa sen nở dưới bùn vẫn tươi


Tơi thương người vợ của tơi
Vì chồng con, cả một đời thuỷ chung.


<b>ĐÔNG VỀ</b>



<b> Thu Hà</b>


Đơng về rồi đó thật sao?
Mùa sang chớm lạnh lùa vào tứ thơ


Chiều giăng lãng đãng sương mờ
Ai đem nhớ thả bên bờ sơng qn?


Khóa lịng hờ hững gài then
Cửa tương tư chợt để quên khép hờ


Lỡ thuyền ta lạc bến mơ
Cho xin nhé… nửa câu thơ làm chèo…


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>Nguyễn Tấn On</b>
Buổi về vấp một cơn mưa
Ướt vai lục bát sơng xưa tím dòng
Trường Tiền cong nhịp chờ mong
Bàn chân chai cục long đong - tôi về


Đưa tay hứng giọt mưa quê
Giọt trong tay bụm, giọt về triền sông


Giọt rơi vỡ trắng ruộng đồng
Giọt đau đáu chảy vào lòng rưng rưng


Giọt em vui, giọt mẹ mừng
Bên hiên hàng xóm giọt tưng tửng sầu



Cơn mưa trút xuống tình đầu
Tơi về người bỏ đi đâu…? Hỡi tình…!


Đẫm cơn mưa lạnh rùng rình


Tiếng chng Thiên Mụ giật mình - va mưa...


<b>VỢ TƠI</b>


<b> Đặng Cương Lăng</b>


Biết bao mưa nắng dãi dầm
Vợ tôi nào khác thân tằm tháng năm


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Nhả bao tơ bạc, xanh lam dòng đời
Nào em nào mẹ bao lời
Bên tình bên hiếu rối bời đường tơ


Những khi bão nổi sóng xơ
Mái chèo bé nhỏ giữ cho thăng bằng


Cịn tơi sao cứ mơ màng


Chuyện trăng chuyện gió mênh mang biển trời
Việc to việc nhỏ trên đời


Vợ tôi vai gánh cả trời gió to
Suốt đời chẳng thiết phấn tơ
Trong ngồi yên ấm, mong cho bằng người



Vợ tôi chân đất ở đời


Tấm lòng thơm thảo, mấy người biết cho
<b>Đ.C.L</b>


<b>TỪ DỊU DÀNG EM</b>


<b>Đặng Khánh Cường</b>
Phép mầu từ dịu dàng em
Cho tôi quên hết lấm lem tháng ngày


Tuổi hai mươi chợt đâu đây
Còn nguyên run rẩy cổ tay nõn nà


Đất hồng mỗi bước em qua
Bao nhiêu cây lá quanh nhà hồng theo


Mỗi lời là một thương yêu
Lọc qua cay đắng, trong veo tiếng cười


Gập ghềnh suốt nẻo đường đời
Cho tơi phẳng chút tình người nơi em


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>TÍM CHIỀU CỎ NON</b>


<b>Dung Thị Vân</b>
Em về đan cả mùa yêu
Người về say khướt tím chiều cỏ non


Thơ người đau buốt từng cơn


Thương mùa dĩ vãng đau vườn tương tư


Em về tìm hạt mưa thu
Nhớ con đường cũ mây mù nơi đây


Người về nhặt chiếc lá gầy
Mùa thu vàng lá rơi đầy ngẩn ngơ


Em về khóc ướt vần thơ
Ngày mai người có bên bờ yêu thương


Em về nhặt sợi nắng vương
Xin người kết lại đoạn đường lẻ loi


Áo xanh ngày cũ phai rồi
Người ơi chiều vỡ trên đồi cỏ hoang


Tóc em gội nắng chiều vàng
Tim em từng giọt máu loang đợi người


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<b> Nguyễn Bích Lan</b>
Hắt thêm chút lạnh vào sương
Nhặt thêm chút nắng giữa đường mang đi


Đi khăn bay, tóc xịa mi
Heo may cũng đã lỡ thì như em


Qua đêm lá lại vàng thêm
Phong phanh một nỗi niềm riêng bên trời!



Sông xanh không tát mà vơi


Lặng ơm chiếc bóng thu soi hơm nào!
Lời thề lưng lửng tóc thề bay bay... (10/10/2010)


<b>KHÚC EM XƯA</b>
Em cười liếc xéo thế thôi
Vậy mà run rẩy nỗi tôi dại khờ


Vậy mà sóng sánh ước mơ
Ai hay người thích chơi trị ú tim...


Sóng cồn ngập bãi cát mềm
Thương con cịng gió giữa đêm trở về


Cái thời em vẫn chân quê
Lời thề lưng lửng tóc thề bay bay...


Em cười liếc xéo... ô hay
Thế thôi mộng đã tràn đầy thời tôi…


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Khơng ít đơi trai gái ngày xưa đã để lại những giai thoại tình yêu bắt đầu từ cái liếc mắt trong
những đêm trăng hội làng, hò khoan duyên ngãi hoặc Hội Lim quan họ. Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt giao
cảm tạo nên hạnh phúc lứa đôi. Hôm nay tôi lại gặp ánh mắt đặc biệt ẩn mình trong thơ Lê Minh Dung:


<i>Em cười liếc xéo thế thôi</i>
<i>Vậy mà run rẩy nỗi tôi dại khờ</i>


<i>Vậy mà sóng sánh ước mơ</i>
<i>Ai hay người thích chơi trị ú tim...</i>



Từ đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, tác giả Lê Minh Dung chạm cái liếc xéo hiện hữu, hồn nhiên như
mưa sớm đầu mùa, giây phút run rẩy dại khờ không phải là sự yếu đuối mà thực thể là một trình tự cảm
xúc, cái cảm xúc rất con người, rất nhân văn. Từ cái nhìn của em, từ nụ cười của em đã mang đến bao niềm
vui và hy vọng, đã đưa tư duy người thơ đi rất xa và tưởng tượng về một tương lai có em, mơ ước có em
trong đời. Để một ngày nhận ra con gái bao giờ cũng vẫn là con gái thôi, ánh mắt ẩn trong cái liếc xéo kia
trong nụ cười tinh nghịch kia chỉ là một trị đùa vui của em mà thơi - cái liếc xéo ấy vừa là trò chơi ú tim
vừa là chiếc khăn hồng choàng cho ước mơ ngủ yên trong niềm hạnh phúc của những rung động đầu đời.


<i>Sóng cồn ngập bãi cát mềm</i>
<i>Thương con cịng gió giữa đêm trở về</i>


<i>Cái thời em vẫn chân quê</i>
<i>Lời thề lưng lửng tóc thề bay bay...</i>


Cịng gió là loại sinh vật biển thường phơi mình trên cát nhưng cũng rất nhút nhát lại nhanh nhẹn
ẩn nấp khi có sự xuất hiện của con người. Nếu con cịng gió là thân phận của tác giả thì có lẽ khơng phải, vì
tác giả rất tỉnh táo để phán xét những chuyển động của tình yêu. Tác giả đã thốt lên: “Ai hay người thích
chơi trị ú tim”, chừng ấy cũng đủ chứng minh: chấp nhận run rẩy cảm xúc để dệt thành ước mơ là bản lĩnh
của một bản thể rất nhạy cảm, sẵn sàng đón nhận việc gì đến sẽ đến.


Vậy cịng gió là người u của nhà thơ chăng? <i>“Thương con cịng gió giữa đêm trở về/ Cái thời </i>
<i>em vẫn chân quê/ Lời thề lưng lửng tóc thề bay bay”.</i> Liên tiến thể ấy chẳng khác nào như một phạm trù
sắp đặt, người con gái mà tác giả u chính là con cịng gió, con cịng gió tinh nghịch mà nhút nhát ngoảnh
lại lần cuối cùng rồi chui xuống hang cát là một hình ảnh rất nên thơ và sống động, bao năm tháng qua đi,
em trong tôi vẫn vẹn nguyên cảm xúc, người viết đồ rằng đây là mối tình đầu của tác giả nên những kỷ
niệm đã kết tinh trong trí não khơng hề bị sức ép của thời gian. Một hình ảnh của em rất dễ thương: ngày
trẻ con ấy "lời thề lưng lửng - tóc thề bay bay" câu thơ thật đẹp, thật thú vị; nó bổ trợ cho cái liếc xéo của
một khuôn mặt chân quê vừa cong vành mi bên bờ biển vắng là khúc giao thoa tình yêu của người con gái
hiền ngoan và dễ thương. Và chỉ có một tình u như nắng đơng hơn cành xn mỏng thì mới vỡ ịa phiên


khúc vừa tím vừa hồng; cái lưng lửng trong thơ Lê Minh Dung rất thi vị ấy, là mở khép giao mùa, là đợi
chờ tình yêu gọi mời.


<i>Em cười liếc xéo… ô hay</i>
<i>Thế thôi mộng đã tràn đầy thời tôi...</i>


Run rẩy, dại khờ rồi tràn đầy ước mơ của người con trai tuổi mới lớn dành cho người yêu là chất
liệu quê được Lê Minh Dung thể hiện sắc nét trong hình hài bài thơ lục bát - một bài thơ tác giả viết khi đã
đứng tuổi mà thật trẻ trung về thi pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>Đông Nguyên</b>


(Hội viên Hội nhà văn TP.HCM)
ĐT: 0918739515


BẤT NGỜ TRỜI RÉT SÁNG NAY...


<b>Bất ngờ trời rét sáng nay</b>
<b>Quê nhà chắc mẹ mắt gầy nhớ con</b>


<b>Bấm tay từng đốt mỏi mòn</b>


<b>Từng ngày trông Tết. Héo hon. Từng ngày...</b>
<b>Bất ngờ trời rét sáng nay</b>


<b>Có người con gái chờ ai lối về</b>
<b>Áo ấm cịn ở với q</b>
<b>Đơ thành biết có tái tê mùa này...</b>


<b>Bất ngờ trời rét sáng nay</b>


<b>Bài thi gắng viết ngóng đầy tin xa</b>


<b>Mẹ ơi lạnh lắm quê nhà!</b>
<b>Em hỡi có rét khi ra cuối vườn?</b>


<b>Mây trắng phố thị vấn vương</b>
<b>Nếu về quê, gởi người thương tình này...</b>


<b>Bất ngờ trời rét sáng nay...</b>


Cỏ Quê


<b>Gió bấc về!...</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>Đêm nghe gió rượt nhau ngoài đồng, sáng ra con đường lầy cha đi về mỗi </b>
<b>ngày bỗng được hong khô tự lúc nào. Mặt nước đồng líu ríu những cơn sóng nhỏ </b>
<b>dìu nhau đi xa tắp theo chiếc xuồng câu nhỏ bé chơng chênh. Gió lay những ngọn cỏ</b>
<b>gầy đong đưa làm xôn xao đồng rộng. Rồi nắng. Nắng bỗng trở nên rất ấm áp dịu </b>
<b>dàng soi từng cơn gió thổi về...</b>


<b>Gió lùa vào khe vách mỏng lay mẹ dậy sớm hơn. Rồi gió thổi cho bếp lá dừa </b>
<b>của mẹ lập lòe ánh lửa. Ấm nước pha trà cho cha tí tách reo vui. Làn khói mỏng bay</b>
<b>lên từ chén trà nóng mẹ đưa cho cha làm cho gió bỗng trở nên ấm lại. Mẹ nhắc cha </b>
<b>khoác thêm chiếc áo bơng cho cản bớt gió đồng. Đồng xa, gió lộng lồng vào áo kêu </b>
<b>phần phật tiếng thương tiếng nhớ... </b>


<b>Cây lá thức dậy từ rất sớm bởi gió về lay động, nhẹ nhàng ẩn trong khói </b>
<b>sương lãng đãng rồi bừng dậy ưỡn mình thung thăng đón gió. Những ngày gió làm </b>
<b>hàng cây xơn xao trị chuyện ngắm sân trường rực rỡ sắc màu. Gió mang đến lung </b>
<b>linh ngũ sắc cho lớp học, mang bảy sắc cầu vồng rực rỡ chốn hành lang và mang cả </b>


<b>những long lanh lấp lánh của bao nhiêu là màu áo điệu đàng. Chút bối rối mơ màng</b>
<b>cho trái tim ai run rẩy khi nhận ra đơi má nào đó bỗng ửng hồng hơn. Chút ngỡ </b>
<b>ngàng nhận ra nhau khi bàn tay nắm lấy bàn tay cho tâm hồn ấm lại. Hóa ra, gió </b>
<b>đâu chỉ mang về bao lạnh lẽo? Lịng chợt biết ơn lắm những cơn gió sáng nay đã </b>
<b>làm cho người xóa bỏ hết bao khoảng cách giận hờn... Để được độ lượng hơn, để </b>
<b>được tràn ngập những yêu thương...</b>


<b>Gió bấc về!...</b>


<b>Bỗng dưng chợt thấy những xúc cảm bâng khuâng của mình trở nên xa lạ </b>
<b>lắm. Những ngày gió bấc về, chắc chắn rằng những thân phận không nhà sau cơn </b>
<b>bão dữ sẽ lắm liêu xiêu. Vậy thì gió bấc ơi đừng thổi nữa. Và lịng ta bao mâu thuẫn.</b>
<b>Vừa mong gió về cho không gian thêm xao xuyến và lãng mạn, vừa sợ gió về làm </b>
<b>run rẩy những tội tình. Đêm sẽ rất dài đối với những giấc ngủ không chăn chiếu. </b>
<b>Ngày sẽ bất tận với nắm cơm không đủ lót lịng... Và gió vẫn cứ vơ tình thổi về làm </b>
<b>bụi bay cay mắt...</b>


<b>Ừ, gió bấc về!... </b>


Trình Chân


<b>(Đại học An Giang)</b>
<b>Lễ phép (Phạm Văn Tự) (14/10/2010) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Gặp nhau nhớ hỏi, nhớ chào</b>
<b>Một lời hơn cả mâm cao cỗ đầy...</b>


<b>Lễ phép ý đẹp, lời hay</b>


<b>Kính trên, nhường dưới ln hồi khắc ghi!</b>



Nguyễn Trãi



<b>Bách khoa tồn thư mở Wikipedia</b>
<b>Bước tới: menu, tìm kiếm </b>


Nguyễn Trãi


<b>Chân dung Nguyễn Trãi</b>


Cơng việc <b>Nhà văn, Nhà thơ, Chính trị gia</b>


Quốc gia <b>Việt Nam</b>


Giai đoạn sáng tác <b>Nhà Lê</b>


<i>Chủ đề Văn học</i>


Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌<b>), hiệu là Ức Trai (</b>抑齋<b>), 1380–1442, là đại thần nhà </b>
<b>Hậu Lê, một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Công lao sự </b>
<b>nghiệp của ông rất lớn. Đạo đức phong cách của ơng rất cao đẹp. Ơng là một anh </b>
<b>hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại </b>
<b>giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý </b>
<b>học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Năm 1980, ông được UNESCO công </b>
<b>nhận là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ơng.</b>
<b>Ngay từ khi cịn sống, Nguyễn Trãi đã được những người đương thời khen ngợi </b>
<b>là:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<b>Nghĩa là:</b>



<i><b>Dựng nước và làm vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông.</b></i>

Mục lục



<b>[ẩn]</b>


 <b>1 Thân thế </b>
 <b>2 Thời trẻ </b>
 <b>3 Thời Hồ </b>


 <b>4 Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn </b>
 <b>5 Công thần bị tội </b>


o <b>5.1 Bị vạ với người trong họ </b>
o <b>5.2 Vụ án Lệ Chi Viên </b>
o <b>5.3 Gia quyến lưu tán </b>


 <b>6 Được minh oan </b>
 <b>7 Những đánh giá </b>


 <b>8 Dòng dõi Nguyễn Bặc và tổ tiên chúa Nguyễn? </b>


o <b>8.1 Con cháu Nguyễn Bặc? </b>
o <b>8.2 Tổ họ Nguyễn Gia Miêu? </b>


 <b>8.2.1 Nguyễn Công Duẩn </b>
 <b>8.2.2 Nguyễn Đức Trung </b>
 <b>8.2.3 Trường Lạc hoàng hậu </b>


o <b>8.3 Kết luận </b>



 <b>9 Các tác phẩm văn thơ </b>
 <b>10 Chú thích </b>


 <b>11 Xem thêm </b>
 <b>12 Liên kết ngoài </b>


[

sửa

] Thân thế



<b>Chân dung khác của Nguyễn Trãi</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>động, từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ thời đấu tranh chống ách Minh thuộc </b>
<b>(của nhà hậu Trần, của các phong trào nhân dân khắp nước, của nghĩa quân </b>
<b>Lam Sơn) cho tới đầu đời Lê. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn </b>
<b>Phi Khanh, tên hiệu là </b><i><b>Nhị Khê</b></i><b>, vốn gốc làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn (nay</b>
<b>thuộc Chí Linh Hải Dương), nhưng đã di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi tên thành</b>
<b>Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín Hà Tây cũ).</b>


<b>Lúc cịn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên được Trần </b>
<b>Nguyên Đán, tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho. Năm 1374, Nguyễn</b>
<b>Ứng Long đi thi, đậu Bảng Nhãn. Nhưng vì là con nhà thứ dân mà dám lấy con </b>
<b>gái nhà hồng tộc cho nên khơng được Trần Nghệ Tông cho làm quan và đành </b>
<b>trở về quê dạy học.</b>


[

sửa

] Thời trẻ



<b>Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất.</b>


<b>Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với cha là Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Trần Ngun </b>
<b>Đán về trí sĩ ở Cơn Sơn, đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Côn Sơn lại chính là </b>
<b>nơi q tổ của họ Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, </b>


<b>huyện Phượng Nhãn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị </b>
<b>Khê ở với cha.</b>


[

sửa

] Thời Hồ



<b>Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở khoa thi </b>
<b>đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm 1401, Nguyễn </b>
<b>Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, lĩnh </b>
<b>chức Quốc tử giám tư nghiệp. Còn Nguyễn Trãi thì sau khi thi đỗ được nhà Hồ </b>
<b>cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Như vậy là hai cha con Nguyễn Trãi thuộc </b>
<b>số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ đầu.</b>


<b>Năm 1407, nhà Minh đánh Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim </b>
<b>Lăng. Một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng với </b>
<b>Hồ Quý Ly. Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi </b>
<b>Khanh khuyên con nên trở về </b><i><b>Tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì </b></i>
<i><b>mới là đạo hiếu</b></i><b>. [2]</b>


<b>Trên đường trở về Nguyễn Trãi bị người Minh bắt và đem giam lỏng ở thành </b>
<b>Đông Quan (Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua chuộc, ông cũng không chịu ra </b>
<b>làm quan với nhà Minh. Năm 1417, ông trốn khỏi Đơng Quan, rồi sau đó tìm </b>
<b>đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã dâng lên Lê Lợi tập </b><i><b>Bình Ngơ sách</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức thư đó (về </b>
<b>sau được tập hợp dưới cái tên </b><i><b>Quân trung từ mệnh tập</b></i><b>) có tính chiến đấu mạnh </b>
<b>mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần địch quân.</b>


[

sửa

] Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn



<b>Từ xa, Nguyễn Trãi đã nhận thấy ở Lê Lợi một người anh hùng lỗi lạc có thể đưa </b>


<b>sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thành cơng, nên Nguyễn Trãi đã bỏ qua nhiều </b>
<b>phong trào khởi nghĩa ở các địa phương gần, để lặn lội vào miền núi rừng Thanh </b>
<b>Hoa, tìm gặp Lê Lợi và gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Đó là những </b>
<b>ngày ở Lỗi Giang, nhưng tên tuổi, sự nghiệp của ông ghi lại trong lịch sử của dân </b>
<b>tộc, chỉ là từ sau khi nghĩa quân Lam Sơn rút về núi Chí Linh lần thứ ba, tức là </b>
<b>từ năm 1423. [3]</b>


<b>Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, thì theo Trần Khắc Kiệm chép trong {(lời tựa </b>
<b>Ức Trai thi tập) </b><i><b>Ức Trai di tập</b></i><b> quyển 5} </b><i><b>Phàm những việc quân, việc nước quan </b></i>
<i><b>trọng đều trao cho ông cả</b></i><b>. Nguyễn Trãi đã vận dụng </b><i><b>Bình Ngơ sách</b></i><b> của ơng để trù</b>
<b>tính giải quyết mọi việc quân, việc nước quan trọng. Ông đã thành công trong </b>
<b>việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp </b>
<b>trong vùng rừng núi phủ Thanh Hoa thành chiến tranh cả nước đánh giặc và đưa</b>
<b>phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một giai đoạn phát triển </b>
<b>mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt </b><i><b>càng đánh càng được, đi đến đâu đánh </b></i>
<i><b>tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô</b></i><b>[4]</b>


<b>Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm </b>
<b>nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc </b>
<b>trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.</b>


<b>Năm 1427, ơng được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản cơng</b>
<b>việc ở Viện Khu mật. Qn Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh</b>
<b>của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai </b>
<b>Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu </b>
<b>viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch </b>
<b>bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp </b>
<b>với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm</b>
<b>có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 4 tướng </b>
<b>giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí </b>


<b>sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thốt về.</b>


<b>Số đơng các tướng nóng lịng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng </b>
<b>làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình </b>
<b>với quan điểm đó. Ơng kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận.</b>
<b>Và Lê Lợi đã theo kế của ơng nói với các tướng rằng:</b>


<i><b>"</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i><b>một phen mà thu lợi gấp hai."</b></i>


<b>Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng </b>
<b>giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy </b>
<b>về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng khơng cịn cứu binh phải mở cửa </b>
<b>thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước</b>
<b>và cam kết không sang xâm phạm nữa.</b>


<i><b>Bài chi tiết: </b><b>Khởi nghĩa Lam Sơn</b></i>


<b>Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngơ đại cáo để bá cáo cho thiên</b>
<b>hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của </b>
<b>Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).</b>


<b>Lê Lợi lên ngơi hồng đế, ban thưởng cho 227 cơng thần, Nguyễn Trãi được </b>
<b>phong là Triều đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan </b>
<b>phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi</b>
<b>đã có nhiều đóng góp lớn, tuy chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt </b>
<b>nhất trong triều để có thể làm cho ơng thi thố hết tài năng. Ông đã khuyên Lê Lợi</b>
<b>kêu gọi những người "hiền tài" ra giúp nước, và năm 1429 thay nhà vua viết tờ </b>



<i><b>Chiếu cầu hiền</b></i><b>. Năm 1430, ông thay nhà vua viết </b><i><b>Chiếu cấm các đại thần, tổng </b></i>
<i><b>quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng</b></i><b>. Năm 1431, ông thay </b>
<b>nhà vua viết tờ </b><i><b>Chiếu cho </b><b>Tư Tề</b><b> quyền nhiếp quốc chính</b></i><b>. Năm 1433, Tư Tề vì </b>
<b>cuồng dại, ngớ ngẩn khơng đương nổi việc nước, bị giáng xuống làm quận vương,</b>
<b>ông thay nhà vua viết tờ </b><i><b>Chiếu giáng </b><b>Tư Tề</b><b> làm quận vương, đặt con thứ là </b></i>


<i><b>Nguyên Long</b><b> nối nghiệp</b></i><b>. Ông cũng lại thay nhà vua làm tờ </b><i><b>Chiếu về việc làm bài </b></i>
<i><b>Hậu tự huấn để răn bảo thái tử</b></i><b> và </b><i><b>Chiếu bàn về phép tiền tệ</b></i><b>, v.v... [5]</b>


[

sửa

] Công thần bị tội



[

sửa

] Bị vạ với người trong họ



<b>Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của</b>
<b>vua.</b>


<b>Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một </b>
<b>tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. </b>
<b>Trần Ngun Hãn nhảy xuống sơng tự vẫn. Vì Ngun Hãn là anh em họ của </b>
<b>Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. </b>
<b>Sau đó vì khơng có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ </b>
<b>đó ơng khơng cịn được trọng dụng như trước nữa.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).</b>


<b>Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài </b><i><b>Oan thán</b></i><b> bày tỏ nỗi bi phẫn, </b>
<b>trong đó có câu:</b>


<i><b>Hư danh thực họa thù kham tiếu,</b></i>
<i><b>Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.</b></i>



<b>Dịch:</b>


<i><b>Danh hư thực họa nên cười quá,</b></i>
<i><b>Bao kẻ dèm pha xót người trung</b></i>


[

sửa

] Vụ án Lệ Chi Viên



<i><b>Xem chi tiết: </b><b>Vụ án Lệ Chi Viên</b></i>


<b>Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. </b>
<b>Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi</b>
<b>tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:</b>


<i><b>"</b></i>


<i><b>Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thơn cùng </b></i>
<i><b>xóm vắng khơng có tiếng ốn hận sầu than"</b></i><b>. </b>


<b>Năm 1435, ơng soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, </b>
<b>niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.</b>
<b>Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại </b>
<b>Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.</b>


<b>Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tơng cịn ít tuổi nhưng khơng dễ trở </b>
<b>thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh </b>
<b>chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; </b>
<b>các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ơng đã </b>
<b>gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức </b><i><b>Hàn lâm viện Thừa chỉ</b></i><b> và </b>
<b>trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian </b>


<b>phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ơng. Tuy </b>
<b>nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.</b>


<b>Vua Thái Tơng ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các </b>
<b>bà vợ tranh chấp ngơi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua </b>
<b>truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngơi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 </b>
<b>tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ </b>
<b>chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngơ Thị Ngọc</b>
<b>Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên </b>
<b>tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ </b>
<b>tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem ni giấu, sau bà sinh được hồng tử Tư Thành </b>
<b>(tức vua Lê Thánh Tông sau này).</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" </b>
<b>vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay </b>
<b>thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hồng hậu Nguyễn Thị </b>
<b>Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 </b>
<b>năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và </b>
<b>họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngồi những người họ Nguyễn </b>
<b>cùng họ với ơng, cịn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ </b>
<b>ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người </b>
<b>trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.</b>


<b>Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê</b>
<b>Nhân Tông.</b>


[

sửa

] Gia quyến lưu tán



<b>Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:</b>



 <b>Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù. </b>
 <b>Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích. </b>
 <b>Bà Thị Lộ: Khơng có con. </b>


 <b>Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên). </b>
 <b>Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim </b>


<b>Môn, Hải Dương. </b>


<b>Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị </b>
<b>thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thốt nạn là:</b>


 <b>Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, </b>


<b>Bắc Ninh; </b>


 <b>Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế </b>


<b>Nguyễn. </b>


 <b>Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, </b>


<b>huyện Kim Môn, Hải Dương. </b>


 <b>Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được </b>


<b>người học trị cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn </b>
<b>Man (phía Tây Thanh Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, </b>
<b>phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh </b>
<b>sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh </b>


<b>Vũ. </b>


[

sửa

] Được minh oan



<b>Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông </b>
<b>chính là hồng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn </b>
<b>Xí rước lên ngơi, tức là Lê Thánh Tông.</b>


<b>Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ơng </b>
<b>được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh</b>
<b>Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh </b>
<b>Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) </b>
<b>con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi </b>
<b>tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày </b>
<b>mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ [6]</b>


<b>Năm 1464, Lê Thánh Tơng đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca </b>
<b>ngợi Nguyễn Trãi là </b><i><b>Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo</b></i><b>, truy tặng tước Tán Trù </b>
<b>Bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh </b>
<b>sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn </b>
<b>một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.</b>


<b>Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa </b><i>"Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"</i><b> là </b><i>"Lòng Ức</i>
<i>Trai sáng tựa sao kh"</i><b>, dịch chính xác phải là </b><i>"Ức Trai lịng soi sáng văn chương"</i>


Nguyên ăn bài thơ


<b>Cao Đế anh hùng cái thế danh </b>


<b>Văn Hồng trí dũng phủ doanh thành</b>
<b>Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo</b>
<b>Vũ Mục hung trung liệt giáp binh</b>
<b>Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển</b>
<b>Nhị Thân phụ tử bội ân vinh</b>
<b>Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự</b>


<b>Bát bách Cơ Chu lạc thái bình</b>


Dịch nghĩa


<i><b>Đức Cao Đế (Lê Thái Tổ) là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ</b></i>
<i><b>Đức Văn Hồng (Lê Thái Tơng) trí dũng kế thừa cơ nghiệp</b></i>
<i><b>Ức Trai (Nguyễn Trãi) lòng soi sáng văn chương</b></i>


<i><b>Vũ Mục (Lê Khôi) bụng chứa đầy binh giáp</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i><b>Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang </b></i>
<i><b>phú quý</b></i>


<i><b>Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều </b></i>
<i><b>hưởng ân vinh lớn</b></i>


<i><b>Cháu hiếu là Hồng Đức (Lê Thánh Tơng) nay kế thừa nghiệp lớn</b></i>
<i><b>Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm</b></i>


<b>Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là </b>
<b>anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một </b>
<b>đại công thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra </b>
<b>sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước </b><i><b>bá</b></i><b>, thấp hơn </b>


<b>cả tước </b><i><b>hầu</b></i><b> vốn được Lê Thái Tổ ban phong khi ơng cịn sống. Các công thần </b>
<b>khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng tước cao hơn, như </b>


<i><b>công</b></i><b> và sau nữa lên </b><i><b>vương</b></i><b>.</b>


<b>Năm 1512, vua Lê Tương Dực sai làm chế văn truy tặng ông tước Tế Văn hầu, </b>
<b>trong đó có câu [7]:</b>


<i><b>"</b></i>


<i><b>Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên;</b></i>
<i><b>"</b></i>


<i><b>Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế"</b></i>


<b>Dịch là:</b>


<i><b>"</b></i>


<i><b>Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ"</b></i>
<i><b>"</b></i>


<i><b>Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau"</b></i>


<b>Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công </b>
<b>nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.</b>


[

sửa

] Những đánh giá



 <b>Lê Thánh Tông trong bài Minh lương viết trong </b><i><b>Quỳnh uyển cửu ca</b></i><b> có </b>



<b>câu: </b><i><b>Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo</b></i><b> (Tâm hồn Úc Trai trong sáng </b>
<b>như sao Khuê buổi sớm), và Lê Thánh Tông đánh giá ông trên tất cả các </b>
<b>văn thần võ tướng có danh vọng nhất của thời Lê. </b>


 <b>Người thế Kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về cơng lao sự nghiệp của ông: </b>


<i><b>Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi</b></i>
<i><b>Danh ghi thanh sử sáng bằng gương</b></i><b>[8]</b>


 <b>Người thế kỉ 17 cịn đánh giá ơng cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

 <b>Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận </b><i><b>công lao của ông </b></i>


<i><b>trùm khắp trên đời</b></i><b>[10]</b>


 <b>Lê Quý Đôn trong </b><i><b>Kiến Văn tiểu lục</b></i><b> nhận định về ông: </b><i><b>"</b><b>đứng vào bậc nhất </b></i>


<i><b>một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc cơng thần. Cứ xem ơng giúp chính trị </b></i>
<i><b>hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè </b></i>
<i><b>nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "</b><b>chỉ, túc"</b><b> thành ra </b></i>
<i><b>cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có cơng </b></i>
<i><b>lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng khơng thể mai một </b></i>
<i><b>được"</b></i><b>[11]. </b>


 <b>Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 </b>


<b>vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: </b><i><b>Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, </b></i>
<i><b>Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng </b></i>
<i><b>tá giúp sức, nhưng tìm được người tồn tài tồn đức như Ức Trai tiên sinh, </b></i>


<i><b>thật là ít lắm</b></i><b>[12]</b>


 <b>Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: </b><i><b>Nguyễn Trãi, người </b></i>


<i><b>anh hùng của dân tộc, văn võ song tồn; văn là chính trị: chính trị cứu </b></i>
<i><b>nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "</b><b>mở nền thái bình mn thủa, rửa nỗi thẹn </b></i>
<i><b>nghìn thu"</b><b>; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "</b><b>yếu đánh mạnh ít địch </b></i>
<i><b>nhiều ... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"</b><b>; văn và võ đều là võ khí, mạnh như </b></i>
<i><b>vũ bão, sắc như gươm đao: "</b><b>viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời" (</b><b>Lê </b></i>
<i><b>Quý Đôn</b><b>), "</b><b>văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế"</b></i>
<i><b>(</b><b>Phan Huy Chú</b><b>). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử </b></i>
<i><b>nước ta</b></i><b>. [13]</b>


<b>Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi </b>
<b>quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Cơng lao quý giá nhất</b>
<b>và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết </b>
<b>và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ơng. Ơng đã đem hết tâm </b>
<b>hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa </b>
<b>Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã</b>
<b>dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. [14]Thiên tài của </b>


<b>Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong </b>
<b>một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt </b>
<b>mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính </b>
<b>xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng </b>
<b>Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc </b>
<b>Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.</b>


[

sửa

] Dòng dõi Nguyễn Bặc và tổ tiên chúa Nguyễn?




<b>Theo một số gia phả họ Nguyễn, tổ tiên của Nguyễn Trãi chính là Định Quốc công</b>
<b>Nguyễn Bặc thời nhà Đinh và con cháu ông có một chi trở thành các Chúa </b>


<b>Nguyễn.</b>


<b>Tác giả Đinh Cơng Vĩ dẫn trong sách </b><i><b>Nhìn lại lịch sử</b></i><b> 7 cuốn gia phả, ngọc phả về </b>
<b>họ Nguyễn bằng chữ Hán và chữ Nơm, theo đó các nguồn tài liệu này cũng không</b>
<b>thống nhất.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<b>ra 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, Nôm của các chi họ Nguyễn.</b>


<b>Nhìn chung, thơng tin từ các gia phả khơng thống nhất với nhau, nhưng tựu </b>
<b>chung từng nhóm đưa ra các thơng tin riêng lẻ:</b>


<b>1. Nguyễn Trãi là dịng dõi Nguyễn Bặc </b>
<b>2. Nguyễn Trãi là tổ tiên chúa Nguyễn </b>


<b>3. Nguyễn Bặc là tổ tiên họ Nguyễn Gia Miêu của Chúa Nguyễn </b>


<b>4. Nguyễn Bặc là tổ tiên Nguyễn Trãi và Nguyễn Trãi cũng là tổ tiên các </b>
<b>Chúa Nguyễn. </b>


[

sửa

] Con cháu Nguyễn Bặc?



<b>Theo tài liệu của tác giả Nguyễn Khắc Minh với 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, </b>
<b>Nơm của các chi họ, trong đó cũ nhất là thời: Hồng Thuận Tứ Niên (Lê Tương </b>
<b>Dực - năm 1513), Cảnh Hưng nguyên niên (năm 1740), gần đây nhất là cuốn gia </b>
<b>phả sao lại năm 1962.</b>


<b>Theo đó, về nguồn gốc của các chi họ, gia phả đều thống nhất ghi: Nguyên quán </b>


<b>tổ tiên đời trước của họ ta ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, </b>
<b>trấn Kinh Bắc (nay là thôn Chi Ngãi, xã Cộng Hịa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải </b>
<b>Dương). Sau dời về làng Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc; phủ Thường Tín, </b>
<b>đạo Sơn Nam.</b>


<b>Về gốc tích cội nguồn họ Nguyễn ở thôn Chi Ngại, truyền thuyết của dòng họ kể </b>
<b>rằng: Tổ tiên dòng họ Thái Tể triều Đinh - Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc (924 - </b>
<b>979) người Hoằng Hóa - Thanh Hóa, có cơng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ </b>
<b>quân để lập ra triều Đinh. Khi Nguyễn Bặc kéo quân về Côn Sơn dẹp sứ quân của</b>
<b>Phạm Phòng Át (Phạm Bạch Hổ), ông để lại con cháu của mình cùng năm vị </b>
<b>tướng quân họ Phí ở lại Chi Ngại cai quản vùng đất này. Khi năm anh em họ Phí </b>
<b>mất, người dân Chi Ngại tơn họ làm Thành Hồng, lập đền thờ cúng. Đình làng </b>
<b>Chi Ngại bị phá hủy trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng bài vị, ngai </b>
<b>thờ và thần tích của năm vị tướng họ Phí vẫn được lưu giữ thờ phụng đến ngày </b>
<b>nay (nay bài vị của năm vị Thành Hoàng thờ ở chùa Ngái của thơn Chi Ngại). Từ </b>
<b>đó dịng họ Nguyễn sinh ra hai con trai. Vì nhà nghèo, hai anh em họ Nguyễn từ </b>
<b>Chi Ngại đến Trại Ổi (tức làng Nhị Khê - Thường Tín, Hà Đơng) sinh sống và trở </b>
<b>thành tổ tiên của Nguyễn Trãi.</b>


<b>Tài liệu của tác giả Nguyễn Khắc Minh sau đó chỉ tập trung vào Nguyễn Trãi và </b>
<b>người con sống sót của ông sau Vụ án Lệ Chi Viên là Nguyễn Anh Vũ mà không </b>
<b>đề cập tới các chúa Nguyễn. Theo đó, con cháu Nguyễn Phi Khanh phân tán đi </b>
<b>các nơi, sau này có 2 nhân vật nổi tiếng là Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Văn </b>
<b>Cừ.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>gia phả này cũng khá xa thời Nguyễn Bặc (hơn 530 năm).</b>


[

sửa

] Tổ họ Nguyễn Gia Miêu?



<b>Sách </b><i><b>Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và công cuộc khai sáng miền nam nước </b></i>


<i><b>Việt cuối thế kỉ XVII</b></i><b> của Nguyễn Ngọc Hiền chép về tổ tiên của Nguyễn Hữu </b>
<b>Cảnh, người có cơng mở đất Nam Bộ ghi thế thứ các đời họ Nguyễn từ Nguyễn </b>
<b>Bặc như sau:</b>


<b>1. Nguyễn Bặc (924-979) </b>
<b>2. Nguyễn Đệ </b>


<b>3. Nguyễn Viễn </b>


<b>4. Nguyễn Phụng (?-1150) </b>


<b>5. Nguyễn Nộn (?-1229; cát cứ cuối thời nhà Lý, đầu thời nhà Trần) </b>
<b>6. Nguyễn Thế Tứ </b>


<b>7. Nguyễn Nạp Hoa (?-1377) </b>
<b>8. Nguyễn Công Luật (?-1388) </b>
<b>9. Nguyễn Công Sách </b>


<b>10. Nguyễn Ứng Long (Nguyễn Phi Khanh 1355-1428) </b>
<b>11. Nguyễn Trãi (1380-1442) </b>


<b>12. Nguyễn Công Duẩn và Nguyễn Anh Vũ </b>
<b>13. Nguyễn Đức Trung (1404-1477) </b>


<b>Theo gia phả họ Nguyễn, có 2 người con của Nguyễn Trãi cịn sống và được bổ </b>
<b>dụng sau này. Một người con cả là Nguyễn Công Duẩn từng tham gia khởi nghĩa </b>
<b>Lam Sơn, khơng có mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thốt nạn. Người con nhỏ là </b>
<b>con của một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thốt khi cả </b>
<b>nhà bị hình, sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi: sau này </b>
<b>2 chi của Công Duẩn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt </b>


<b>Nam, một ngành là các Chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có cơng </b>
<b>giúp các chúa Nguyễn khai phá Nam Bộ. (Xem chi tiết: Chúa Nguyễn, Nguyễn </b>
<i><b>Hữu Cảnh.)</b></i>


<b>Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, gia phả họ </b>
<b>Nguyễn khác cũng như các sử sách để kết luận rằng: Nguyễn Trãi không phải </b>
<b>ông tổ của các Chúa Nguyễn. Theo một số nhà nghiên cứu, gia phả này chép lẫn </b>
<b>gia phả họ Nguyễn Gia Miêu (chúa Nguyễn - ở Thanh Hóa) vào họ Nguyễn Nhị </b>
<b>Khê (Nguyễn Trãi - ở Hà Tây). Những người nhà Nguyễn Trãi đã lấy giả mạo là </b>
<b>người họ Nguyễn Gia Miêu do phải trốn tránh họa tru di. Căn cứ của tác giả </b>
<b>Nguyễn Ngọc Hiên trong sách </b><i><b>Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh</b></i><b> (1997) và sau đó </b>
<b>tác giả Phạm Cơn Sơn trong sách </b><i><b>Tông phả kỉ yếu tân biên</b></i><b> (2006) dẫn lại thông </b>
<b>tin từ </b><i><b>Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh</b></i><b> đều từ các nguồn phả hệ không chuẩn </b>
<b>xác.</b>


[sửa] Nguyễn Công Duẩn


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>và không phải là con Nguyễn Trãi:</b>
<b>1. Nguyễn Bặc </b>


<b>2. Nguyễn Đệ </b>
<b>3. Nguyễn Viễn </b>
<b>4. Nguyễn Phụng </b>
<b>5. Nguyễn Nộn </b>
<b>6. Nguyễn Thế Tứ </b>
<b>7. Nguyễn Minh Du </b>
<b>8. Nguyễn Biện </b>
<b>9. Nguyễn Sử </b>


<b>10. Nguyễn Công Duẩn (hay Chuẩn) - công thần khởi nghĩa Lam Sơn </b>


<b>11. Nguyễn Đức Trung - đại thần tham gia lật đổ Lê Nghi Dân năm 1460. </b>
<b>Các nhà nghiên cứu cho rằng, có thể do con cháu Nguyễn Trãi giả mạo, dùng lí </b>
<b>lịch họ Nguyễn Gia Miêu để che thân phận mình. Theo nhà sử học Phan Huy Lê:</b>


<i><b>Nguyễn Biện là người Gia Miêu, là dòng dõi Nguyễn Bặc trở xuống. Sau vụ </b></i>
<i><b>án Lệ Chi viên, con cháu Nguyễn Trãi đã lấy tên Nguyễn Biện mà thay thế </b></i>
<i><b>tên Ứng Long ở trong gia phả. Trong họ của Bế Nguyễn (họ Nguyễn ở </b><b>Cao </b></i>
<i><b>Bằng</b><b> đổi ra họ Bế - tức là con cháu của Nguyễn Phù, xem phần "</b><b>Gia quyến </b></i>
<i><b>lưu tán"</b><b> phía trên) có di chúc truyền khẩu: "</b><b>Phải đời đời thờ cúng phụ đạo </b></i>
<i><b>Nguyễn Biện đã có cơng bảo vệ hậu duệ tổ Ứng Long"</b><b>.</b></i>


<b>Một số nhà nghiên cứu, do không khảo cứu hết các nguồn gia phả họ Nguyễn </b>
<b>(vốn không thống nhất với nhau và có những nguồn tài liệu bị sai lạc) và người </b>
<b>sau kế tục sử dụng những thành quả của những tài liệu trước, nên đã cùng lầm </b>
<b>lẫn rằng Nguyễn Trãi là hậu tổ (Nguyễn Bặc là thủy tổ) họ Nguyễn Gia Miêu. Tác</b>
<b>giả Nguyễn Ngọc Hiền trong </b><i><b>Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh</b></i><b> và sau đó là Phạm </b>
<b>Cơn Sơn trong </b><i><b>Tơng phả tân biên kỉ yếu</b></i><b> cùng đưa ra phả hệ rất không hợp lí về </b>
<b>dịng họ Nguyễn.</b>


<b>Đối với việc khơng có Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong một số gia phả họ</b>
<b>Nguyễn, tác giả Nguyễn Ngọc Hiền lại theo ý kiến của một số chi hậu duệ họ </b>
<b>Nguyễn ngày nay cho rằng, do cha con Phi Khanh theo nhà Hồ, mà nhà Hồ đã </b>
<b>giết hại Nguyễn Công Luật (tổ đời thứ 8) nên bị khai trừ ra khỏi họ. Sau đó, do </b>
<b>Nguyễn Trãi có cơng theo Lê Lợi bình Ngơ nên lại được đưa vào. Tuy nhiên, nếu </b>
<b>xét chi tiết tới thế thứ của giả thuyết này, sẽ có nhiều chỗ khơng hợp lí.</b>


<b>Theo đó (xem thế thứ 13 đời phần trên), từ Nguyễn Bặc mất năm 979 tới Nguyễn </b>
<b>Nộn đời thứ 5 mất năm 1229, tức là hơn 60 năm mới có một thế hệ; sau đó từ </b>
<b>Nguyễn Nộn mất tới Nguyễn Nạp Hoa đời thứ 7 mất tận năm 1377 (tức là gần 80 </b>
<b>năm mới có một thế hệ); sau đó từ Nguyễn Công Luật đời thứ 8 tới Nguyễn Trãi </b>


<b>(đời thứ 11), Công Duẩn (đời thứ 12), Đức Trung (đời thứ 13, sinh năm 1404) rồi </b>
<b>thị Hằng (đời thứ 14, sinh con năm 1461). Như vậy 7 đời đầu cách nhau 400 năm, </b>
<b>7 đời sau lại dồn vào chỉ khoảng 65 năm cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

[sửa] Nguyễn Đức Trung


<b>Có một sự kiện sử sách đã chép lại (các sách </b><i><b>Đại Việt thông sử</b></i><b> và </b><i><b>Khâm định Việt </b></i>
<i><b>sử Thông giám cương mục</b></i><b>) cho thấy: Nguyễn Đức Trung (cha Trường Lạc hoàng </b>
<b>hậu Nguyễn Thị Hằng) - người được giả thuyết ban đầu coi là cháu nội Nguyễn </b>
<b>Trãi - có 2 hành trạng mâu thuẫn với giả thuyết này:</b>


 <b>Nguyễn Đức Trung được cất nhắc làm </b><i><b>Điện tiền chỉ huy sứ</b></i><b> dưới ngay thời </b>


<b>vua Lê Nhân Tông - vua thiếu niên có sự nhiếp chính của thái hậu Nguyễn </b>
<b>Thị Anh, người vừa khép tội gia hình Nguyễn Trãi trước đó khơng lâu; </b>


 <b>Nguyễn Đức Trung sau đó tham gia cùng Nguyễn Xí, Lê Lăng lật đổ Lê </b>


<b>Nghi Dân từ năm 1460. </b>


<b>Trong khi đó, tận năm 1464 Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi và </b>
<b>sai tìm lại dịng dõi đang phải trốn tránh của ông. Một nhà vừa bị </b><i><b>tru di tam tộc</b></i><b>, </b>
<b>ngay cả họ hàng của mẹ kế Nguyễn Trãi và họ hàng của các vợ lẽ của ông cũng </b>
<b>không được thốt nạn, khơng thể có người cháu nội được cất nhắc lên làm đại </b>
<b>thần trong triều bên cạnh các bậc "ngun lão" như Nguyễn Xí, Lê Lăng. Vì vậy, </b>
<b>chắc chắn Đức Trung không thể là cháu nội Nguyễn Trãi.</b>


<b>Các tác giả theo giả thuyết "Nguyễn Trãi là ông nội Nguyễn Đức Trung" đã </b>
<b>không xem xét tới sự kiện này trong sử sách.</b>



[sửa] Trường Lạc hoàng hậu


<b>Một số giai thoại cho rằng Nguyễn Trãi không chỉ là cha Nguyễn Anh Vũ - người </b>
<b>phải đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ trong thời gian trốn tránh - mà còn là cha </b>
<b>Nguyễn Thị Hằng - người sau này trở thành hoàng hậu Trường Lạc của Lê </b>
<b>Thánh Tơng. Thánh Tơng tìm được Anh Vũ và Thị Hằng rồi lấy luôn bà làm vợ.</b>
<b>Các nhà sử học đã nhất trí rằng đây chỉ là giai thoại dân gian. Nguyễn Thị Hằng </b>
<b>đã được sử sách ghi nhận là con đại thần Nguyễn Đức Trung. Các tài liệu gia phả </b>
<b>được nghiên cứu, chọn lọc (nêu trên) đã cho thấy Nguyễn Đức Trung là con </b>
<b>Nguyễn Công Duẩn và Cơng Duẩn khơng phải là con Nguyễn Trãi.</b>


<b>Như vậy có tới hai nguồn thông tin sai lạc về quan hệ giữa Nguyễn Trãi và </b>


<b>Trường Lạc hoàng hậu: nguồn đầu cho rằng ơng là cha hồng hậu, nguồn thứ hai</b>
<b>cho rằng ơng là cụ của hồng hậu. Thực tế ơng khơng có quan hệ họ hàng với </b>
<b>Nguyễn Thị Hằng.</b>


<b>Có một minh chứng nữa cho việc Nguyễn Trãi không phải là cha hay cụ của </b>
<b>hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng. Điều này tương tự như thời gian hành trạng của </b>
<b>cha bà - Nguyễn Đức Trung. Tới tận năm 1464 Nguyễn Trãi mới được minh oan </b>
<b>nhưng năm 1461 Nguyễn Thị Hằng đã là hồng hậu của Lê Thánh Tơng và đã </b>
<b>sinh ra thái tử Lê Tranh, sau trở thành Lê Hiến Tông.</b>


[

sửa

] Kết luận



 <b>Như vậy, do hậu quả của Vụ án Lệ Chi Viên, đã có những thông tin sai lạc</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>Công Duẩn, không phải là ông nội của Nguyễn Đức Trung và không phải </b>
<b>là tổ tiên của các Chúa Nguyễn. Nguyễn Trãi và dịng họ của ơng khơng có</b>
<b>quan hệ tới họ Nguyễn ở Gia Miêu. </b>



 <b>Giả thuyết về họ Nguyễn Gia Miêu và họ Nguyễn Chi Ngại (hay Nhị Khê) </b>


<b>cùng có tổ là Nguyễn Bặc vẫn cịn những nghi vấn: </b>


<b>o</b> <b>Truyền thuyết họ Nguyễn ở Chi Ngại quá xa, chưa hồn tồn có </b>


<b>tính xác thực để kết luận Nguyễn Trãi là dòng dõi Nguyễn Bặc. </b>


<b>o</b> <b>Khoảng cách quá xa của các thế thứ họ Nguyễn khiến về vấn đề </b>


<b>"dòng họ Nguyễn Gia Miêu là con cháu Nguyễn Bặc" cịn những </b>
<b>nghi vấn. Chính sử sách nhà Nguyễn không xác nhận họ Nguyễn </b>
<b>Gia Miêu là con cháu Nguyễn Bặc. (Xem bài: Nguyễn Bặc, Nguyễn </b>
<i><b>Nộn.) </b></i>


[

sửa

] Các tác phẩm văn thơ



<b>Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song </b>
<b>đã bị thất lạc sau Vụ án Lệ Chi Viên. Ơng là một trong những tác giả thơ Nơm </b>
<b>lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm </b><i><b>Quốc âm thi tập</b></i><b>.</b>


<b>Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngơ đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam </b>
<b>Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1418–</b>
<b>1427). Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng </b>
<b>như việc lấy dân làm gốc với những câu như:</b>


<b>Dục Thúy Sơn (Ninh Bình)-Ngọn núi trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Trãi</b>


<i><b>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,</b></i>


<i><b>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;</b></i>
<i><b>Như nước Đại Việt ta từ trước,</b></i>
<i><b>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,</b></i>
<i><b>Nước non bờ cõi đã chia,</b></i>
<i><b>Phong tục Bắc Nam cũng khác;</b></i>


<i><b>Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;</b></i>


<i><b>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;</b></i>
<i><b>Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,</b></i>


<i><b>Song hào kiệt thời nào cũng có.</b></i>


<b>(trích theo bản dịch của Ngơ Tất Tố)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>văn".</b>


<b>Ngồi ra ơng cịn để lại nhiều tác phẩm khác như </b><i><b>Quốc âm thi tập</b></i><b>, Ức Trai thi tập,</b>


<i><b>Quân trung từ mệnh tập</b></i><b>, Dư địa chí, </b><i><b>Lam Sơn thực lục</b></i><b>, </b><i><b>Phú núi Chí Linh</b></i><b>, </b><i><b>Lam </b></i>


<i><b>Sơn Vĩnh lăng thần đạo bi</b></i><b>, </b><i><b>Ngọc Đường di cảo</b></i><b>.</b>


<b>Tác phẩm </b><i><b>Gia huấn ca</b></i><b> được người đời truyền tụng và cho là của ơng, nhưng hiện</b>
<b>vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng. Tác phẩm </b><i><b>Quốc âm thi tập</b></i><b> là tác phẩm </b>
<b>viết bằng chữ Nôm đánh dấu sự phát triển mới của văn học Việt Nam</b>


[

sửa

] Chú thích



<b>1.</b> ^ <b> Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân đội nhân </b>


<b>dân, Hà Nội 1973, lời nói đầu </b>


<b>2.</b> ^ <b> Đinh Gia Khánh-Bùi Duy Tân-Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam Thế kỉ 10 </b>
<b>đến thế kỉ 18, tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1978, trang 338 </b>
<b>3.</b> ^ <b> Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân đội, Hà Nội </b>


<b>1973, trang 129 </b>


<b>4.</b> ^ <b> Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, trang 53 </b>


<b>5.</b> ^ <b> Đinh Gia Khánh-Bùi Duy Tân-Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam thế kỉ 10 </b>
<b>đến thế kỉ 18, tập 1, trang 340 </b>


<b>6.</b> ^ <b> Đời sau do khó khăn về kinh tế, tháng 8 lại gió bão nhiều, khơng thuận tiện cho </b>
<b>việc tế tổ, họ chuyển ngày giỗ tổ sang ngày 21 tháng Giêng (ngày mất của Nguyễn</b>
<b>Anh Vũ) </b>


<b>7.</b> ^ <b>Lê Q Đơn, </b><i><b>Kiến văn tiểu lục</b></i><b>, NXB Văn hóa thơng tin, 2007, tr 309 </b>


<b>8.</b> ^ <b> Hà Nhiệm Đại, </b><i><b>Khiếu vịnh tập</b></i><b>, dẫn trong </b><i><b>Quốc âm thi tập</b></i><b>, bản phiên âm của </b>
<b>NXB Văn Sử Địa, 1956, trang 16 </b>


<b>9.</b> ^ <b> Dương Bá Cung, </b><i><b>Bình luận chư thuyết</b></i><b> trong </b><i><b>Ức Trai di tập</b></i><b>, quyển 5 </b>
<b>10.</b> ^ <b> Dương Bá Cung, </b><i><b>Tiên sinh sự trạng khảo</b></i><b> trong </b><i><b>Ức Trai di tập</b></i><b>, quyển 5 </b>


<b>11.</b> ^ <b> Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, NXB Văn hóa thơng tin, 2007, tr 308-309. Ý Lê </b>
<b>Q Đơn nói theo lời của Lão Tử, cho rằng Nguyễn Trãi có tài nhưng khơng biết </b>
<b>thời thế khơng thuận lợi thì nên rút lui nên mới gặp họa </b>


<b>12.</b> ^ <b> Nguyễn Năng Tĩnh, Tựa </b><i><b>Ức Trai di tập</b></i><b> của Dương Bá Cung </b>



<b>13.</b> ^ <b> Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, báo Nhân dân số </b>
<b>3099, ngày 19-9-1962 </b>


<b>14.</b> ^ <b> Nguyễn Lương Bích, trang 603 </b>


[

sửa

] Xem thêm



 <b>Ức Trai thi tập </b>


 <b>Quân trung từ mệnh tập</b>
 <b>Dư địa chí </b>


 <b>Băng Hồ di sự lục</b>
 <b>Lam Sơn thục lục</b>
 <b>Quốc Âm thi tập</b>
 <b>Sách bình Ngơ</b>
 <b>Bình Ngơ đại cáo </b>
 <b>Khởi nghĩa Lam Sơn </b>
 <b>Lê Lợi </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

 <b>Nguyễn Bặc </b>


[

sửa

] Liên kết ngồi



Tìm hiểu phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi


Cùng với việc xây dựng đền thờ Nguyễn Trãi và tu bổ quần thể di
tích, Ban quản lý di tích Cơn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) đã tiến
hành khảo sát lập phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi. Ông Nguyễn


Khắc Minh - Trưởng ban quản lý di tích đã cho biết những kết quả
bước đầu.


<b>Tag:Nguyễn Trãi, phả hệ</b>


<b>Sau vụ án Lệ Chi Viên ngày 19/9/1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), dòng họ Nguyễn Trãi</b>
<b>gần như tuyệt diệt. Một số con cháu sống sót phiêu tán lánh nạn khắp nơi. Đến nay chúng tôi tạm</b>
<b>thống kê được 23 chi họ phân tán ở một số tỉnh từ Cao Bằng đến Nghệ An, Hà Tĩnh.</b>


<b>Năm 2002 Ban quản lý di tích Cơn Sơn bước đầu tổ chức khảo sát nghiên cứu sưu tầm tư liệu ở </b>
<b>12 chi họ: Chi Ngại, Phương Quất, Quế Lĩnh, Triều Bến, Xuân Dục, Phù Khê, Nhị Khê, Canh </b>
<b>Hoạch, Thụy Phú, Gia Miêu, Cẩm Nga, Lan Trà, Dự Quần, ở các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, </b>
<b>Quảng Ninh, Thanh Hóa…</b>


<b>Chúng tơi đã sưu tầm được 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, Nôm của các chi họ. Niên đại gia phả </b>
<b>từ thời: Hồng Thuận Tứ Niên (năm 1513), Cảnh Hưng nguyên niên (năm 1740), gần đây nhất là </b>
<b>cuốn gia phả sao lại năm 1962.</b>


<b>Về nguồn gốc của các chi họ, gia phả đều thống nhất ghi: Nguyên quán cụ tổ tiên đời trước của </b>
<b>họ ta ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Chi Ngãi, </b>
<b>xã Cộng Hịa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Sau dời về làng Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng </b>
<b>Phúc; phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam.</b>


<b>Về gốc tích cội nguồn họ Nguyễn ở thơn Chi Ngại, truyền thuyết của dịng họ kể rằng: Tổ tiên </b>
<b>dòng họ Thái Tể triều Đinh - Đinh Quốc Cơng Nguyễn Bặc (924 - 979), có công giúp Đinh Bộ Lĩnh </b>
<b>thống nhất 12 sứ quân để lập ra triều Đinh. Khi Nguyễn Bặc kéo quân về Cơn Sơn dẹp sứ qn </b>
<b>của Phạm Phịng Át (Phạm Bạch Hổ), ơng để lại con cháu của mình cùng năm vị tướng quân họ </b>
<b>Phí ở lại Chi Ngại cai quản vùng đất này. Khi năm anh em họ Phí mất, người dân Chi Ngại tơn họ </b>
<b>làm Thành Hồng, lập đền thờ cúng. Đình làng Chi Ngại bị phá hủy trong kháng chiến chống thực</b>
<b>dân Pháp, nhưng bài vị, ngai thờ và thần tích của năm vị tướng họ Phí vẫn được lưu giữ thờ </b>


<b>phụng đến ngày nay (nay bài vị của năm vị Thành Hoàng thờ ở chùa Ngái của thôn Chi Ngại).</b>
<b>Qua những tư liệu trên, chúng ta thấy nguồn gốc dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại có xuất xứ từ </b>
<b>Nguyễn Bặc - Thái tể Định Quốc Công triều Đinh, quê ở huyện Hồng Hóa, Thanh Hóa, di cư ra </b>
<b>khoảng cuối thế kỷ X. Từ đó dịng họ Nguyễn phát triển đến đời cụ Tiên Nghiêm, sinh ra hai con </b>
<b>trai. Vì nhà nghèo, hai anh em họ Nguyễn từ Chi Ngại đến Trại Ổi (tức làng Nhị Khê - Thường Tín, </b>
<b>Hà Đơng) làm th cho một nhà bán tương để sinh nhai. Nhờ một sự may mắn, hai anh em biết </b>
<b>được ngôi đất quý ở cánh đồng Trung, bèn mang mộ tổ từ Chi Ngại sang táng ở bãi đất này. Ngơi</b>
<b>mộ phát tích đó nay vẫn cịn, người Nhị Khê gọi là “Dàn Cấm Địa”.</b>


<b>Một thời gian sau người em sang định cư ở thôn Cổ Hoạch: (huyện Thanh Oai, Hà Đông), người </b>
<b>anh ở lại Nhị Khê. Từ đó lập nên ba chi họ Nguyễn. Chi họ gốc ở Chi Ngại, Chi họ Nhị Khê và chi </b>
<b>họ Canh Hoạch.</b>


<b>Chi họ Nguyễn ở Canh Hoạch, đến thời Lê Mạc (thế kỷ XVI) sinh ra Nguyễn Thiến đỗ Trạng </b>
<b>Nguyên, phù giúp vua Lê Trang Tôn trừ nhà Mạc, dẹp loạn Ai Lao, đánh Chiêm Thành. Sau con </b>
<b>cháu vào Hà Tĩnh lập nên Chi họ Nguyễn Tiên Điền, cháu ngoại là Đại thi hào Nguyễn Du. Đến thế</b>
<b>kỷ XX, cụ Nguyễn Du được Hiệp hội UNESCO cơng nhận là danh nhân văn hóa thế giới.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<b>tên thành Nguyễn Phi Khanh. 19 tuổi ông đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ, đệ nhị danh bảng nhãn thời </b>
<b>Trần Duệ Tông (1374). Năm 1401, Nguyễn Phi Khanh ra làm quan dưới triều Hồ. Năm 1407, giặc </b>
<b>Minh sang xâm lược nước ta, ông bị bắt đưa về Vạn Sơn Điếm- tỉnh Hồ Nam- Trung Quốc và mất </b>
<b>ở đó. Hài cốt của ơng được người con thứ ba là Nguyễn Phi Hùng đưa về táng ở núi Báo Đức </b>
<b>(còn gọi là núi Bái Vọng). Nay thuộc xã Hồng Hoa Thám, huyện Chí Linh, Hải Dương (cách làng </b>
<b>Chi Ngại khoảng năm km về phía đơng).</b>


<b>Nguyễn Phi Khanh lấy bà Trần Thị Thái hiệu là Ngọc Điền, con quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Bà </b>
<b>sinh được 4 người con trong đó có Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Phi Ly. Cụ bà Trần </b>
<b>Thị Thái mất sớm (năm 1490). Cụ Nguyễn Phi Khanh lấy bà vợ kế người họ Nhữ ở xã Mộc Nhuận,</b>
<b>nay là xã Đơng n, huyện Đơng Sơn, Thanh Hóa. Bà sinh được hai người con trai tên là Nguyễn </b>
<b>Nhữ Soạn. Ông là một trong số ít người tham gia tiền khởi nghĩa Lam Sơn. Trong khởi nghĩa Lam</b>


<b>Sơn, Nguyễn Như Soạn là vị tướng tài ba lập nhiều công được vua Lê phong là Binh Ngô Khai </b>
<b>quốc công thần. Sau khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi và Nguyễn Như Soạn cùng làm quan </b>
<b>đông triều, anh là quan văn, em là quan võ làm rạng tổ tơng. Từ đó dịng họ Nguyễn phát triển. </b>
<b>Các chi đều lấy đệ Nhất Thái Thượng Cao Tổ của dòng họ là Nguyễn Phi Khanh (đời thứ nhất).</b>
<b>Đệ nhị tổ (đời thứ 2) là Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, ơng sinh năm 1380.</b>


<b>Do có công lao lớn Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ ban họ vua là Lê Trai và phong chức tước: </b>
<b>"Khai quốc công thần, Nhập nội hành khiển, Trung thư hàn lâm ngự sử, Lục Bộ Thượng Thư, Tứ </b>
<b>Kim Ngư Đại Thượng Hộ Quan Phục Hầu”. Năm 1442, vụ án Lệ Chi Viên oan khuất đã kết thúc </b>
<b>đời ông cùng ba họ.</b>


<b>Nguyễn Trãi có năm người vợ.</b>


<b>+ Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.</b>
<b>+ Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.</b>
<b>+ Bà Thị Lộ: Khơng có con.</b>


<b>+ Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Ánh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên)</b>


<b>+ Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất- huyện Kim Môn, Hải Dương.</b>


<b>Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong </b>
<b>các phả hệ ghi lại số ít thốt nạn là: Nguyễn Phi Hùng con Nguyễn Phi Khanh là em thứ ba của </b>
<b>Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh; Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao </b>
<b>Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về </b>
<b>Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.</b>


<b>Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò cũ của </b>
<b>Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); Sau lại về thơn Dự</b>
<b>Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Nay là thơn Dự Quần, xã Xuân Lâm, huyện </b>


<b>Tĩnh Gia. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ </b>
<b>đổi sang họ mẹ là Phạm Thanh Vũ.</b>


<b>Mặc dù trong hồn cảnh vơ cùng khó khăn Nguyễn Anh Vũ vẫn nối chí cha ông, dùi mài kinh sử, </b>
<b>thi đỗ hương cống.</b>


<b>Năm 1464, vua Lê Thánh Tông ra chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, vụ án Lệ Chi Viên mới đến hồi </b>
<b>kết thúc sự truy sát của triều đình. Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng </b>
<b>Tri Phủ Tĩnh Gia- Thanh Hóa, cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hồn điền" (ruộng khơng phải </b>
<b>trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nhớ ơn ông cha tổ tiên, Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí </b>
<b>của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần. Lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt. Ông xây </b>
<b>dựng từ đường tổ tiên và người cha quá cố của mình. Lấy ngày mất của Nguyễn Trãi, 16 tháng 8 </b>
<b>là ngày giỗ họ. Đời sau do khó khăn về kinh tế, tháng 8 lại gió bão nhiều, khơng thuận tiện cho </b>
<b>việc tế tổ, họ chuyển ngày giỗ sang ngày 21 tháng Giêng (ngày mất của tổ Nguyễn Anh Vũ).</b>
<b>Nguyễn Anh Vũ có hai bà vợ, tám người con: Bà cả sinh hạ sáu con trai một con gái.</b>


<b>Con cả là Nguyễn Tạc năm 23 tuổi đỗ tiến sĩ đệ tam danh "Thám hoa" được bổ nhiệm chức trấn </b>
<b>thủ xứ An Bang (khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay). Sau đi sứ Trung Quốc bị đắm thuyền mất ở </b>
<b>hồ Động Đình, tỉnh Hà Nam- Trung Quốc.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b>phần mộ tổ để thờ cúng.</b>


<b>Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, dòng họ Nguyễn ở Nhị Khê lại cử cụ Nguyễn Thung hiệu là </b>
<b>Phúc Khánh trở về chốn tổ là thôn Chi Ngại để chấn hưng dịng họ và trơng coi phần mộ tổ ở núi </b>
<b>Bái Vọng. Vì vậy chi họ Nguyễn ở Chi Ngại lấy đệm là Nguyễn Quy (Quy là quay trở lại gốc tổ </b>
<b>tiên).</b>


<b>Người con thứ ba của Anh Vũ là Nguyễn Quân, thi trúng Sùng Văn Quán, được bổ nhiệm làm </b>
<b>Thừa tuyên phủ Tĩnh Gia. Hậu duệ là con cháu làng Dự Quần ngày nay.</b>



<b>Con thứ tư là Nguyễn Thiêm.</b>


<b>Con thứ năm là Nguyễn Giáp, về Xuân Dục, lập gia chi họ Xuân Dục, ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng </b>
<b>Yên.</b>


<b>Con thứ sáu là Nguyễn Thung, về xã Hải Phương huyện Hải Hậu - Nam Định.</b>


<b>+ Bà vợ thứ hai của Anh Vũ sinh được một con trai là Nguyễn Chân Phượng sau đổi sang họ </b>
<b>Phạm về thôn Nỗ Vệ, xã Thụy Phú, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, để trông coi phần mộ và từ </b>
<b>đường bà Phạm Thị Mẫn - thân mẫu của Anh Vũ. Nay thành chi họ Phạm Nguyễn.</b>


<b>Như vậy kể từ sau vụ án Lệ Chi Viên năm 1442, đến năm 1464 khi vua Lê Thánh Tông xuống </b>
<b>chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, con cháu Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi mới phục hưng trở lại.</b>
<b>Đến nay thành dòng họ lớn, các lớp con cháu không ngừng kế tiếp truyền thống tổ tiên, cống </b>
<b>hiến nhiều công lao cho đất nước.</b>


<b>Theo phả các chi họ, từ cụ Nguyễn Phi Khanh đến các đời sau, đời nào cũng có người đỗ đạt làm</b>
<b>quan giúp nước. Qua thống kê ở năm chi họ là: Dự Quần, Canh Hoạch, Thuỵ Phú, Phù Khê, Xuân</b>
<b>Dục, từ nửa thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX đã có 11 tiến sĩ nho học, một quận công, cùng hàng </b>
<b>chục người đỗ cử nhân, tam trường, tứ trường... Họ được bổ nhiệm nhiều chức vụ quan trọng </b>
<b>trong triều đình làm tri phủ, tri huyện, võ quan... ở các địa phương.</b>


<b>Họ Nguyễn ở Phủ Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có tới 10 tiến sĩ (6 tiến sĩ nho học), 2 tiến sĩ, 3 </b>
<b>giáo sư 42 cử nhân, 9 bác sĩ, 1 nhạc sĩ... Trong phong trào cách mạng vơ sản đồng chí Nguyễn </b>
<b>Văn Cừ - Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (1938-1940) là hậu duệ đời thứ 17 của dòng họ này.</b>
<b>Chi họ Nguyễn Xuân Dục- Mỹ Hào- Hưng Yên, có 4 tiến sĩ (2 tiến sĩ nho học), 1 giáo sư, 4 phó </b>
<b>giáo sư, 30 cử nhân. Trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, một người con ưu tú của dòng </b>
<b>họ là Nguyễn Thiện Thuật tự là Mạnh Hiếu, (cử nhân khoa Bính Tý 1866) cùng các em là Nguyễn </b>
<b>Thiện Kế, Nguyễn Thiện Dương đã thu nạp thân hào nghĩa sĩ, tế cờ khởi nghĩa Bãi Sậy, chống </b>
<b>thực dân Pháp. Khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã (1892), Nguyễn Mạnh Hiếu; Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn </b>


<b>Thiện Dương, Nguyễn Tuyễn Chi... còn tiếp tục phò vua Hàm Nghi, vua Duy Tân trong phong trào</b>
<b>Cần Vương. Các ơng cịn tham gia khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, phong trào Quang Phục Hội của </b>
<b>Phan Bội Châu chống thực dân Pháp.</b>


<b>Hơn năm thế kỷ hồi sinh phát triển dòng họ Nguyễn Trãi qua biết bao thăng trầm, có lúc tưởng </b>
<b>như đã tuyệt diệt. Nhưng bởi phúc ấm tổ tiên với lòng nhân nghĩa thấu đất trời, dòng họ Nguyễn </b>
<b>từ một mầm non đơn độc giữa phong ba bão tố, vẫn tồn tại phát triển đến ngày nay. Các thế hệ </b>
<b>con cháu nối tiếp nhau kế thừa xứng đáng truyền thống: Yêu nước, hiếu học, "Bình dị, Cận dân";</b>
<b>"Lo trước vui sau giữ nếp nhà" của Ức Trai, để không ngừng học hành cống hiến xây dựng Tổ </b>
<b>quốc Việt Nam.</b>


<b>Thực hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc "Uống nước nhớ nguồn", từ năm 2000 đến năm 2002,</b>
<b>nhân dân tỉnh Hải Dương đã xây lập đền thờ rất khang trang Người anh hùng dân tộc - Danh </b>
<b>nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi tại quần thể di tích Cơn Sơn, để hàng năm du khách thập </b>
<b>phương ngưỡng mộ Người về thắp hương tưởng niệm.</b>


<b>Bước đầu Ban quản lý quần thể di tích Cơn Sơn tổ chức khảo sát lập phả hệ dòng họ Nguyễn </b>
<b>Trãi, tuy đã cố gắng nhưng chắc chưa hoàn chỉnh, mong độc giả xa gần tham gia góp ý bổ sung.</b>
<b>Nguyễn Khắc Minh</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Nguyễn Văn Cừ



<b>Bách khoa toàn thư mở Wikipedia</b>
<b>Bước tới: menu, tìm kiếm </b>


Nguyễn Văn Cừ


Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam


Nhiệm kỳ <b>1938 – 1940</b>



Tiền nhiệm <b>Hà Huy Tập</b>


Kế nhiệm <b>Trường Chinh</b>


Đảng <b>Đảng Cộng sản Đông Dương(Đảng Cộng sản Việt Nam)</b>
Sinh <b>9 tháng 7, 1912</b>


<b>Bắc Ninh, Việt Nam</b>


Mất <b>28 tháng 8, 1941 (29 tuổi)</b>


<b>Bệnh Viện Hóc Mơn, Sài Gòn</b>


Nguyễn Văn Cừ (9 tháng 7, 1912<b>[1] - 28 tháng 8, 1941) là Tổng bí thư Đảng Cộng sản </b>


<b>Đơng Dương (1938-1940). Ơng cịn là hậu duệ đời thứ 17 của Nguyễn Trãi.[2]</b>

[

sửa

] Tiểu sử



<b>Ơng sinh trong một gia đình nhà Nho, quê xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc </b>
<b>Ninh.</b>


<b>Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.</b>


<b>Tháng 6 năm 1929, ơng được kết nạp vào chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng đầu </b>
<b>tiên ở Hà Nội. Năm 1930, được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai – ng Bí. Bị Pháp </b>
<b>bắt, kết án khổ sai, đày đi Côn Đảo.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<b>Tháng 6 năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn cùng với một số đảng viên </b>
<b>khác.</b>



</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' />

Những trang Thơ, Văn viết về Thầy Cô (Phần2)
  • 6
  • 3
  • 10
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×