Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bai du thi tim hieu moi qun he Viet NamLao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.85 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>PHÒNG GD&ĐT HUYỆN THAN UYÊN</b>

<b>TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN</b>



---<sub></sub>
<b> </b>


<b> </b>


<b> </b>
<b> </b>


<b>BÀI DỰ THI</b>



<b>TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT</b>


<b>VIỆT NAM-LÀO, LÀO-VIỆT NAM</b>



<b>Họ và tên: Nguyễn Đức Tiến</b>


<b>Ngày sinh: </b>



<b>Nghề nghiệp: </b>


<b>Đơn vị: </b>



<b>Nơi thường trú: </b>


<b>Số ĐT: </b>





</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>BÀI DỰ THI </b>



<b>TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT </b>


<b>VIỆT NAM - LÀO, LÀO – VIỆT NAM</b>




<b>1. NHỮNG NHÂN TỚ HÌNH THÀNH, QÚT ĐỊNH MỐI QUAN HỆ</b>
<b>HỮU NGHỊ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM-LÀO, LÀO- VIỆT</b>


Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam bắt nguồn từ các điều
kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử và truyền thống chống giặc
ngoại xâm của nhân dân hai nước nhưng người đặt nền móng, quyết định mối quan
hệ đặc biệt này chính là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.


<b>Về các điều kiện tự nhiên, Việt Nam và Lào đều nằm ở trung tâm bán đảo </b>
Ấn-Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Dãy Trường Sơn có thể ví như cột
sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.
Với địa hình tự nhiên này, về đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục
Bắc-Nam. Cịn về đường biển, Lào chỉ có thể thông thương qua một số tỉnh miền Trung
Việt Nam. Với điều kiện tự nhiên như thế, Việt Nam và Lào vừa có nhiều điểm
tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt.


Tuy nhiên, trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, để hợp tác
cùng phát triển, hai nước hồn tồn có thể bổ sung cho nhau bằng tiềm năng, thế
mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực, thị trường cũng như
sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý.


Ngoài ra, Việt Nam và Lào là những nước loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống
cạnh nhau, lại nằm kề con đường giao thông hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền
Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cho nên chiếm vị
trí địa- chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á.


Mặt khác, bờ biển Việt Nam tương đối dài nên việc bố trí chiến lược gặp khơng ít
khó khăn. Trong khi đó, dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào,
được ví như bức tường thành hiểm yếu để hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp


giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn then chốt về kinh tế
và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.


<b>Về các nhân tố dân cư, xã hội, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa </b>
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của
hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này đã chi phối
mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào.
Chính q trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt Nam và
cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai thác và
chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thủy. Điều này, thêm một lần
nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện
lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá
nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tường tận và sự giao thương ở đây cũng khá nhộn nhịp. Trong quan hệ giao thương
với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã khơng ít lần bộc lộ mối quan tâm của mình muốn
hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục
địa.


Sự hài hồ giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc của triết
lý nhân sinh người Việt cũng như người Lào. Chính trong cuộc sống chan hoà này,
nhân dân hai nước Việt Nam- Lào đã ngày càng hiểu nhau và bày tỏ những tình
cảm rất đổi chân thành với nhau.


<b>Về nhân tố lịch sử, theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam thì mối quan </b>
hệ Việt-Lào bắt đầu từ những năm 550 dưới thời Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Điều
đáng nói là bất chấp hồn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và Lạn
Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được nuôi


dưỡng.


Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, nhất là trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm cho mối quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào-Việt Nam càng gắn bó keo sơn.


Từ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào theo con đường cách
mạng vô sản, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào ngày càng
hoà quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa
nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc và tiến lên
con đường xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam-Lào, Lào- Việt Nam.


Và chính Người đã cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvơng
và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun
đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt
Nam.


Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào cũng
có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng và đầy
hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội
như mối quan hệ Việt - Lào.


Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt
giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn khơng ít
thách thức. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong
sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam –


Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước
Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam.


<b>2. TÌNH CẢM GẮN BÓ KEO SƠN GIỮA HAI DÂN TỘC VIỆT </b>
<b>NAM-LÀO TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY CŨNG</b>
<b>NHƯ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” và “Tuyên bố chung”
đã tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác giữa Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng, hai Nhà nước đã cử
trên 30 đoàn từ cấp trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh
nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, dân
vận. Quan hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên
giới kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào
chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả.


Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn cơng trình “Lịch sử quan hệ
đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam từ 1930- 2007” nhằm tổng kết quá trình
liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam, đúc kết
những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan
hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam lên một tầm cao mới.


Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào- Việt Nam quý báu và thiêng liêng đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:


<i>“Thương nhau mấy núi cũng trèo</i>
<i>Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.</i>
<i>Việt - Lào, hai nước chúng ta.</i>


<i>Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.</i>



Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: “Trong lịch sử cách mạng thế
giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở
đâu và chưa bao giờ, có được sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài và
toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam”; “Núi có thể mịn, sơng có thể cạn, song
tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”.


Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Khăm muộn của nước
Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào cũng khơng ngồi truyền thống quý báu đó.
Cùng chung một chiến hào chống kẻ thù chung, trong gian khổ, hy sinh, tình đồn
kết chiến đấu giữa Hà tĩnh và tỉnh bạn Lào ln keo sơn, gắn bó. Với tinh thần “hạt
muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”, quân dân Hà tĩnh cùng bạn chiến đấu anh dũng,
kiên cường, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hồn
tồn.


Về phía bạn, bằng tấm lòng chân thật, ngay thẳng, thủy chung, trong sáng, Đảng
bộ và nhân dân hai tỉnh đã cưu mang, giúp đỡ Hà tĩnh lúc khó khăn, hiểm nguy
nhất. Biên giới bạn phía tây trở thành căn cứ cho bộ đội, cán bộ, nhân dân Hà
Tĩnh bảo toàn và phát triển lực lượng.


Tỉnh bạn cũng tạo điều kiện, giúp đỡ Ha Tĩnh trong việc tìm kiếm, cất bốc hài
cốt liệt sĩ. Phát huy truyền thống đó, trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh bạn Lào sẽ
làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương thức, nội dung, cơ chế phù hợp trên tất
cả các lĩnh vực góp phần cùng với hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam-
Lào bảo vệ và nâng quan hệ đặc biệt lên tầm cao mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO </b>
<b>-VIỆT NAM.</b>



Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào –
Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có
về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu
tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào
-Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng
nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí
Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam:


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt</b></i>
<i><b>Nam – Lào, Lào – Việt Nam.</b></i>


Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
đến tình hình Lào. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm
1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được
cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở
Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham
gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối
quan hệ đoàn kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp
huấn luyện cách mạng trên đất Lào. Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên
hành trình trở về Đơng Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực
tiễn mới cho cơng tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải
phóng dân tộc ở ba nước Đơng Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng
cho quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử
trọng đại sắp tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí</b></i>


<i><b>Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai</b></i>
<i><b>nước dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>về tổ chức Liên quân Lào - Việt</i>, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ
và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt - Lào.


Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành
nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí
Cay xỏn Phơmvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và
Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “<i>Sự giúp đỡ của Việt Nam cho</i>
<i>cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và</i>
<i>xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất</i>
<i>nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây</i>
<i>dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa</i>
<i>Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”.</i>


Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập
chủ quyền.


Năm 1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào
và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ
quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định biên
giới quốc gia giữa hai nước. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết <i>Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách</i>
<i>mạng Lào trong giai đoạn mới,</i> xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp
tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân
dân Việt Nam, cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.



Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước:<i> Hiệp</i>
<i>ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa</i>
<i>Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng</i>
<i>hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; </i>và ra


<i>Tuyên bố chung</i> tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo ngun tắc<i> hồn tồn bình đẳng, tơn</i>
<i>trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, tơn trọng lợi ích chính</i>
<i>đáng của nhau, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau</i>. <i>Đây là mốc lịch sử</i>
<i>quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. </i>Việc ký kết
hiệp ước đó cịn có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng
giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh
hưởng tích cực trong khu vực.


<i>Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia</i> là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải
quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa u
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng, là mẫu mực về chính sách
láng giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào.


<i><b>Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986,lãnh đạo cấp cao hai</b></i>
<i><b>Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt</b></i>
<i><b>Nam - Lào, Lào - Việt Nam. </b></i>


Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "<i><b>Trong lịch sử cách mạng</b></i>
<i><b>thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng</b></i>
<i><b>chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt,</b></i>
<i><b>lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"</b><b>; "</b><b>Núi có thể mịn, sơng có thể</b></i>


<i><b>cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông"</b><b>. </b></i>


<b>4. NHỮNG THÀNH TỰU CÓ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG TRONG</b>
<b>LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM</b>


<b>1. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau cùng tiến hành khởi</b>
<b>nghĩa tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc</b>


Nhân dân hai nước Việt, Lào chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa thành cơng
tháng 8-1945.


Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam - Lào, của quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đặt nền tảng vững chắc cho mối quan hệ phát triển rực
rỡ trong giai đoạn sau.


<b>2. Việt Nam, Lào đoàn kết, liên minh chiến đấu chớng đế q́c xâm lược,</b>
<b>hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc</b>


<i><b>Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai:</b></i>


Hai dân tộc Việt Nam, Lào vừa giành được quyền độc lập, đã phải đối phó
ngay với thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.


Sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam đứng trước những thử thách hết sức
nghiêm trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Một là,</i> sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nước Việt Nam, Lào phá
vỡ mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt Pathết Lào và hãm hại bộ phận đầu
não cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành.



<i>Hai là,</i> sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt
Nam trong quá trình xác định phương pháp đấu tranh vũ trang là chủ yếu kết hợp
đấu tranh chính trị chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào.


<i>Ba là,</i> tuyến đường chiến lược Trường Sơn, một công trình vĩ đại của quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam


<b>3. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát triển trong sự</b>
<b>nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt Nam, Lào (từ 1976</b>
<b>đến nay)</b>


<i><b>Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao:</b></i>


Hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi ý kiến về vấn đề lý luận và
chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Lào, khơi dậy
nội lực và mở rộng quan hệ quốc tế, đem lại sự đổi mới tồn diện cho mỗi nước.


<i><b>Về quốc phịng an ninh:</b></i>


Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước luôn xác định hợp tác trên lĩnh
vực quốc phòng, an ninh là một trong những điểm mấu chốt của mối quan hệ đặc
bịêt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


<i><b>Hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, đào tạo cán bộ:</b></i>


Lãnh đạo hai nước Việt Nam và Lào đều nhất trí coi trọng sự hợp tác kinh tế,
văn hóa và đào tạo cán bộ.


Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên chấp hành ngun tắc hợp tác là bình đẳng, tơn
trọng chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết lịng giúp đỡ nhau; đồng thời, căn cứ


vào tình hình cụ thể của mỗi nước mà dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau.


Từ sau năm 1975, Việt Nam giúp bạn đào tạo cán bộ đạt trình độ đại học và
trên đại học.


<b>5. MỘT VÀI KỈ NIỆM SÂU SẮC VỀ QUAN HỆ ĐỒN KẾT, HỮU NGHỊ </b>
<b>GIỮA HAI DÂN TỢC VIỆT NAM-LÀO </b>


Trong lịch sử trường kỳ, cam co, đầy hy sinh mất mát, nhưng vô cùng vẻ
vang của công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc, nhân dân
hai nước Lào và Việt Nam đã gắn bó u thương nhau, khơng chỉ vì có chung dãy
Trường Sơn hùng vĩ, hay chung dịng sơng Mekong, mà cịn vì hai dân tộc có chung
một số phận, cùng chung kẻ thù xâm lược, cùng bước trên con đường tiến đến một
lý tưởng chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sáng lập. Hai nước có chung lý tưởng, đã, đang và sẽ tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ nhau
một cách trong sáng, hết sức, hết lòng cho sự nghiệp cách mạng của nhau.


Trong q trình trường kỳ đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam anh em
không chỉ dành sự ủng hộ cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Lào bằng vật
chất, trí tuệ, mồ hơi xương máu mà còn là trụ cột vững chắc và lâu dài cho sự
nghiệp cách mạng Lào, thể hiện tình hữu nghĩ vĩ đại, tình đồn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước chúng ta. Việt
Nam đã đào tạo cán bộ kế cận, cán bộ cốt cán cho Lào, một phần trong số đó có
chúng ta, là những cựu học sinh, sinh viên từng sống và học tập tại miền Bắc Việt
Nam trong thời kỳ chiến tranh chống bọn đế quốc xâm lược vào những năm đầu
thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Chúng ta còn mãi ghi nhớ quãng thời gian học tập tại
Việt Nam. Mặc dù nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đó cịn gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn do chiến tranh đế quốc kiểu mới gây ra, nhưng các cán bộ lãnh đạo, thầy
cô, chuyên gia, bác sỹ, anh chị em cấp dưỡng, cán bộ an ninh, cán bộ lái xe cũng


như các cô bác, anh chị em người dân Việt Nam đã đoàn kết yêu thương, đùm bọc,
giúp đỡ học sinh Lào như đối với những anh chị em, con cháu ruột thịt của mình.
Lúc đó, mỗi tháng Ban giám hiệu và thầy cơ Việt Nam làm việc tại Trường Nội trú
dành riêng cho người Lào phải nhịn ăn, nhịn mặc, ăn cơm độn mì, độn khoai, độn
bột, ăn rau muống, rau cải chấm nước mắm với cá khô; mỗi tháng mỗi người chỉ
được 13 kg lương thực, trong đó 30% là gạo vừa cứng và đỏ, có lúc cịn bị mối,
mọt. 70% còn lại là bột, khoai, mỳ cứng, đơi lúc cịn cả mùi hơi do ngấm nước.
Trong lúc đó, các thầy cơ và các anh chị em cán bộ Việt Nam lại dành cho học sinh
Lào chúng tơi có đầy đủ cá, thịt, trứng với mỗi tháng được 21 kg mà khơng phải ăn
độn gì cả. Trong đó có 3 kg gạo nếp, 18 kg gạo tẻ và một số tiền chi tiêu hằng ngày.
Do bọn xâm lược ném bom ác liệt miền Bắc Việt Nam, những cựu học sinh Lào
chúng tôi phải đi lánh nạn ở nhà dân. Tại đâu, chúng tôi cũng đều nhận được sự
giúp đỡ hết mình. Mỗi gia đình đều nhận từ 2-3 học sinh ăn ở trong nhà. Các cơ bác
đã trơng nom, chăm sóc, dạy bảo, nhường cơm sẻ áo, giúp dựng phòng học cũng
như chỗ ở, yêu thương chúng ta như con ruột của mình. Cho đến tận ngày hơm nay,
những hình ảnh đó vẫn cịn ghi dấu trong trái tim chúng tơi và sẽ tiếp tục mãi mãi
khắc sâu trong ký ức của chúng ta. Tất cả những điều đó thể hiện tình cảm thân
thiết, tấm lịng bao dung, hào hiệp, tinh thần quốc tế vô sản trong sáng và cao cả của
dân tộc Việt Nam anh em dành cho chúng tơi nói riêng và nhân dân Lào cũng như
sự nghiệp cách mạng Lào nói chung.


Đến hơm nay, rất nhiều cựu học sinh, sinh viên Lào đã được nhân dân Việt Nam
ni dưỡng ngày đó đã trở thành những cán bộ cốt cán, cán bộ lãnh đạo cấp cao của
Đảng, Nhà nước, lực lượng an ninh, quốc phòng cũng như các tổ chức quần chúng
của Lào, góp phần quan trọng đưa sự nghiệp cách mạng Lào tiến lên theo mục tiêu
xã hội chủ nghĩa, đồng thời vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc
biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào ngày càng đơm hoa kết trái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

viên Lào học tập tại Việt Nam vô cùng tự hào về mối quan hệ tốt đẹp đó, đồng thời
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và cảm ơn chân thành tới Đảng, Nhà nước và nhân dân


Việt Nam đã ni nấng, chăm sóc, dạy bảo, đào tạo và rèn luyện chúng tơi trưởng
thành, có năng lực kiến thức và trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng và Nhà
nước Lào như ngày nay, đồng thời thấy được trách nhiệm to lớn của mình đối với
việc vun đắp mối quan hệ thiêng liêng của hai dân tộc chúng ta. Chúng tôi xin
nguyện sẽ hợp tác với bạn bè Việt Nam anh em, cống hiến hết sức lực, trí tuệ của
mình để giữ gìn và phát huy mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đồn kết đặc biệt và
hợp tác toàn diện đơm hoa kết trái, mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững.


<b>6. MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỢNG CỦA MỚI QUAN HỆ ĐỒN</b>
<b>KẾT,GẮN BÓ, THỦY CHUNG SON SẮT CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM </b>
<b>-LÀO DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG </b>
<b>NHỮNG NĂM QUA</b>


<b>1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc Việt</b>
<b>Nam - Lào đồn kết bên nhau, chung sức, chung lịng đánh thắng giặc Mỹ xâm</b>
<b>lược </b>


<b>2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vơ cùng sinh động</b>
<b>mới quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào,</b>
<b>Lào - Việt Nam</b>


<b>3. Quan hệ hữu nghị đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam Lào, Lào </b>
<b>-Việt Nam càng phát triển sống động trong giai đoạn hồ bình, xây dựng đất</b>
<b>nước phồn vinh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc</b>


Các tổ chức hội hữu nghị trên nhiều lĩnh vực với hàng nghìn hội viên từ
Trung ương đến cơ sở ra đời. Đặc biệt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các tỉnh
ngày càng thắt chặt phát triển thành quan hệ kết nghĩa; khơng chỉ dừng lại ở 10 tỉnh
có đường biên giới chung mà còn mở rộng ra các tỉnh, thành phố khác như thủ đô
Hà Nội với Viêng Chăn...Tại các tỉnh có đường biên giới chung, quan hệ kết nghĩa


phát triển đến tận cơ sở, đó là kết nghĩa huyện với huyện, bản với bản trên cơ sở
phát huy và duy trì mối quan hệ đồn kết, hợp tác truyền thống láng giềng tốt đẹp,
bảo đảm an ninh xã hội vùng biên, giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh, chủ động
phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.


<b>7. NHỮNG KINH NGHIỆM Q BÁU VỀ VIỆC GÌN GIỮ, CỦNG</b>
<b>CỚ, </b>


<b>PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG HỮU NGHỊ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Để gìn giữ, củng cố và phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt
Nam-Lào, Lào - Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây cần phải
được phát huy:


<i><b>Một là:</b> <b>Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào </b><b>được tạo dựng trên cơ sở xác</b></i>
<i><b>định đúng đắn những quan điểm lý luận về mối quan hệ dân tộc và quốc tế trong</b></i>
<i><b>thời đại mới nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng do hai nước xác lập. </b></i>


<i><b>Hai là: Cả hai dân tộc Việt Nam và Lào đều phải quán triệt và thực hiện</b></i>
<i><b>tốt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Giúp bạn là mình tự giúp mình”</b></i>


Ba là:<i> <b>Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào phải</b></i>
<i><b>luôn coi trọng thực hiện nguyên tắc tơn trọng quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng</b></i>
<i><b>và dân chủ của hai bên</b></i>


Bốn là: Để việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt
Việt Nam – Lào ngày càng tốt đẹp, hai Đảng, hai Nhà Nước cần thường xuyên
thông báo cho nhau về tình hình mỗi Ðảng, mỗi nước


<b>8. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY MỚI</b>


<b>QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM TRONG LỊCH</b>
<b>SỬ CỦA HAI DÂN TỘC VÀ TRÊN NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT</b>
<b>TRIỂN MỚI</b> <b> </b>


<i>Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam Lào, Lào </i>
<i>-Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết, bền</i>
<i>chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh giành độc</i>
<i>lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng hai Nhà nước</i>
<i>khẳng định là mối quan hệ <b>đặc biệt</b> . Điều này cắt nghĩa cho việc giữ gìn và phát</i>
<i>huy mối quan hệ <b>đặc biệt</b></i> <i><b>Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam</b> trong lịch sử và trên</i>
<i>những chặng đường phát triển mới là <b>vô cùng quan trọng</b></i>


Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quan hệ đặc biệt quy định sự
<b>sớng, cịn của hai dân tộc trong lịch sử cũng như trên những chặng đường phát</b>
<b>triển mới.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đưa quan hệ Việt Nam - Lào lên tầm cao mới sẽ đáp ứng nguyện vọng chính đáng
của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, đồng thời đóng góp tích cực cho hịa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.


Tuyên bố chung về kết quả cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone trong chuyến thăm
hữu nghị chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly
Sayasone đã khẳng định:


Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên cơ sở phát
huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng
có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào với thơng lệ
quốc tế, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở Đông Nam Á và trên thế giới.



Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi một số biện pháp
nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước.
Trong đó đặc biệt chú ý việc Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các Bộ,
Ngành,địa phương triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011-2015 và
Chiến lược hợp tác 10 năm 2011- 2020;


Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai
nước, nhất là các địa phương có chung biên giới; sớm kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi
mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ phận
thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề lý luận
và thực tiễn về xây dựng Đảng, về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; phối hợp đẩy
mạnh tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn mới, trong đó đặc biệt quan tâm
việc tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Cơng trình Lịch sử quan hệ đặc
biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ về nội dung,
chương trình hoạt động của “Năm đồn kết hữu nghị 2012” trong đó có việc Lãnh
đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng khai mạc và bế
mạc “Năm đoàn kết hữu nghị 2012,” tổ chức khởi cơng hoặc khánh thành một số
cơng trình trọng điểm tạo dấu ấn về quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
Việt-Lào


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới vào năm 2014 và tiếp tục xây dựng
tuyến biên giới Việt Nam - Lào. Khẳng định mong muốn cùng các bên liên quan
giải quyết vấn đề biển Đông bằng biện pháp hịa bình, phù hợp với luật pháp quốc
tế, Cơng ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng


xử của các bên ở biển Đơng (DOC), nhằm giữ gìn hịa bình, ổn định và hợp tác ở
khu vực. Hai Đảng luôn duy trì, giữ vững và giúp đỡ lẫn nhau một cách chí tình và
vơ tư, trong sáng để cùng phát triển, đồng thời giữ vững các mục tiêu cách mạng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước.


<i><b> Một lần nữa chúng ta khẳng định một điều rằng, giữ gìn và phát huy mối</b></i>
<i><b>quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ,</b></i>
<i><b>đó là mối quan hệ đặc biệt được hai Đảng, hai Nước và nhân dân hai dân tộc</b></i>
<i><b>thường xuyên trân trọng, vun đắp và gìn giữ qua các thời kỳ cách mạng. Chúng</b></i>
<i><b>ta tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của hai Đảng, nhân dân hai Nước sẽ</b></i>
<i><b>thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng cũng như kế hoạch phát triển kinh</b></i>
<i><b>tế-xã hội của mình./.</b></i>


<b>9. NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ, VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON</b>
<b>NGƯỜI LÀO</b>


<b>1. Đất nước và con người Lào</b>


Nước Lào có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước:
Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp My-an-ma, phía tây giáp Thái Lan,
phía nam giáp Căm-Pu-Chia và phía đơng giáp Việt Nam. Lào có 17 tỉnh và thành
phố trực thuộc trung ương, trong đó có 10 tỉnh chung đường biên giới với Việt Nam
với chiều dài 2067 km (Riêng đường biên giới chung với Quảng Trị là 206 km, gồm
2 tỉnh Savằnnkhet và Salavan).


Rừng núi chiếm 3/4 diện tích, có nhiều lâm sản, động vật và khống sản q
hiếm. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có dịng Mê-cơng chảy từ bắc xuống nam dài
1865 km. Có núi Phu-bia cao 2820m so với mặt nước biển, là đỉnh cao nhất nước
Lào. Có cố đơ Lng-pha-ra-băng là di sản văn hố thế giới, hàng năm thu hút rất


nhiều khách du lịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu
năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Năm 1949, quốc gia này nằm dưới sự
lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954,
Pháp ký hiệp định Giơnevơ cơng nhận nền độc lập và tồn vẹn lãnh thổ của Lào.


Từ năm 1955 đến năm 1975, Vương quốc Lào lệ thuộc mạnh mẽ vào Hoa Kỳ
trong cuộc chiến chống Cộng sản tại Đơng Dương, tình hình đó đã lôi kéo Lào vào
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là yếu tố dẫn đến nội chiến Lào và xảy ra
một vài cuộc đảo chính.


Đảng đề ra nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới là: <i>“đoàn kết, lãnh đạo</i>
<i>toàn dân, phấn đấu hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện một nước</i>
<i>Lào hịa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng”.</i>


Từ năm 1968, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam đã hỗ trợ các
đơn vị tham chiến cùng quân Pathét chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Sức
mạnh tổng hợp của cách mạng Lào trong khối liên minh đồn kết chiến đấu với các
nước Đơng Dương đã dồn đế quốc Mỹ và tay sai ở Lào vào thế bị động, khốn quẩn
chưa từng thấy. Mỹ thấy không thể thắng được Pathét Lào bằng sức mạnh quân sự
do đó phải chấp nhận phương sách “hịa hỗn” với các lực lượng cách mạng Lào.


Năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, phong trào
cộng sản Pathét Lào đã lật đổ chính quyền hồng tộc. Ngày 29/11/1975, nhà vua
Lào phải tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ Lào. Ngày 02/12/1975, Đại
hội đại biểu nhân dân tồn quốc Lào quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ, thành lập
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Đồng chí Suphanuvong được cử giữ chức
Chủ tịch Nước, đồng chí Cayxỏnphơmvihẳn Tổng Bí Thư được cử làm Thủ tướng.
Từ đó, ngày 02 tháng 12 được lấy làm ngày Quốc khánh của nước Cộng hoà Dân


chủ Nhân dân Lào.


Sau hơn 30 năm ròng rã đấu tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Lào đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn. Việc
khai sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (02/12/1975) đã kết thúc vẻ vang
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào kéo dài suốt 197
năm kể từ khi phong kiến Xiêm đặt ách thống trị Lào vào năm 1778. Đây là một
thắng lợi oanh liệt nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước hàng nghìn năm của nhân dân các bộ tộc Lào. Với thắng lợi này, nhân dân các
bộ tộc Lào bước vào kỷ ngun độc lập, tự do, hịa bình và tiến bộ.


<b>2. Nền văn hoá Lào: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư tưởng
của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, tạo
nên một dân tộc Lào rất riêng.


Người dân Lào đã thấm nhuần trong mình những lời Phật dạy, một mực kính
trọng các bậc tăng ni, những vị sư sãi trong chùa.


Lào là đất nước của bốn mùa lễ hội. Cũng như các nước trong khu vực Đông
Nam Á, lễ hội tại đất nước Lào cũng chia làm 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ
là phần nghi thức do chính con người đặt ra để giao cảm với thần linh và phần hội
chủ yếu là vui chơi, giải trí. Mỗi năm có 4 lần tết: Tết Dương Lịch, Tết Nguyên Đán
(như ở một số nước Á Đông), Tết Lào (Bun PiMay vào tháng 4) và Tết H'mong
(tháng 12). Ngồi ra cịn các lễ hội: Bun PhaVet ( Phật hóa thân) vào tháng 1 ; Bun
VisakhaPuya (Phật Đản) vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng
5; Bun Khao PhanSa (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ
người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội ở Lào
hay còn được gọi là Bun, nghĩa là phước, làm Bun nghĩa là làm phước để được


phước.


Lào có tết cổ truyền Bunpimay (có nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là
Tết té nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm.


Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn (một dạng
của ống tre. Một dàn nhạc điển hình bao gồm người thổi khèn cùng với biểu diễn
múa bởi nghệ sĩ khác. Múa Lăm vông (<i>Lam saravane</i>) là thể loại phổ biến nhất của
âm nhạc Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên
thế giới gọi là <i>mor lam sing</i>.. Khi được mời cùng múa Lăm Vông với người khác
giới, hai người đi song song nhưng không va chạm vào người phụ nữ.


Chăm pa (hoa đại) là một loài hoa biểu tượng của đất nước và con người Lào.
Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hương sắc ngào ngạt của hoa chăm pa phản ảnh
rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, với những con người có một vẻ đẹp giản dị,
chan hồ, gìn giữ và chất phác, thật thà. Hạnh phúc biết bao khi được các cơ gái
chồng lên cổ vịng hoa chăm pa, buộc vào cổ tay vòng chỉ cầu mong phúc lành,
đam mê không muốn dứt trong những điệu múa Lăm vông dưới bóng cây chăm pa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Các nước đạo Phật phát triển trở thành quốc giáo thì phong tục tập quán cơ
bản giống nhau. Con người Lào lịch sự, lễ phép, không thoa đầu mọi người kể cả
trẻ em, không bá vai, bá cổ. Người Lào gặp nhau, người dưới chắp tay chào người
trên; trẻ em chắp tay chào người lớn, không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau.


Có cuộc sống n ả, thanh bình và thơ mộng, người Lào thật thà, chất phác,
hiền hoà, dễ mến, trọng danh dự. Tính cách ấy biểu hiện rõ trên ánh mắt, nụ cười,
cử chỉ và dáng điệu của mỗi con người. Trong gia đình họ chung sống hồ thuận, và
đặc biệt họ rất quý trọng tình bạn, quý trọng chữ tín. Chuyện vợ chồng ly hơn cũng
rất ít khi xảy ra, vì nó bắt nguồn từ những phong tục thuần hậu truyền đời. Người
Lào rất gần gũi và hầu như khơng gặp trở ngại gì lớn trong văn hóa và giao tiếp. Sự


hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc trong triết lý
nhân sinh người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: <i>“Nói hợp lịng thì xin ăn cho cũng chả</i>
<i>tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán” </i>


<i> </i> Người Việt còn lưu lại trong thư tịch cổ: <i>“người Lào thuần hậu chất phác”</i>,
trong giao dịch bn bán thì<i>“họ vui lịng đổi chác”. </i>Đó cũng là tình cảm bình dị,
chân thành mà người dân nước Việt giành cho người người dân láng giềng của
mình.


<i>Viên Chăn</i> - tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, có nghĩa là “thành
phố của gỗ đàn hương” – một loại cây quý trong kinh điển Ấn Độ. Theo tiếng Lào
-Wiang Jan có nghĩa là “thành phố của mặt trăng”. Tại Viêng Chăn, có rất nhiều chợ
đường phố.


<i>Tháp That Luang</i> (Thạt Luổng)- di sản văn hóa thế giới, biểu tượng văn hóa
Phật giáo và hiện được coi là biểu tượng của nước Lào. Tháp That Luang được coi
là rất linh thiêng nên có nhiều người đến đây cầu khấn các nguyện vọng.


<i>Luông Pra Băng</i> hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông
Pha-băng là Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh của
Lào dưới triều Vua Xê-tha-thi-lát, nhưng từ năm 1545 chiến tranh xảy ra liên miên,
Vua Xê-tha-thi-lát quyết định rời kinh đô đến Viêng Chăn.


<b>Cánh đồng chum</b><i><b> - một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh </b><b>Xiêng Khoảng có</b></i>


<i><b>khoảng 2.000 cái chum lớn nhỏ ở 52 địa điểm nằm rải rác tại chân dãy núi</b></i>
<i><b>Trường Sơn. Kích thước của các chum đá dao động khoảng từ 0,5 đến 3m, trọng</b></i>
<i><b>lượng lên đến 6000 kg và có niên đại khoảng 1500 đến 2000 năm. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i><b>những bí ẩn của một nền văn hoá, một thế giới tâm linh mà cho đến bây giờ vẫn</b></i>


<i><b>chưa rõ về xuất xứ…</b></i>


Đất nước, con người và nền văn hoá Lào quả là đang mang trong mình
nguốn sức mạnh vơ biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu, đó chính là tiềm năng và là
nguồn nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang được Đảng, Nhà nước
và nhân dân các bộ tộc Lào trân trọng, giữ gìn, bồi đắp và phát huy trong thời đại
mới, thời đại hội nhập và phát triển.


<b>10. CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÌN GIỮ, PHÁT HUY TÌNH CẢM HỮU NGHỊ</b>
<b>ĐẶC BIỆT VIỆT NAM- LÀO </b>


Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam - Lào
cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong lịch
sử quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: <i>“Việt Lào hai nước chúng ta </i>


<i>-Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”</i>. Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản cũng từng


nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh
thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đồn kết liên minh
chiến đấu đặc biệt lâu dài và tồn diện như vậy”.


Tình đồn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc củng
cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa Việt
Nam và Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước, hai
bên luôn khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành mọi ưu tiên
cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt,
hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vô giá cần gìn giữ và truyền lại
cho mn đời con cháu mai sau



Định hướng cơ bản của chiến lược hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam giai
đoạn 20112020 là: “Phát huy truyền thống quan hệ đặc biệt Việt NamLào, Lào
-Việt Nam trở thành động lực tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hợp tác kinh tế,
góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập của mỗi nước”.
Thường xuyên phối hợp và cụ thể hóa quan điểm về quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào - Việt Nam trên tinh thần các tuyên bố chung và thỏa thuận cấp cao giữa
lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước vào các nội dung hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật giữa hai nước..


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

sâu rộng và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, lãnh
đạo cấp cao hai nước đã nhất trí trước hết tiếp tục củng cố, tăng cường sự gắn bó,
tin cậy và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong những vấn đề có tính chiến lược
giữa hai Đảng, hai nước; duy trì các cuộc gặp cấp cao truyền thống. Tăng cường
tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả và thiết thực về
mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt
Nam-Lào, Lào-Việt Nam cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nước, đặc
biệt là thế hệ thanh thiếu niên hôm nay và mai sau./.


<b>11. TẠI SAO HAI NƯỚC VIỆT NAM- LÀO PHẢI YÊU THƯƠNG GẮN</b>
<b>BÓ CHẶT CHẼ VỚI NHAU</b>


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc, đấu tranh vì
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.


Hai nước Việt Nam - Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy, nhân
dân hai nước đã “<i>chung lưng đấu cật</i>” để xây dựng mỗi nước phát triển. Là hai
nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào đã chung


tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu nghị truyền
thống lâu đời Việt Nam - Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân thiết, sự gắn bó
keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào đã trải qua muôn vàn
thử thách, được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân hai nước, đặc biệt là
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản kính mến trực tiếp
gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng
nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp, không ngừng phát
triển và trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng và là mẫu mực hiếm
có trong quan hệ quốc tế hiện nay.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “<i>Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên</i>
<i>cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã</i>
<i>nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào</i>


<i>thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được</i>”. Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19></div>

<!--links-->

×