Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Tìm hiểu lễ hội cầu mát làng hồ khẩu, phường bưởi, quận tây hồ, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.97 MB, 119 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
 

TÌM HIỂU LỄ HỘI CẦU MÁT LÀNG HỒ
KHẨU, PHƯỜNG BƯỞI, QUẬN TÂY HỒ,
HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số : 52320305

Người hướng dẫn:           PGS.TS. NGUYỄN QUỐC HÙNG
Sinh viên thực hiện: ĐINH THỊ THU HIỀN

HÀ NỘI - 2013
 

1


LỜI CẢM ƠN
Đề tài khóa luận tốt nghiêp: “Tìm hiểu lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu,

phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội” được hoàn thành là kết quả của q trình
học tập tại Khoa Di sản Văn hóa Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Trong suốt q
trình nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự quan tâm rất lớn từ các thầy cô giáo
hiện là giảng viên khoa Văn hóa Di sản Văn hóa - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
cũng như gia đình và bạn bè.
Qua đây, tơi xin tỏ lịng biết ơn chân thành đến các thầy cơ trong khoa Di sản
Văn hóa. Và đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành nhất tới PGS. TS. Nguyễn


Quốc Hùng, người đã tận tình định hướng, giúp đỡ và chỉ bảo cho tôi trong suốt q
trình thực hiện khóa luận.
Tơi cũng xin được gửi lời cám ơn trân trọng đến ông Vũ Văn Luân, Trưởng
Tiểu ban di tích cụm II làng Hồ Khẩu, phường Bưởi vì ơng đã tạo mọi điều kiện cho
tơi tìm hiểu các di tích trên địa bàn làng Hồ Khẩu, giúp tơi thuận lợi hồn thành bài
nghiên cứu của mình.
Tuy đã có nhiều cố gắng song do việc nghiên cứu tài liệu và sự hiểu biết còn
hạn chế, đề tài nghiên cứu chắc chắn khơng tránh khỏi thiếu sót, kính mong các
thầy cơ và các bạn sinh viên đóng góp ý kiến để tơi có thể rút ra kinh nghiệm trong
các lần nghiên cứu tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2013
Sinh viên

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ......................... 12
1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội làng Hồ Khẩu .................... 12
1.1.1 Vị trí địa lý ....................................................................................... 12
1.1.2 Lịch sử vùng đất............................................................................... 13
1.2 Khái quát về đời sống văn hóa - kinh tế - xã hội làng Hồ Khẩu..... 17
1.2.1 Con người làng Hồ Khẩu ................................................................. 17
1.2.2 Đời sống kinh tế - xã hội.................................................................. 18
1.2.3 Truyền thống văn hóa địa phương ................................................... 21
1.3 Cụm di tích tiêu biểu trên địa bàn làng Hồ Khẩu ............................ 25
1.3.1 Chùa Tĩnh Lâu ................................................................................. 25
1.3.2 Chùa Chúc Thánh ............................................................................ 25
1.3.3 Đền Dực Thánh ................................................................................ 26

1.3.4 Đền Vệ Quốc ................................................................................... 27
Chương 2: LÀNG HỒ KHẨU - THẦN TÍCH VÀ LỄ HỘI CẦU MÁT . 29
2.1 Truyền thuyết các vị thành hồng làng ............................................. 29
2.1.1 Theo Thần tích phường Hồ Khẩu .................................................... 29
2.1.2 Theo truyền thuyết trong dân gian. .................................................. 31
2.2 Đình Hồ Khẩu - khơng gian của lễ hội ............................................... 33
2.2.1 Lịch sử xây dựng đình làng Hồ Khẩu .............................................. 33
2.2.2 Giá trị kiến trúc và các di vật trong đình làng Hồ Khẩu.................. 35
2.2.3 Các vị thần được thờ trong đình làng Hồ Khẩu ............................... 39
2.3 Lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu ............................................................. 39
2.3.1 Mục đích tổ chức lễ hội ................................................................... 39
2.3.2 Thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội .................................................... 40
2.3.3 Diễn trình của lễ hội cầu mát ........................................................... 41
2.3.4 Giá trị của lễ hội cầu mát ở làng Hồ Khẩu ...................................... 55
3


Chương 3: THỰC TRẠNG CỦA LỄ HỘI CẦU MÁT VÀ CÁC GIẢI
PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI .......................... 60
3.1 Sự biến đổi của lễ hội cầu mát trong đời sống hiện đại .................... 60
3.1.1 Biến đổi về cách thức tổ chức lễ hội ................................................ 60
3.1.2 Biến đổi về nghi lễ ........................................................................... 61
3.1.3 Biến đổi về lễ vật dâng cúng............................................................ 62
3.1.4 Biến đổi về trò chơi trò diễn ............................................................ 62
3.2 Đánh giá chung sự về thực trạng của lễ hội cầu mát ........................ 63
3.2.1 Về mặt tích cực ................................................................................ 63
3.2.2 Những mặt hạn chế .......................................................................... 64
3.3 Một số giải pháp bảo tồn, phát huy lễ hội cầu mát ........................... 65
3.3.1 Các quan điểm về bảo tồn ................................................................ 65
3.3.2 Một số giải pháp bảo tồn lễ hội cầu mát .......................................... 66

KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76
PHỤ LỤC

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội truyền thống là một trong những yếu tố cấu thành nên di sản văn
hóa phi vật thể, là hoạt động phản ánh rõ nét những sinh hoạt văn hóa của
cộng đồng dân cư trong một khơng gian văn hóa cụ thể và là môi trường tốt
để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại - là nhịp cầu bắc nối
quá khứ và tương lai.
Đất nước Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử dựng và giữ nước.
Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, cộng đồng người Việt đã xây dựng được cho
mình một nền văn hóa phong phú và đa dạng, mang đặc sắc riêng của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Trong kho tàng văn hóa của dân tộc thì lễ hội dân gian
truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hóa hết sức độc đáo, có mặt ở mọi
miền đất nước. Đây là loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phong phú và đa
dạng, phản ánh đầy đủ mọi mặt của đời sống văn hóa - xã hội mà nó trải qua.
Các yếu tố văn hóa tinh thần được lễ hội bảo lưu và truyền tụng từ đời này
sang đời khác, trở thành vốn di sản văn hóa vơ giá của dân tộc.
Lễ hội trước hết là sản phẩm riêng của mỗi một cộng đồng dân cư, kết
tinh từ sản phẩm văn hóa truyền thống làng xã và nắm giữ vai trò quan trọng
trong đời sống địa phương. Mỗi vùng quê trên đất nước Việt Nam đều mang
trong mình những nét văn hóa đặc sắc rất riêng được tạo bởi chính những con
người sống ở địa phương đó, góp phần làm nên bức tranh văn hóa các lễ hội
phong phú mà đa dạng của dân tộc. Qua lễ hội truyền thống của một địa
phương, ta có thể nhận diện gương mặt văn hóa của địa phương đó. Mỗi địa

phương lại có một đặc thù văn hóa riêng, khơng vùng miền nào lẫn với vùng
miền nào. Chính thơng qua các lễ hội cổ truyền mà chúng ta tìm ra được bản
sắc và phát huy được những giá trị tốt đẹp của dân tộc mình.
Vùng đất Bưởi quận Tây Hồ nằm về phía Đơng Bắc của thủ đơ Hà Nội,
là nơi tụ cư của một số làng cổ có bề dày truyền thống từ thuở xa xưa. Các lễ
5


hội ở vùng đất này mang đậm nét văn hóa làng xã, có sắc thái độc đáo đã từ
bao đời nay. Nhắc đến lễ hội ở vùng đất Bưởi, ta khơng thể khơng kể tới lễ
hội cầu mát (cịn gọi là lễ hội cầu an) của làng Hồ Khẩu.
Làng Hồ Khẩu là một làng cổ nằm trong vùng đất Bưởi, sở dĩ có tên
như vậy là vì làng nằm ở cửa ngõ của Hồ Tây xưa. Làng có hai lễ hội chính
trong năm là lễ hội Tháng Hai và lễ hội cầu mát diễn ra vào tháng tư âm lịch.
Lễ hội của làng Hồ Khẩu là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống
của làng, là dịp mà những người con của làng gửi gắm vào trong đó những
ước mơ, khát vọng về một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Tìm về lễ hội nơi
đây, cũng là tìm đến chìa khóa giải mã phần nào về vùng đất và truyền thống
văn hóa của con người Kẻ Bưởi.
Nghiên cứu về lễ hội cầu mát của làng Hồ Khẩu phường Bưởi, tôi
muốn khắc họa đôi nét về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của
dân cư vùng Bưởi, góp phần sức nhỏ của mình vào việc giữ gìn bản sắc văn
hóa truyền thống tốt đẹp đang bị biến đổi mạnh mẽ trong xã hội hiện đại; qua
đó có thể phát huy giá trị văn hóa nhằm phục vụ đời sống tinh thần của cư dân
trong vùng và hoạt động du lịch của địa phương trong sự nghiệp phát triển
kinh tế hiện nay.
Qua đề tài nghiên cứu này, tơi muốn khẳng định vai trị quan trọng của
sinh hoạt lễ hội trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng dân cư làng
Hồ Khẩu nói chung cũng như làng quê Việt Nam nói riêng.
Với nghiên cứu của mình, tơi mong muốn cung cấp đơi chút tư liệu

giúp cho các nhà nghiên cứu văn hóa bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị
của lễ hội truyền thống trong bối cảnh của xã hội hiện đại.
Vì vậy, tơi chọn “Tìm hiểu lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu, phường
Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

6


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian có lịch sử lâu đời và
mang tính dân tộc sâu sắc. Mặc dù nảy sinh, tồn tại và phát triển từ rất nhiều
thế kỷ trước, nhưng lễ hội cầu mát cũng như hầu hết các lễ hội dân gian khác
đều không được các sử gia phong kiến quan tâm, ghi chép lại.
Từ những năm 1990 trở lại đây, cùng với sự biến đổi mạnh mẽ của đời
sống kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại hóa, các lễ hội dân gian truyền
thống - bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần phải biến
đổi theo, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau như các nhà văn hóa học, xã hội học, sử học, nhà văn, nhà thơ, nhà
báo... Mỗi một nhà khoa học với cách thức tiếp cận khác nhau của mình đã
cùng tạo nên kho tư liệu phong phú về lễ hội cổ truyền Việt Nam.
Trên thực tế, lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu hầu như không để lại nhiều
ghi chép trên sách vở. Hiện nay chưa có một tài liệu chính thức nào nghiên
cứu về đề tài này. Chính vì vậy, để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình,
nguồn tư liệu mà tơi sử dụng chủ yếu là các tư liệu có được trong q trình
khảo sát thực tế tại địa phương.
Các cơng trình nghiên cứu đáng kể nhất từng nhắc đến lễ hội cầu mát như:
- Đất Bưởi ngàn xưa của Lê Văn Kỳ và Vũ Văn Ln, NXB Văn hóa
thơng tin 2011. Trong tài liệu này có đề cập đến các lễ hội của vùng đất Bưởi.
Đối với hai lễ hội chính của làng Hồ Khẩu là lễ hội Tháng Hai và lễ hội cầu
mát thì sách trọng tâm nhắc lễ hội Tháng Hai, không đề cập nhiều đến lễ hội

cầu mát, dù rằng đây là lễ hội chính của làng.
- Lễ hội Việt Nam PGS. Lê Trung Vũ và PGS. Lê Hồng Lý đồng chủ
biên, nxb VHTT;
- Hà Nội, Văn hóa và phong tục của Lý Khắc cung;
- Từ điển hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết. Nxb Văn học 1993;

7


- Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội của Đinh
Gia Khánh, Nxb Hà Nội 2008.
Trong các tư liệu này, lễ hội cầu mát chỉ được gói gọn trong vài trang
vài dịng về những thông tin cơ bản nhất như: ngày mở hội, các vị thần được
thờ tự, địa điểm diễn ra lễ hội. Đây chỉ là những thơng tin mang tính chất
điểm danh sơ lược nhất.
Cũng có tư liệu cung cấp thơng tin sai lệch, ví dụ như trong sách Đình
và đền Hà Nội của Nguyễn Thế Long, Nxb Văn hóa thơng tin 2005, trang 363
có viết: “Tương truyền đền lập từ thời Lý để thờ Cống Lễ đại vương (tức Vệ
Quốc tướng qn) có cơng đánh giặc Chiêm Thành đời nhà Lý”. Sự thực đền
Vệ Quốc thờ Cá Lễ công, em song sinh với Cống Lễ cơng, một trong nhị vị
thành hồng của làng Hồ Khẩu chứ không phải thờ Cống Lễ.
Đa số các tư liệu cũ đều coi lễ hội làng Hồ Khẩu là thuộc phường Bưởi,
quận Ba Đình. Trong khi từ năm 1995, phường Bưởi đã trực thuộc quận Tây
Hồ, Hà Nội. Tuy nhiên trong các sách được tái bản sau năm 1995 đều chưa có
sự sửa đổi lại địa danh cho phù hợp.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu chưa
được giới nghiên cứu quan tâm đúng mức, chưa có cơng trình nào nghiên cứu
lễ hội cầu mát một cách toàn diện và hệ thống.
Việc tìm hiểu lễ hội cầu mát sẽ giúp cho chúng ta thêm một lần nữa đúc
kết giá trị đích thực của lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận là lễ hội cầu mát tại làng Hồ
Khẩu, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội trong bối cảnh tự nhiên và xã hội
của một làng cổ ven Hồ Tây.

8


3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu về lễ hội cầu mát trong 10
năm trở lại đây.
Về khơng gian: tập trung nghiên cứu tồn bộ quy trình tổ chức lễ hội
cầu mát trong khơng gian lịch sử văn hóa của làng Hồ Khẩu, vùng đất Bưởi.
4. Mục đích nghiên cứu
4.1 Khảo sát một cách tồn diện và hệ thống diễn trình lễ hội cầu mát,
trên cơ sở đó nhận diện văn hóa làng Hồ Khẩu với những nét ưu trội của nó
trong lịch sử phát triển và trong giai đoạn đơ thị hóa hiện nay.
4.2 Nghiên cứu về vùng đất, con người làng Hồ Khẩu; các giá trị văn
hóa phi vật thể của lễ hội cầu mát; thực trạng của lễ hội trong giai đoạn hiện
nay.
4.3 Đề xuất các phương án khả thi để bào tồn, phát huy giá trị vốn có
của lễ hội trong bối cảnh ngày nay.
5. Nội dung của khóa luận
5.1 Khảo sát tổng quan về làng Hồ Khẩu, phường Bưởi, quận Tây Hồ,
Hà Nội về vị trí địa lý, cảnh quan, dân cư, lịch sử hình thành vùng đất...
5.2 Tìm hiểu các truyền thuyết, di tích và lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu
5.3 Đề ra các biện pháp để bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cầu
mát trong đời sống hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Đề tài sử dụng chủ nghĩa khoa học Duy vật lịch
sử và duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin làm phương pháp
luận để xem xét quá hình thành, phát triển và chuyển đổi của lễ hội cầu mát
ở làng Hồ Khẩu để đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị phù
hợp với quá trìnmh vận động của lễ hội cầu mát và các tác động qua lại của
sự phát triển xã hội ;
9


Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp của bảo tàng học như: điều tra thực
địa, khảo sát điền dã, trực tiếp quan sát, phỏng vấn và thu thập số liệu;
Sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp để điều tra mức độ tin
cậy của thông tin thu thập được trong tương quan so sánh đối chiếu với thông
tin điều tra phỏng vấn, quan sát nhằm đảm bảo tính trung thực, khách quan,
chính xác của thơng tin;
Sử dụng các phương pháp khoa học liên ngành như Khoa học lịch sử,
Dân tộc học, Xã hội học;
Ngoài ra đề tài cịn sử dụng một số phương pháp phân tích nghiên cứu
tài liệu thư tịch cổ, ghi hình, ghi âm, chụp ảnh, phỏng vấn... Từ đó rút ra kết
luận phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
7. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp phần phác thảo diện mạo văn hóa dân gian của một làng
cổ ven Hồ Tây. Ngồi ra, đây là một đề tài có một cái nhìn tổng quan nhất về
lễ hội cầu mát làng Hồ Khẩu dựa trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống
lâu dài, cho phép đưa ra những nhận xét xác đáng về giá trị lịch sử, giá trị văn
hóa tinh thần của lễ hội này.
Đề tài nghiên cứu đúc kết những giá trị của lễ hội cổ truyền trong việc
bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa làng Hồ Khẩu trong bối cảnh hội nhập và đơ
thị hóa. Qua đó, sẽ làm sáng tỏ thêm các vấn đề lịch sử, văn hóa của làng Hồ

Khẩu nói riêng, vùng đất Bưởi và cả nước nói chung.
Đặc biệt, kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo khi
nghiên cứu lịch sử, văn hóa, lễ hội truyền thống làng Hồ Khẩu, quận Tây Hồ,
Hà Nội.

10


8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, bố
cục đề tài gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Làng Hồ Khẩu - Thần tích và lễ hội cầu mát.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội.
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình điền dã, thu thập tư liệu, xử
lý thông tin, giải quyết các vấn đề đặt ra, song, đây là một khóa luận tốt
nghiệp cử nhân, bản thân người viết còn thiếu kinh nghiệm trong việc nghiên
cứu khoa học nên khó tránh được thiếu sót và hạn chế. Tơi rất mong nhận
được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, các nhà nghiên cứu, các bạn đọc
quan tâm đến chủ đề này.

11


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội làng Hồ Khẩu
1.1.1 Vị trí địa lý
Trước năm 1995, làng Hồ Khẩu thuộc địa phận phường Bưởi, quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội. Vị trí địa giới của phường Bưởi được phân

định như sau:
Phía đơng giáp Hồ Tây,
Phía tây giáp Nghĩa Đơ,
Phía nam giáp Cống Vị,
Phía bắc giáp Xuân La.
Phường Bưởi bao gồm các làng cổ: Hồ Khẩu, Đông Xã, An Thái, An
Thọ, Trích Sài và Võng Thị. Các làng này và một số làng nay thuộc Nghĩa Đô,
Từ Liêm, Hà Nội xưa kia (làng Dâu, An Phú, Tân, Nghè, Đồi Mơn và Bái
Ân) thuộc vùng đất Bưởi - vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời từ hàng
nghìn năm nay.
Theo nghị định 69/CP ngày 28 tháng 10 năm 1995 của Chính phủ Việt
Nam; các phường Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ của quận Ba Đình chuyển sang
trực thuộc quận Tây Hồ. Kể từ đó, phường Bưởi thuộc địa bàn quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội. Quận Tây Hồ hiện nay bao gồm 8 phường là: Phường
Bưởi, phường Thụy Khuê, phường Yên Phụ, phường Tứ Liên, phường Nhật
Tân, phường Quảng An, phường Xuân La và phường Phú Thượng. Làng Hồ
Khẩu thuộc địa bàn phường Bưởi.
Nếu như phường Bưởi có hình tam giác thì làng Hồ Khẩu nằm ở đỉnh
phía Nam của tam giác đó. Một bên có sơng Tơ Lịch, một bên có dòng Long
Khê chảy qua, một bên tiếp giáp với làng Đơng Xã. Phía Bắc làng có chùa

12


Tĩnh Lâu, đền Dực Thánh; phía Nam có chùa Chúc Thánh; phía Đơng có đền
Vệ Quốc; phía Nam có đền Mẫu Thăng Long.
1.1.2 Lịch sử vùng đất
Bưởi là tên gọi thân thuộc của vùng đất rộng lớn nằm kề bên chợ Bưởi,
ngay sát Hồ Tây, phía Đơng Bắc thủ đơ Hà Nội. Sở dĩ có tên gọi “chợ Bưởi”,
“vùng Bưởi”, “phường Bưởi” là vì khi xưa chợ Bưởi họp trên một bãi bưởi

xanh tốt ngay ở hợp lưu sông Tô Lịch và sơng Thiên Phù. Tương truyền khi
xưa chợ có bến Hồng Tân - nơi các thuyền buôn đưa lâm sản và hoa quả từ
miền ngược qua sông Hồng để cập bến, phục vụ cho 36 phố phường Thăng
Long xưa. Bưởi Đoan Hùng (Phú Thọ) khi tràn về kinh đô theo đường sông,
mọc lên thành từng bãi bưởi tươi tốt và người xưa lấy đó để định danh cho cả
một vùng đất là “Kẻ Bưởi”.
Trong tâm thức dân gian, chữ “Kẻ” là một từ cổ thường được ghép vào
với một làng, hoặc một vùng dân cư có nhiều làng, ví dụ như Kẻ Noi (Xã Cổ
Nhuế, Từ Liêm), Kẻ Mơ (làng Hồng Mai), Kẻ Rỗ (Xã Liên Hà, Đơng Anh),
Kẻ Vẽ (vùng Đông Ngạc) hay là Kẻ Chợ (chỉ Hà Nội nói chung).
Như vậy, Kẻ Bưởi là từ dùng chỉ các làng cổ làm giấy, dệt lĩnh xung
quanh khu vực chợ Bưởi như làng Hồ Khẩu, Đông Xã, An Thọ, Yên Thái,
Võng Thị, Trích Sài cùng với các làng lân cận trên đất Nghĩa Đô như làng
Tân, Nghè, Bái Ân. Nay sáu làng đầu thì thuộc địa bàn phường Bưởi, quận
Tây Hồ, cịn ba làng sau thì trả lại cho Nghĩa Đô, thuộc quận Cầu Giấy.
Phường Bưởi là một vùng đất cổ đã trải qua bao biến thiên lịch sử.
Dưới thời các vua Hùng dựng nước, theo các thư tịch cổ để lại như Lĩnh Nam
chích qi thì vùng đất này có liên quan nhiều đến bộ Văn Lang trong thời kỳ
khai phá Hồ Tây, tạo lập khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Trong Hồ Tinh truyện
(truyện con cáo chín đi và sự tích Hồ Tây) vẫn cịn ghi lại tích này [32,
tr.51]. Cịn theo như các thư tịch cổ cũng như các di tích xưa của địa phương,
ta có thể đoán định vùng đất Bưởi là một vùng đất cổ đã có từ thời nhà Lý.
13


Theo như văn bia “Vĩnh Tộ ngũ niên” dựng tại Trích Sài (1623) đã ghi
lại rằng:
Vào Thời Lý, vùng Bưởi thuộc vùng ngoại ô thành Thăng Long, nằm
trong phủ Ứng Thiên.
Năm Quang Thuận thứ bảy (1466) thuộc huyện Quảng Đức phủ Trung

Đô.
Năm Quang Thuận mười (1469) Trung Đô đổi tên là phủ Phụng Thiên,
đất Bưởi lại thuộc phủ Phụng Thiên.
Vào năm Gia Long thứ tư (1805) nhà Nguyễn chia tách và đổi tên phủ
Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, Vĩnh Thuận; Bưởi thuộc tổng Trung, phủ
Hoài Đức, huyện Vĩnh Thuận.
Năm Minh Mệnh mười hai (1831) các phủ, tổng huyện này đều thuộc
tỉnh Hà Nội.
Năm 1888, khi chính quyền Pháp chia lại địa giới thì Bưởi tổng Trung,
phủ Hồi Đức.
Dưới thời Thuộc Pháp, nhà cầm quyền Pháp lại cắt một phần đất huyện
Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận lập ra huyện Hồn Long. Năm 1905, huyện
Hồn Long nhập về Hà Đơng. Năm 1923 huyện Hoàn Long đổi tên thành
huyện Vĩnh Thuận, gồm có 5 tổng, 54 phường. Trong đó phường Hồ Khẩu
cùng với 4 phường Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài đều thuộc Tổng Trung.
Sau cách mạng tháng tám 1945 (tháng 11 năm 1945), nhà nước ra sắc
luật quy định Hà Nội chia làm năm khu, vùng đất Bưởi thuộc khu Đại La.
Cho đến đầu năm 1948, chính quyền Pháp chia Hà Nội thành 36 khu phố, các
phường vùng Bưởi thuộc quận Quảng Bá.
Sau giải phóng thủ đơ 10-10-1954, các phường thuộc vùng Bưởi chia
làm hai xã là xã Đông Thái và xã Thái Đô, thuộc quận V. Năm 1961, khi khu
Ba Đình lập ra thì Bưởi thuộc quận Ba Đình và được chia thành các khối từ

14


K71 đến K75. Năm 1981, tất cả các khối này lại sát nhập với nhau để hình
thành phường Bưởi cho đến tận ngày nay.
Trải qua bao thời điểm thăng trầm của lịch sử; lúc hợp, khi tan, nhưng
phường Bưởi bao giờ cũng là một khu vực hành chính của kinh đô nước Việt.

Phường Bưởi nổi tiếng là một vùng đất địa linh. Theo tài liệu ghi chép
lại theo sách Tây Hồ chí thì mỗi một làng thuộc vùng đất Bưởi mang dáng
hình của một linh vật đặc biệt. Làng Yên Thái có hình con rùa, làng Trích Sài
có hình con ngựa cịn làng Võng Thị và Hồ Khẩu có hình con cá. Các đồi gị
cũng mang dáng hình các con vật tương tự. n Thái có gị Qui (con rùa), có
giếng Long Tỉnh (giếng rồng); Võng Thị có gị Du Ngư (cá du ngoạn), Hồ
Khẩu có gị Long Tảng (trán rồng), có dịng Long Khê (suối rồng) và gị Qui
Đơi (đơi rùa).
Địa linh sinh nhân kiệt. Chính nơi có phong cảnh hữu tình như thế đã
được các vua Lý chọn làm nơi đặt các đền, chùa, đình, miếu, cung điện trong
buổi đầu rời đô ra Thăng Long. Theo tài liệu thống kê thì xung quanh Hồ Tây
xưa có hơn 60 di tích thì riêng vùng Bưởi đã có tới 24 di tích. Chưa nơi nào
mà di tích văn hóa thờ Lý tập trung nhiều như vùng đất này.
Làng Hồ Khẩu là một vùng đất cổ nằm về phía Tây Bắc kinh thành
Thăng Long xưa. Ngược dòng thời gian trở lại xa xưa, vào thời Lý, Hồ Khẩu
thuộc phủ Ứng Thiên. Vào thế kỷ XI, khi vua Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư
ra Thăng Long năm 1010, vùng đất Bưởi chiếm lĩnh một vị trí quan trọng.
Nhìn trên bản đồ thành Thăng Long thời Lê thì vùng Hồ Khẩu có nước bao
quanh như một bán đảo lớn. Phía đơng bắc là Hồ Tây, phía Nam là dịng sơng
Tơ Lịch chảy qua, phía Tây là sơng Thiên Phù. Sơng Tơ Lịch lúc bấy giờ rất
rộng, khởi nguồn từ sông Hồng, quãng Chợ Gạo chảy qua phố Hàng Lược,
xuôi về Quán Thánh, Thụy Khuê, đến Hồ Khẩu thì nối với Hồ Tây bằng hai
cửa lớn. Đến vùng Bưởi thì nối với sơng Thiên Phù hịa dịng xuống phía
Nam... Hồ Khẩu là cửa ngõ ra vào duy nhất bằng đường thủy của Hồ Tây xưa,
15


gồm 3 cụm dân cư, nơi hội tụ của 5 tộc họ lớn là: tộc Hồ, tộc Nguyễn, tộc Lý,
tộc Đinh và tộc Bùi. Làng Hồ Khẩu cũng là nơi tập trung nhiều di tích nhất
trong vùng văn hóa Hồ Tây. Theo như thống kê, trên địa bàn phường Bưởi có

tất cả 17 di tích thì chỉ riêng Hồ Khẩu đã chiếm đến 7 di tích, gồm có: 1 đình
(đình Hồ Khẩu); 2 chùa (Tĩnh Lâu tự, Chúc Thánh tự); 3 đền (đền Dực Thánh,
đền Vệ Quốc, đền Mẫu Thăng Long) và 1 văn chỉ thờ Khổng Tử.
Làng Hồ Khẩu thuộc địa bàn vùng đất Bưởi. Dưới thời Lý, năm Quang
Thuận thứ bảy (1466) làng là một thực ấp thuộc huyện Quảng Đức phủ Trung
Đô. Năm Quang Thuận mười (1469) Hồ Khẩu thuộc huyện Vĩnh Thuận, rồi
sau này thuộc huyện Hoàn Long. Năm Vĩnh Tộ thứ sáu (1923), Hồ Khẩu lại
thuộc tổng Trung huyện Vĩnh Thuận. Năm 1946, làng thuộc quận Đại La.
Năm 1956 thuộc quận V, rồi thuộc quận Ba Đình. Sau nghị định 69/CP ngày
28 tháng 10 năm 1995 đến nay thì làng thuộc địa bàn phường Bưởi, quận Tây
Hồ, Hà Nội.
Từ bao đời nay, Hồ Khẩu là một làng nghề làm giấy đông dân và thịnh
vượng nhất phường Bưởi. Làng cịn lưu giữ được nhiều dấu tích và sinh hoạt
của một làng cổ với hệ thống cổng làng đồ sộ xây dựng từ năm Vĩnh Tộ thứ
sáu (1923). Điều quý nhất của Hồ Khẩu là làng vẫn lưu giữ được bản hương
ước khởi thảo từ thời Lê, bổ sung hồn chỉnh vào thời Gia Long. Đó là một
quy ước dân chủ đã làm cho Hồ Khẩu trở thành một làng văn hóa có kỷ
cương chặt chẽ.
Giờ đây, làng Hồ Khẩu là một làng cổ trù phú nằm ven Hồ Tây. Những
di tích lịch sử của làng được tơn tạo lại rất khang trang. Trong làng có ngơi
đình thờ nhị vị Thành hoàng Cống Lễ đại vương và Cá Lễ đại vương. Trong
đình có tấm bia đá dựng năm 1622 với lời minh như sau: “Nay nhận thấy
phường Hồ Khẩu, huyện Quảng Đức xưa vẫn có chùa nổi tiếng, có đền linh
thiêng, phía Đơng xanh biếc dịng Long Khê, phía Nam trắng ngần Tơ Lịch,
Tản Viên Sơn từ phía Tây chầu lại, núi Tam Đảo từ phương Bắc chầu về”
(Cục Đào Huyến dịch). [3, tr.128]
16


1.2 Khái quát về đời sống văn hóa - kinh tế - xã hội làng Hồ Khẩu

1.2.1 Con người làng Hồ Khẩu
Con người làng Hồ Khẩu bao giờ cũng lấy lối sống đôn hậu, thủy
chung làm nề nếp. Từ bao đời nay, người dân làng Hồ Khẩu bên nhau có
nghĩa, có tình. Làng có việc thì mọi người dân đều góp một phần sức nhỏ của
mình mà tham dự. Làng vui thì mọi nhà đều vui, ai là con của làng, từ
phương xa trở về, đều được người trong làng niềm nở thăm hỏi bất kể là ruột
thịt hay không. Làng có người qua đời, chỉ cần nghe thấy ba hồi trống báo
đưa đám là mọi người trong làng đều đại diện gia đình riêng của mình đến
tiễn đưa. Một điều đáng tự hào là cho đến tận đời nay, truyền thống này vẫn
được gìn giữ.
Cũng giống như cư dân vùng đất Bưởi nói chung, dân làng Hồ Khẩu
đặc biệt quan tâm đến các lễ hội. Theo thông lệ, cứ vào tháng Hai và tháng Tư
là các làng đều mở hội lớn, nhất là hai làng Hồ Khẩu và Đông Xã. Vào ngày
hội lớn của làng, nhà nào cũng gửi lễ thanh bơng hoa quả đến Đình, ngồi ra
cịn thắp hương ở chính bàn thờ Gia tiên; như vậy cũng đủ thấy được truyền
thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” q báu. Làng có đình Hồ Khẩu là nơi
thờ nhị vị Thành hồng Cống Lễ cơng và Cá Lễ cơng. Đình cũng là nơi diễn
ra các lễ hội, nơi hội tụ tâm linh của dân làng.
Người dân làng Hồ Khẩu rất trọng văn hóa, lễ nghĩa. Ở cổng giáp đơng
làng Hồ Khẩu có đơi câu đối ca ngợi cảnh đẹp quê hương và nhắc nhở mọi
người mỗi khi bước chân vào làng thì phải gìn giữ nề nếp:
“Mỹ tục thuần phong vĩnh chiếu Tây Hồ minh giám
Thiện ngôn hảo sự trường lưu, mạt lợi danh hưng”
Dịch nghĩa là:
“Nếp sống đẹp mãi mãi như tấm gương Hồ Tây chiếu sáng
Lời nói hay như dịng nước thơm khơng màng danh lợi”

17



Ở cổng giáp bắc cũng có đơi câu đối ca ngợi cảnh đẹp của làng:
Cổ vãng kim lai hành chính đạo
Nam du bắc ngoạn hướng danh lam
Dịch là:
Xưa nay qua lại theo đường chính
Bắc nam du ngoạn hưởng danh lam
Nhìn chung, mỗi làng trong phường Bưởi đều có cổng làng viết câu đối
chữ Hán ở hai bên mang ý nghĩa giáo dục, khuyến thiện cùng ca ngợi cảnh
đẹp quê hương. Cổng làng lại được xây dựng, trang trí theo đường nét riêng
của mỗi làng, cũng là phù hợp với cách sống của những người dân trên từng
địa bàn cụ thể của vùng đất Bưởi. Ở làng Hồ Khẩu có một hệ thống cổng cổ
xây dựng trên thế đất cao có nhiều bậc lên. Cổng giữa có hai cột đồng trụ cao
6 mét, trên có đơi nghê chầu. Cổng chính này xưa kia có cánh cửa bằng gỗ
lim bản to, chỉ mở trong những ngày làng vào hội hoặc dịp tết. Bên cạnh có
hai cổng ngách dẫn vào làng.
Vốn là những người dân lao động từ nhiều đời, bản chất là thật thà đơn
hậu như đã trình bày ở trên. Song, sự gần gũi với phố phường, cơng cuộc đơ
thị hóa đã có ít nhiều tác động đến cư dân nơi đây. Lối sống của người dân bắt
đầu thực dụng hơn, nhưng nhìn chúng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, giữ
được tình làng xóm láng giềng.
1.2.2 Đời sống kinh tế - xã hội
Với mục tiêu phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa – xã hội; từng bước
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đơ thị, bảo vệ mơi trường; nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an
toàn xã hội; phường Bưởi quận Tây Hồ đã đạt được thành quả như sau:
• Về kinh tế:
Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành kinh tế do bình quân hàng năm:
16 – 17%.

18



Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ bình quân hàng năm là:
18 – 20%.
Giá trị sản phẩm trồng trọt trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp bình
quân hàng năm đạt trên 85 triệu đồng.
Ủy ban nhân dân phường Bưởi đã xác định đường lối phát triển kinh tế
của phường là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế theo cơ cấu: dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp; nghĩa là tập trung phát triển ngành kinh tế dịch vụ, trong
đó đặt trọng tâm ngành dịch vụ du lịch, lấy khu vực Tây Hồ làm trọng điểm
cho sự phát triển, đầu tư và khai thác cảnh quan khu vực xung quanh Hồ Tây.
• Về văn hóa - xã hội:
Giải quyết và tham gia giải quyết việc làm cho lao động: trên 3800 lao
động/ năm.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm 85%.
Tỷ lệ sinh tính đến năm 2010: 15‰
Tỷ lệ phổ cập bậc trung học năm 2010: đạt chuẩn phổ cập.
Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa trên tổng số hộ: 85%.
Nhà ở của người dân trong các làng thuộc vùng Bưởi đều được xây
dựng trên các dải đất cao để tránh ẩm thấp. Đường ngõ dẫn vào làng đều được
trải xi măng, thuận tiện cho người dân đi lại. Ngày xưa, làng Hồ Khẩu có lệ
bầu chọn ra một người trông coi đường công, cầu cống. Người này sẽ chịu
trách nhiệm tu sửa đường xá, các cơng trình cơng cộng trong làng, kinh phí
lấy ở quỹ công. Ngày nay, công việc tu sửa lại những cơng trình cơng cộng do
Tổ trưởng tổ dân phố cùng Ban di tích, các cán bộ cấp Phường cùng nhau
quan tâm giải quyết.
Làng Hồ Khẩu là một làng cổ nằm ở cạnh Hồ Tây nên việc khai thác
nguồn lợi thủy sản này luôn được chú trọng phát triển. “Thuở xưa, nhân dân
ven Hồ làm ruộng chủ yếu, kết hợp với nghề nuôi cá cùng với một số nghề thủ
19



công khác như nuôi tằm, dệt vải, trồng hoa” [3, tr.7]. Trong suốt quá trình
sinh cơ lập nghiệp, dân làng Hồ Khẩu lấy nghề đánh bắt cá làm gốc. Bởi vì
vùng đất này vừa có phong cảnh đẹp, lại có hồ rộng, nhiều ao đầm, giao thông
đường thủy thuận lợi, vì vậy nên càng ngày càng có nhiều người dân đổ về
dựng trại ấp, và làng nghề bắt đầu hình thành.
Đã từ lâu, mảnh đất và con người Hồ Khẩu đã nổi tiếng khắp cả nước
bởi những bàn tay và khối óc tài hoa, đã dựng nên truyền thống của một
ngành nghề thủ cơng độc đóa là nghề làm giấy dó. Ai đặt chân đến vùng đất
Bưởi, khơng thể khơng biết đến câu ca dao rằng:
“Bóng đèn là bóng đèn hoa
Ai về vùng Bưởi với ta thì về
Vùng Bưởi có lịch có lề
Có ao tắm mát, có nghề xeo can”
Nghề “xeo can” ở đây là nghề làm giấy dó và dệt lĩnh của các làng Yên
Thái, Hồ Khẩu, Võng Thị, Trích Sài.
Làng Hồ Khẩu có nghề thủ cơng truyền thống là nghề làm giấy dó.
Nghề thủ cơng này khơng chỉ đem đến nguồn lợi kinh tế mà nó đã làm giàu
thêm giá trị văn hóa của làng, tạo nên sắc thái văn hóa riêng biệt của Hồ Khẩu
so với những làng quê khác. Nghề làm giấy dó này tồn tại đến những năm
1980 thì mai một dần và biến mất cùng với sự giải thể của hợp tác xã giấy vào
những năm 1990. Trước thời gian ấy, có thể nói là nghề nghiệp, dân cư, sinh
hoạt và các quan hệ xã hội ở vùng đất này khá ổn định. Sự ổn định đó có lẽ là
nền tảng để hình thành tính cách cư dân địa phương, hình thành nên tinh thần
lao động cần cù, nhẫn nại.
Do đặc thù là một làng cổ nằm bên cạnh Hồ Tây nên hiện nay, cư dân
làng Hồ Khẩu vẫn duy trì nghề đánh bắt cá. Làng cũng nằm kề sát ngay chợ
Bưởi - một trong những chợ cổ nhất của thủ đô Hà Nội nên một số bộ phận


20


dân cư làm ăn buôn bán ở chợ Bưởi, một số thì họp chợ ở ngay đất sân đình
làng Hồ Khẩu.
Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, việc mở rộng đất đai nội thành
đã tác động không nhỏ đến cơ cấu dân cư, nghề nghiệp và sinh hoạt văn hóa
của làng Hồ Khẩu. Q trình đơ thị hóa ở làng diễn ra sớm và sôi động. Đất
đai bị thu hẹp, ao hồ bị san lấp dần. Rất nhiều hộ gia đình bán đất đi để xây
nhà nên số người mua đất, đến nhập cư ở làng ngày một thăng thêm.
1.2.3 Truyền thống văn hóa địa phương
Đất Bưởi vốn là vùng đất giàu truyền thống văn hóa có bản sắc đậm đà
so với nhiều vùng ven hồ khác.
Làng Hồ Khẩu có một điều đáng q là làng vẫn cịn giữ được bản
Hương ước khởi thảo cuối thời Lê, bổ sung, điều chỉnh dưới thời Gia Long.
Bản hương ước cổ ấy có những điều như sau:
Điều 1: Quy định cho các chức dịch trong làng: “Luân thường, phong
hóa được vâng Thánh dụ ban hành gắng gỏi mà tu tỉnh. Các Lý dịch kế nhau
phải tùy thời mà thực thi lễ nghĩa, cùng hưởng phú q thái bình coi đó là
khn phép kỷ cương của hàng xóm”.
Từ điều 2 - điều 9: Quy định trách nhiệm của những người hành lễ;
trong đó điều 9 quy định: “Khi có việc tế lễ ở đình miếu hoặc các tiết ẩm
thực, những người có khăn, áo dài không được mặc áo ngắn. Ai vi phạm bị
đuổi ra như người khơng có áo dài. Ai nấy ngồi xếp hàng trên chiếu không
được ngồi lẫn tùy tiện. Phải nghiêm túc chấp hành quy định này”.
Điều 10: Quy định việc tang hiếu, người bản phường đến hành lễ,
người đi tống táng tuy khơng phải có áo tang nhưng tùy vận, áo quần phải
chỉnh tề không để lộ đầu ra để tỏ sự trọng hiếu.
Điều 17, 18: Quy định quan hệ hàng xóm phải hịa mục khơng được
gây hiềm khích giành giật của nhau, mượn rượu lăng mạ người khác… Trong


21


làng cần yên tĩnh, nhà nào cãi cọ, hát xướng hơ hốn to tiếng khơng kể ngày
đêm đều phải tra xét theo lệ làng mà phạt tiền hoặc phạt trầu cau.
Những điều qui định trong hương ước làng Hồ Khẩu đã góp phần tạo
nên nét đẹp văn hóa nghìn năm trong nếp sống văn hóa con người đất Bưởi,
làm nền cho đạo đức, cho kỷ cương phép nước.
Làng Hồ Khẩu là nơi hội tụ của 5 tộc họ lớn là: họ Hồ, họ Nguyễn, họ
Lý, họ Đinh và họ Bùi. Tộc Hồ xây dựng nhà thờ dòng họ vào năm 1925. Dù
tộc phả đã khơng cịn nữa, nhưng theo văn bia ghi lại thì họ Hồ vốn là người
gốc Nghệ An và chuyển ra đây sinh sống. Cụ tổ của dòng tộc là cụ Hồ Văn
Phổ (ghi trên văn bia). Trong dịng tộc này, con trai thì lấy họ Nguyễn Hồ,
con gái thì theo họ Hồ.
Tộc họ thứ hai trong làng là tộc Nguyễn, hiện có hai nhà thờ dịng họ ở
làng, xây vào năm 1927. Trong tộc họ, chỉ lấy tên đệm là Nguyễn Văn, khơng
có đệm lót khác. Theo tộc phả thì họ Nguyễn từ Phong Châu đến Hồ Khẩu
sinh cơ lập nghiệp, đến nay đã trải qua 16 đời kế tiếp nhau.
Tộc Lý đến làng Hồ Khẩu từ thế kỷ XVI, thủy tổ là Lý Khắc Đôn. Tộc
họ này có truyền thống hiếu học. Dưới thời vua Tự Đức, cả 3 anh em họ Lý là
Lý Văn Phức, Lý Văn Loát, Lý Văn Hiếu đều đỗ cử nhân, người làm quan tri
huyện, người làm quan tri phủ. Riêng Lý Văn Phức thì làm quan tới chức Hữu
tam tri bộ Lễ, Hữu tam thị bộ Lễ, sau giữ chức Chánh sứ. Nhà thờ tộc họ này
xây dựng măm 1923 và xây dựng lại vào năm 1927.
Ngoài ra làng có họ Bùi từ Hà Giang chuyển đến sinh sống. Nhà thờ họ
Bùi xây dựng năm 1927. Họ Đinh cũng có nhà thờ của tộc họ và vẫn có
truyền thống hương khói ngày rằm, mồng một và ngày kỵ.
Có lẽ quan hệ dòng tộc ở làng Hồ Khẩu khá phức tạp nên từ xưa tới
nay, người dân nơi đây rất khắt khe trong vấn đề hơn nhân cùng dịng tộc.

Phải cách nhau đến 5 đời mới được lấy nhau. Trừ những quan hệ hôn nhân tối

22


kỵ giữa người trong cùng tộc họ, còn lại hầu hết các cuộc hôn nhân thường
được diễn ra trong làng, giữa dòng họ này với dòng họ kia.
Làng Hồ Khẩu có truyền thống hiếu học và khoa bảng. Làng có người
thi đỗ, làm quan, đó khơng chỉ là niềm vinh hạnh của gia đình, dịng họ mà
cịn là của cả làng. Về truyền thống học hành khoa bảng, Hồ Khẩu có danh
nhân Lý Văn Phức (1785-1849) và danh sĩ Nguyễn Văn Giai (không rõ năm
sinh năm mất, sống ở thế kỷ XIX).
Lý Văn Phức tên chữ là Lân Chi, hiệu Khắc Trai. Ông đỗ cử nhân năm
1819, giữ chức Hàn Lâm biên tu trong Quốc Sử quán. Thơ văn chữ Hán của
ơng có nhiều nét mới mẻ và độc đáo. Ông đã để lại cho đời sau nhiều tác
phẩm văn học quốc âm và văn học chữ Hán có giá trị. Đơn cử bài Tây Hồ
hoài cổ của Lý Văn Phức, trong đó có bốn câu thơ rất đắt, nhắc lại những sự
tích gắn liền với danh thắng Hồ Tây:
Trất võng phao tàn chiêu cổ miếu
Lâu thuyền ca bãi thính thôn kê
Úy diên nhân dĩ thiên thu lão
Phục tượng phong hoành nhất thủy tê
Dịch nghĩa là:
Lưới ném từ xa, vẫn sáng ngời miếu cũ
Thuyền hoa ngừng hát, chỉ nghe tiếng gà trong thôn
Kẻ sợ diều hâu rơi, đã thành thiên cổ
Núi Voi cịn đó, bên dịng nước chảy về tây.
Bốn câu thơ trên đã nhắc về bốn cảnh tích xưa: Mục Thận quăng lưới
cứu vua, lưới đã mục nhưng miếu thờ vẫn sáng ngời gương trung dũng.
Thuyền của vua rong chơi trên Hồ Tây đã khơng cịn nữa, tiếng ca hát im bặt,

chỉ cịn nghe thấy tiếng gà trong thơn. Mã Viện - kẻ sợ chướng khí Lãng Bạc,
diều hâu bay qua cũng phải rớt xuống nay đã hóa thành thiên cổ, chỉ còn lại
23


núi Voi nằm ngang sông Tô Lịch chảy từ đông sang tây. Núi này nhắc thần
Linh Lang từng dạy voi theo ý mình và cưỡi voi phất cờ hồng dẹp giặc ngoại
xâm dưới triều Lý.
Ngồi ra Lý Văn Phức cịn có các tác phẩm thơ văn chữ Hán khác
như Chu nguyên tạp vịnh, Sứ trình tiện lãm khúc, Tây Thành kiền văn ký
lược, Mãn hành tạp vịnh và truyện nôm Nhị thập tứ hiếu, Bất phong lưu
truyện... Thành phố Hà Nội ngày nay có một con phố “Lý Văn Phức” là đặt
theo tên của ơng.
Làng Hồ Khẩu cịn có Nguyễn Văn Giai, thường gọi là Ba Giai - một
danh sĩ nổi tiếng cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam. Không rõ ông sinh và mất năm
nào, tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu văn học, thì rất có thể ơng sống vào
khoảng thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883).
Ông được biết đến bởi những bài thơ châm biếm đả kích bộ phận quan lại
tham nhũng, những kẻ cường quyền. Ông là tác giả của thi phẩm Hà thành
chính khí ca, gồm 140 câu thơ lục bát, sáng tác sau khi Hà Nội bị quân Pháp
xâm chiếm ngày 25 tháng 4 năm 1882.
Làng Hồ Khẩu cũng là địa phương được biến đến với nhiều quần thể di
tích nổi tiếng. Theo thống kê khu vực Hồ Tây có 17 di tích thì riêng Hồ Khẩu
đã chiếm đến 7. Hiện nay, làng cịn hai ngơi chùa từ có lịch sử từ bốn, năm
trăm năm trước là chùa Tĩnh Lâu (tên gọi nôm là chùa Sải) và chùa Chúc
Thánh. Hai chùa còn lưu giữ được 14 văn bia, 2 chng đồng lớn có niên hiệu
Cảnh Thịnh I và Cảnh Thịnh VII cùng với 78 pho tượng phật. Đình làng Hồ
Khẩu thờ hai vị Thành hồng là Cống Lễ đại vương và Cá Lễ đại vương.
Làng có ba đền là đền Dực Thánh thờ Cống Lễ công, đền Vệ Quốc thờ Cá Lễ
công và đền Mẫu Thăng Long thờ Thủy công chúa và Mẫu tứ phủ.

Nhân dân làng Hồ Khẩu có truyền thống yêu nước, vào thời chiến thì
tham gia vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của nước nhà, vào thời bình

24


thì ln góp phần bảo vệ nền độc lập tự chủ ấy, hịa mình vào cơng cuộc xây
dựng đất nước ngày một khang trang hơn, lớn mạnh hơn.
1.3 Cụm di tích tiêu biểu trên địa bàn làng Hồ Khẩu
Như đã trình bày ở trên, làng Hồ Khẩu là một làng cổ tập trung mật độ
di tích vào loại đơng nhất ở phường Bưởi. Hiện trong làng vẫn còn giữ được 2
chùa, 3 đền, 1 đình và 1 văn chỉ, ngồi ra cịn có 5 nhà thờ của năm tộc họ lớn
trong làng. Có ba di tích đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia là chùa Tĩnh
Lâu, đền Dực Thánh và đền Vệ Quốc.
1.3.1 Chùa Tĩnh Lâu
Chùa Tĩnh Lâu, xưa là Thanh Lâu Tự, tên gọi dân gian là chùa Sải nằm
bên bờ Hồ Tây trên địa phận làng Hồ Khẩu. Xưa, chùa thuộc tổng Trung,
huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành
phố Hà Nội. Chùa có mặt tiền hướng ra Hồ Tây, đối diện với các di tích nổi
tiếng bên kia hồ như chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ...
Trong chùa Tĩnh Lâu cịn lưu giữ được nhiều di vật q hiếm từ thế kỷ
XVII, đáng chú ý nhất là tòa Cửu Long rất đặc biệt mang dáng dấp của một
chiếc lọng che. Ba pho tượng Tam thế trong chùa được tạo tác gần với kích cỡ
của người thật, trong tư thế ngồi kiết già trên đài sen, miệng hơi mỉm cười và
đôi mắt khép hờ như đang nhìn xuống. Chùa vẫn cịn lưu giữ được chng
đồng có niên đại Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), trên chng khắc dịng chữ
“Thanh Lâu thiền tự”, nghĩa là chuông của chùa Thanh Lâu.
Cùng với chùa Chúc Thánh, chùa Tĩnh Lâu là một trong hai ngôi chùa
cổ xưa của làng Hồ Khẩu. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa vào
năm 1996.

1.3.2 Chùa Chúc Thánh
Chùa Chúc Thánh nằm trong địa bàn làng Hồ Khẩu. Chùa có mặt tiền
hướng về thành Thăng Long, giáp sơng Tơ Lịch; hai bên tả hữu của chùa, bên

25


×