Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tài liệu Phòng trị bệnh trên dê docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.84 KB, 13 trang )

Phòng trị bệnh trên dê

Nguồn: hoind.tayninh.gov.vn
NHỮNG BỆNH CỦA DÊ DO VI KHUẨN
1. Bệnh nhiệt thán
Nguyên nhân và cách lan truyền bệnh:
Bệnh gây ra do vi khuẩnBacillus anthracis, khi tiếp xúc với không khí vi
khuẩn thay đổi từ chúng gây bệnh (cường độc) ở bên trong cơ thể thành nha bào
hay dạng không hoạt động. Ở dạng này vi khuẩn tồn tại rất lâu ngoài môi trường,
thậm chí đến hàng chục năm. Khi gia súc nuốt phải nha bào thì mầm bệnh nhanh
chóng trở thành dạng cường độc, bắt đầu sinh sản và gây bệnh. Bệnh xảy ra khi
con vật nuốt phải nha bào khi chăn thả, uống nước bị nhiễm mầm bệnh, hoặc do
ăn thức ăn chế biến từ động vật mắc bệnh này.
Bệnh thường xảy ra ở thể quá cấp(làm dê chết trong vòng 2-6 giờ) hoặc
dạng cấp tính kéo dài sau 48 giờ mới chết.
Triệu chứng:
Triệu chứng đặc trưng là sốt cao: 41-42
0
C, suy yếu nhanh, màu của niêm
mạc, miệng, mắt từ đỏ chuyển sang tím tái, đôi khi ỉa chảy lẫn máu. Thở nhanh,
nóng nhịp tim nhanh và yếu. Dê bỏ ăn, lờ đờ, sữa và nước tiểu bị lẫn máu. Luỡi,
hầu và xung quanh hậu môn bị sưng. Trên xác chết thấy máu chảy ra từ các lỗ tự
nhiên, xác chết không cứng. Nếu nghi ngờ chết do nhiệt thán thì không được mổ
xác chết. Tốt nhất là cắt một mẩu tai để trong túi ni-lông kín (ướp lạnh nếu có thể)
và mang nhanh đến trung tâm thú y. Kiểm tra máu ở tai có thể tìm thấy được mầm
bệnh. Nếu mổ xác chết làm máu hay phủ trạng vương vãi thì sẽ tạo ra nguồn lây
lan bệnh lâu dài.
Điều trị và cách phòng:
Khi các triệu chứng đã thể hiện rõ thì điều trị không có kết quả. Nếu
bệnh đã xảy ra thì toàn bộ đàn gia súc ở vùng đó phải được tiêm phòng bằng vắc-
xin. Điều trị thường dùng tetracycline hoặc peniciline… liều cao và kéo dài ít nhất


là 5 ngày.
Xác chết không được mổ và phải được đốt hoặc chôn sâu. Chỉ có những
chất sất trùng mạnh mới giết được mầm bệnh. Vi khuẩn ở dạng nha bàocó thể
sống trong đất rất nhiều năm. Tuy nhiên trong điều kiện yếm khí thì sẽ ngăn cản
được sự hình thành nha bào và sẽ giết chết mầm bệnh. Cần phải tiêm phòng cho dê
theo định kỳ ở những vùng mà bệnh đã xảy ra.
2. Bệnh sãy thai truyền nhiễm (Brucellosis)
Nguyên nhân và cách lan truyền:
Vi khuẩn chủng Brucella melitensis gây bệnh cho dê. Dê mắc bệnh khi
ăn thức ăn, nước uống hay liếm các đồ vật bị nhiễm mầm bệnh. Hoặc do liếm dê
con mới sinh dính chất dịch từ đường sinh sản của dê mắc bệnh. Cũng có thể bệnh
lây lan khi giao phối với con mắc bệnh.
Triệu chứng:
Dê biểu hiện triệu chứng kông rõ ràng, đôi khi bị viêm vú, chân yếu, uể
oải kém ăn. Dê thường bị sảy thai khi đã chữa được 4-6 tuần, còn ở con đực thì bị
sưng ở bao dịch hoàn và dương vật. Cách tốt nhất để chuẩn đoán bệnh lấy màu
kiểm tra tìm mầm bệnh.
Điều trị và cách phòng:
Không có biện pháp nào điều trị hiệu quả. Thông thường dê mắc bệnh
hay dê sinh ra từ con mẹ mắc bệnh phải giết thịt. Biện pháp tốt nhất là đảm bảo an
toàn bệnh trong đàn. Nơi nào đã xảy ra bệnh thì phải sử dụng vắc-xin tiêm phòng.
3. Bệnh giả lao (Pseudotuberculosis)
Nguyên nhân và cách lan truyền bệnh:
Bệnh gây nên bởi vi khuẩn Corynebacterium tuberculosis ovis. Bệnh lây
aln chủ yếu cho con vật ăn phải thức ăn bị nhiễm vi khuẩn này hoăc có thể bị lây
lan bởi các chất dịch của áp xe khi vở ra. Đôi khi vi khuẩn trực tiếp xâm nhập vào
cơ thể qua chổ da bị trầy xước.
Triệu chứng:
Các hạch lâm ba sưng lên và tạo thành các áp xe. Các áp xe này thường
xuất hiện ở dười cằm, tai, trước bả vai, lưng hoặc bú vú, hậu môn, bắp chân sau.

Các hạch này có thể nóng, đau và sưng to 3-5 cm hoặc to hơn. Bệnh thường gây
nguy hiểm nhiều, trừ khi các áp xe sưng lên chèn vào mạch máu hoặc áp xe phát
sinh ở hệ thống thần kinh hay ở các cơ quan nội tạng. Trong các áp xe có mủ màu
xanh vàng. Việc chuẩn đoán bệnh được dựa trên vị trí của các áp xe, đặc điểm của
mủ. Nếu cần lấy mủ nuôi cấy vi khuẩn trong phòng thí nghiệm.
Điều trị và cách phòng:
Các áp xe được điều trị bằng phẩu thuật và phải được thực hiện cẩn thận
chu đáo, nhất là các áp xe vùng đầu, cổ. Khi điều trị nên sử dụng một số loại
kháng sinh đặc hiệu với liệu trình từ 3-5 ngày (theo sự chỉ dẫn của bác sĩ thú y).
Rất khó phòng được bệnh này vì vi khuẩn Corynebacterium pseudo
tuberculosis (typ ovis) thường tồn tại ở trong đất. Khi phẩu thuật xong nên rửa vết
thương bằng cồn lod 3-5%, toàn bộ tổ chức, mủ máu ở ổ áp xe phải được dọn sạch
và đốt bỏ. Khi dê mới mua về phải cách ly ít nhất 30 ngày và tốt nhất là 2 tháng.
Thời gian đó đủ để cho bệnh phát được ra ngoài. Có thể sử dụng dạng vắc-xin chết
được phân lập từ đàn dê bị nhiểm bệnh để đề phòng bệnh này.
4. Bệnh Listeriosis (Listerellosis, Circling Disease)
Nguyên nhân và cách lây truyền:
Bệnh gây nên bởi vi khuẩn Listeria monocytogenes và thường phổ biến
ở vùng có khí hậu lạnh. Vi khuẩn có sức đề kháng cao và hay tiếm sinh trong đất,
thức ăn gia súc ủ chua, phân, sữa, nước tiểu và dịch mắt, dịch mũi của con vật
nhiễm bệnh này. Bệnh Listenosis chỉ bị lan truyền khi dê nuốt, hít phải vi khuẩn
qua mắt. Mỗi cách truyền bệnh dẫn đền triệu chứng lâm sàng khác nhau. Ví dụ:
Nếu nuốt phải vi khuẩn thì thường gây nên sảy thai ở dê có chửa; nếu vi khuẩn
nhiễm qua mắt hoặc qua mũi thì dẫn đến dạng bệnh thần kinh, viêm não.
Triệu chứng lâm sàng:
Dê mắc bệnh ở dạng ở dạng sảy thai thì thường không kèm theo triệu
chứng khác. Nếu ở dạng thần kinh thì dê quay vòng tròn một chiều, sốt cao, bỏ ăn,
mắt đỏ, có khi bị mù và suy nhược cơ thể. Nếu cấp tính dê có thể bị chết nhanh
trong vòng 4-48 giờ từ khi có triệu chứng. Những con dê mắc bệnh này có thể bị tê
liệt một bên mặt, thể hiện bằng hiện tượng rủ tai xuống, nheo mí mắt và chảy dãi

qua môi mép. Khi dê ốm gần chết thì nằm xuống và ngất xỉu đi. Nếu có bệnh xảy
ra, thì có thể tới 20% số dê trong đàn bị nhiễm bệnh.
Điều trị và phòng bệnh:
Không có cách nào điều trị hữu hiệu đối với động vật nhai lại nhỏ và
thường bị chết. Có thể sử dụng Penicllin tiêm liều cao có thể cứu được vài trường
hợp bệnh còn nhẹ.
Khi xuất hiện bệnh thì cần cách ly ngay những con có triệu chứng. Nếu
cho dê ăn thức ăn ủ chua thì phải đình chỉ ngay trong toàn đàn.
5. Bệnh thuỷ thủng thượng bì (malignant Edema)
Nguyên nhân và cách lây truyền:
Mặc dù bệnh được gây ra do vi khuẩn Clostridium septicum, nhưng các
chủng khác của Clostridium cũng gây ra các triệu chứng tương tự trên dê. Bệnh
xảy ra do vi khuẩn xâm nhập vào các vết thương. Trong vết thương, vi khuẩn sinh
sản, nhân lên rất nhanh và tiếc ra các độc tố. Độc tố này làm chết các tế bào và tổ
chức xung quanh. Nếu mắc bệnh, dê sẽ chết nhanh trong 2-3 ngày sau khi có triệu
chứng đầu tiên. Điều này còn phụ thuộc vào loại tế bào, tổ chức bị phá huỷ và vị
trí của vết thương.
Triệu chứng:
Xuất hiện các nốt sưng trên cơ thể kèm theo sốt cao, suy yếu và bỏ ăn.
Nếu nhiễm bệnh qua vết thiến thì con vật đi lại sẽ khó khăn. Vùng bị sưng sẽ lan
nhanh chóng ra toàn bộ cơ thể. Để chuẩn đoán chính xác cần phải nuôi cấy vi
khuẩn trong phòng thí nghiệm.
Điều trị và phòng bệnh:
Có thể sử dụng peniclline, tetracyclin hay một số loại kháng sinh khác.
Sulfamit để tiêu diệt mầm bệnh. Tuy nhiên cần phải điều trị sớm vào giai đoạn đầu
của bệnh. Nếu điều trị muộn, bệnh đã kéo dài thì cơ thể rất khó phục hồi.
Biện pháp phòng tốt nhất là chăm sóc nuôi dưỡng dê tốt, vệ sinh sát
trùng cẩn thận khi thiến, cắt sừng hay xử lý các vết thương, nên rửa sạch và sử
dụng bột kháng sinh để rắc lên các vết thương hở.
6. Bệnh viêm vú (Mastitlis)

Nguyên nhân & cách lan truyền
Viêm vú là dạng viêm tuyến sữa và bầu vú của con vật. Bệnh thường
được gây nên bởi các vi khuẩn Staphylococcus spp Corynebacterium spp,
Streptococcus spp, hoặc một số chủng E.con… Nguyên nhân dẫn tới bệnh viêm vú
thì có nhiều, nhưng bệnh xảy ra chủ yếu do vệ sinh môi trường và qui trình vắt sữa
không đúng kỹ thuật. Một số bệnh khác cũng kế phát viêm vú như viêm tử cung,
viêm ruột, các vế thương ở bầu vú…

Triệu chứng
Triệu chứng chủ yếu là sưng, đỏ, đau vùng bầu vú. Thông thường có thể
quan sát sự biến đổi tổ chức của vú và của sữa. Vú bị viêm sẽ thay đổi màu sắc từ

×