Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tìm hiểu sưu tập tem bưu chính cách mạng việt nam giai đoạn 1945 – 1954 tại bảo tàng cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 109 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
**********

DƯƠNG VĂN LỢI

TÌM HIỂU SƯU TẬP TEM BƯU CHÍNH
CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
TẠI BẢO TÀNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:

HÀ NỘI - 2012


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 5
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận ................................. 7
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 7
5. Bố cục khóa luận ...................................................................................... 7
Chương 1 - KHÁI QUÁT VỀ BẢO TÀNG BƯU ĐIỆN VÀ PHẦN
TRƯNG BÀY TEM BƯU CHÍNH VIỆT NAM ........................................... 9
1.1. Khái quát về Bảo tàng Bưu điện ................................................................ 9


1.1.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo tàng Bưu điện......................... 9
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Bảo tàng Bưu điện ............................ 12
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng Bưu điện .......................... 14
1.1.3.1. Hoạt động nghiên cứu .............................................................. 14
1.1.3.2. Hoạt động sưu tầm hiện vật ..................................................... 15
1.1.3.3. Hoạt động kiểm kê, bảo quản .................................................. 16
1.1.3.4. Hoạt động trưng bày, tuyên truyền giáo dục ........................... 17
1.2. Nội dung trưng bày của Bảo tàng Bưu điện ......................................... 18
1.3. Nội dung trưng bày tem Bưu chính Việt Nam và tem Liên minh Bưu
chính thế giới (UPU) tại Bảo tàng Bưu điện ............................................... 21
1.4. Vài nét về sự ra đời của tem Bưu chính và lịch sử tem Bưu chính Việt
Nam .............................................................................................................. 22
1.4.1. Vài nét về sự ra đời của tem Bưu chính ......................................... 22
1.4.2. Vài nét về lịch sử tem Bưu chính Việt Nam .................................. 25
1.4.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ....................... 25
1.4.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến 1954 ............ 26
1.4.2.3. Giai đoạn từ 1955 đến 1976..................................................... 28
1.4.2.4. Giai đoạn 1976 đến nay ........................................................... 30


3

Chương 2 - SƯU TẬP TEM BƯU CHÍNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954 TẠI BẢO TÀNG BƯU ĐIỆN .......................... 32
2.1. Khái quát về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 ........................ 32
2.2. Tổng quan về sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai đoạn
1945 – 1954 tại Bảo tàng Bưu điện ............................................................. 36
2.2.1. Một số khái niệm liên quan ............................................................ 36
2.2.2. Tổng quan về sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1954 ...................................................................................... 40

2.2.3. Đặc điểm cơ bản của sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1954 .............................................................................. 43
2.2.4. Chủ đề trên tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 52
2.2.4.1. Chủ đề trên tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam 1945 – 1946
............................................................................................................... 52
2.2.4.2. Chủ đề trên tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam từ ngày
2/9/1946 đến năm 1954........................................................................ 57
2.3. Giá trị của sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai đoạn từ
năm 1945 đến năm 1954 .............................................................................. 68
2.3.1. Giá trị lịch sử .................................................................................. 68
2.3.2. Giá trị văn hoá ................................................................................ 73
Chương 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ CỦA SƯU TẬP BƯU CHÍNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954 TẠI BẢO TÀNG BƯU ĐIỆN .......................... 78
3.1. Thực trạng nghiên cứu, quản lý, bảo quản sưu tập tem Bưu chính Cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1945 -1954 tại Bảo tàng Bưu điện .................... 78
3.1.1. Thực trạng về nghiên cứu sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1945 -1954 ....................................................................... 78
3.1.2. Thực trạng quản lý, bảo quản sưu tập tem Bưu chính Cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1945 -1954 ............................................................... 79


4

3.1.2.1. Thực trạng quản lý sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1945 -1954.................................................................... 79
3.1.2.2. Thực trạng bảo quản sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1945 -1954.................................................................... 80
3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị sưu tập tem Bưu chính Cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 ....................................................... 83

3.2.1. Hoàn thiện nội dung hồ sơ hiện vật và tiếp tục sưu tầm bổ sung cho
sưu tập ...................................................................................................... 83
3.2.2. Đa dạng các hình thức trưng bày ................................................... 86
3.2.3. In ấn giới thiệu, quảng bá về sưu tập ............................................. 88
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 93

PHỤ LỤC……………………………………………………………………91


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Toàn Đảng, toàn dân ta ra sức củng cố và xây dựng cơ sở
Cách mạng trong tình hình mới, bên cạnh đó vẫn hết sức đề cao cơng tác
chuẩn bị cho những cuộc chiến mới, bởi vì ngay trong thời điểm đã giành
được chính quyền thì tình hình trong nước lẫn quốc tế vẫn rất phức tạp, nhiều
thế lực phản động và thù địch tiếp tục hoạt động và đe dọa chính quyền non
nớt mới thành lập. Ta vừa phải lo đánh giặc Pháp quay lại xâm lược vừa phải
lo diệt giặc đói, giặc dốt. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã vượt qua hết những khó khăn, vất vả và
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu
năm 1954. Giai đoạn lịch sử 1945 – 1954 là một giai đoạn lịch sử vinh quang,
hào hùng của dân tộc Việt Nam, có tầm ảnh hưởng quốc tế rộng rãi, đây là
giai đoạn có vai trị to lớn trong lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc ta, thể
hiện sự trưởng thành của chính quyền Cách mạng, tạo nền tảng cho những
quyết định khó khăn sau này trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và đi
đến ngày giải phóng hồn tồn đất nước.

Góp phần vào những thắng lợi vang dội này có sự đóng góp của nhiều
ngành, trong đó có ngành Bưu chính. Ngành Bưu chính có chức năng truyền
thơng tin liên lạc trong và ngoài nước. Thời kỳ mới thành lập, ngành Bưu
chính Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn cả về cơ sở sản xuất lẫn trình độ kỹ
thuật. Nhưng với sự sáng tạo, linh hoạt tài tình và ý trí quật cường, các cán bộ
chiến sĩ ngành Bưu chính đã khơng ngại hy sinh, vất vả để hồn thành tốt
nhiệm vụ thơng tin liên lạc, góp phần quan trọng trong các chiến thắng của
dân tộc ta. Những thành tích và những khó khăn, thiếu thốn của ngành, cũng
như lịch sử ngành Bưu chính Việt Nam khơng chỉ được biết qua các tài liệu
sách, báo lịch sử mà còn được phản ánh hết sức phong phú, sinh động qua


6

những vật chứng lịch sử là các tài liệu, hiện vật liên quan đến ngành Bưu
chính Việt Nam hiện nay được bảo quản và trưng bày tại bảo tàng Bưu điện
Việt Nam. Đây là những vật chứng có ý nghĩa hết sức quan trọng với lịch sử
ngành Bưu chính nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Đáng chú ý hơn cả
trong những vật chứng lịch sử này là sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1945 – 1954.
Sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954
chứa đựng rất nhiều giá trị như giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, giá trị mỹ
thuật... Sưu tập tem này có những con tem sơ khai nhất của Bưu chính Việt
Nam, từ những con tem Đông Dương in đè, đến những con tem đầu tiên của
nền Bưu chính nước ta, do chúng ta tự thiết kế và in. Đây là một sưu tập tem
rất q, nó phản ánh lịch sử ngành Bưu chính Việt Nam giai đoạn 1945 –
1954 hết sức xác thực và sinh động. Qua bộ sưu tập, chúng ta có thể thấy
được một giai đoạn lịch sử cực kỳ thiếu thốn, lạc hậu của ngành Bưu chính
Việt Nam, nó cũng thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta trước hồn cảnh khó khăn của đất nước trong thời kỳ kháng

chiến chống Pháp (1945 – 1954).
Là một sinh viên học chuyên ngành Bảo tàng, em có cơ hội nhiều lần
đến Bảo tàng Bưu điện thăm quan và tiếp xúc với sưu tập tem Bưu chính
Cách mạng Việt Nam này. Em nhận thấy đây là một bộ sưu tập có giá trị về
nguồn sử liệu, giá trị bảo tàng rất sâu sắc. Qua việc tìm hiểu bộ sưu tập này,
em sẽ hiểu hơn về lịch sử tem Bưu chính Việt Nam, cũng như lịch sử Việt
Nam. Với những lý đó em đã chọn vấn đề “Tìm hiểu sưu tập tem Bưu chính
Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 tại Bảo tàng Bưu điện Việt
Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về q trình hình thành, nội dung trưng bày hiện nay của
Bảo tàng Bưu điện.


7

- Tổng quan về sưu tập tem Bưu chính Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954
tại Bảo tàng Bưu điện Việt Nam.
- Nghiên cứu giá trị của sưu tập.
- Từ nghiên cứu về sưu tập đưa ra một số nhận xét và giải pháp nhằm
bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
- Đối tượng nghiên cứu: sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1954.
- Phạm vi nghiên cứu: sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1954 hiện đang lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng Bưu điện
Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác – Lênin.

- Sử dụng phương pháp Bảo tàng học, sử học, mỹ thuật học.
- Sử dụng phương pháp thống kê, miêu tả so sánh, phân tích, tổng hợp,
nghiên cứu tư liệu.
- Bên cạnh đó cịn sưu tập sách báo, tạp chí, bài viết, kế thừa những kết
quả nghiên cứu có liên quan đến tem Bưu chính Việt Nam.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, nội dung chính của khóa luận
được chia thành 3 chương chính:
Chương 1: Khái quát về Bảo tàng Bưu điện và phần trưng bày tem
Bưu chính Việt Nam.
Đây là phần giới thiệu về Bảo tàng Bưu điện Việt Nam, cùng những nét
khái quát về sự ra đời của tem bưu chính và lịch sử tem bưu chính Việt Nam.
Chương 2: Sưu tập tem Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm
1954 tại Bảo tàng Bưu điện Việt Nam


8

Đây là phần chính của bài khóa luận, nội dung cơ bản của chương này
là khái quát về lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954; tổng
quan và những giá trị của sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1945 -1954.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo quản và phát huy giá trị
sưu tập tem Bưu chính Cách mạng Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến
năm 1954 tại Bảo tàng Bưu điện Việt Nam.
Chương cuối cùng của khóa luận nêu lên thực trạng công tác bảo quản
tem và một số giải pháp nhằm phát huy giá trị sưu tập tem Bưu chính Cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 tại Bảo tàng Bưu điện.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này em luôn nhận được sự quan tâm,
hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn Th.s Trần Đức Nguyên, Thầy đã động

viên và tận tình chỉ bảo em từ lúc chọn đề tài đến những lúc em gặp khó khăn
nhất. Đồng thời, em cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các cô chú
trong Bảo tàng Bưu điện, đã tạo những điều kiện tốt nhất trong quá trình khảo
sát tại Bảo tàng giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Em xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến thầy và các cô chú.
Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu chưa nhiều, đề tài tương đối mới
mẻ nên khóa luận của em khơng tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận
được sự góp ý của thầy cơ và độc giả để khóa luận được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn và mong nhận sự góp ý!


9

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO TÀNG BƯU ĐIỆN VÀ PHẦN TRƯNG BÀY
TEM BƯU CHÍNH VIỆT NAM
1.1. Khái quát về Bảo tàng Bưu điện
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo tàng Bưu điện
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn luôn phải đấu
tranh với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm để duy trì sự sống. Chính nhu cầu
tồn tại, con người phải liên kết với nhau để chống giặc ngoại xâm và xây
dựng đất nước địi hỏi sự ra đời của thơng tin liên lạc. Trước đây, phương tiện
liên lạc chủ yếu là tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng tù và, tiếng mõ, tiếng hú,
tiếng kèn, tiếng trống, ám hiệu khói lửa, hoặc sử dụng sức người chạy bộ,
ngựa, thuyền, chim bồ câu để truyền đưa tin tức. Sau này với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật nhiều phương tiện truyền thông đã được ra đời như điện
thoại, điện báo, telex, fax, internet, các phương tiện thông tin đại chúng – đài
phát thanh (rađio), vô tuyến truyền hình…
Ở Việt Nam, sau khi xâm lược được nước ta, thực dân Pháp đã xây dựng
ở một số thành phố lớn hệ thống thông tin Bưu điện như: điện thoại, điện báo,

đường thư... phục vụ cho kế hoạch xâm lược, khai thác thuộc địa, bảo vệ chính
quyền thực dân và đàn áp phong trào Cách mạng của nhân dân ta.
Từ năm 1930, thông tin Bưu điện Cách mạng được hình thành, đó là
những đường dây liên lạc từ nước ngồi về bằng đường bộ, đường sắt đường
biển, đó là hệ thống thông tin được tổ chức chặt chẽ được hình thành từ nhiều
tuyến từ Trung ương đến các Xứ ủy và các cơ sở bằng hình thức liên lạc cơng
khai, bí mật và bán cơng khai với những phương tiện truyền thông tin hết sức
thô sơ. Bằng sự quả cảm và trí thơng minh, những người giao bưu thơng tin
Cách mạng vẫn duy trì được thơng tin liên lạc thông suốt, phục vụ Đảng, Bác
Hồ lãnh đạo cuộc Cách mạng Việt Nam đến thắng lợi của Cách mạng tháng 8
năm 1945.


10

Thời kỳ 1945 – 1954, Bưu chính Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, cơ
sở vật chất thơng tin và phương tiện vận chuyển Bưu chính thơ sơ, lạc hậu.
Trong 9 năm kháng chiến kiến quốc chống thực dân Pháp, đội ngũ thông tin
Bưu điện (với nhiều tên gọi khác nhau như Zét tê (ZT), giao thông, giao bưu,
giao liên, thông tin, Bưu điện...) đã thầm lặng xông pha trên mọi chiến
trường, phơi mình dưới làn đạn pháo, xuyên qua rừng sâu núi cao, đầm lầy,
vượt mọi gian nan, thử thách để thiết lập mạng lưới thông tin liên lạc từ vùng
căn cứ Việt Bắc đến các liên khu, các tỉnh miền Bắc, miền Trung, Khu 5,
Nam Bộ và đến tận các thôn xã kể cả vùng tạm chiếm, vùng địch hậu. Trong
suốt quá trình Cách mạng và kháng chiến, thông tin Bưu điện là một lực
lượng mũi nhọn phục vụ sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh chính trị, quân
sự, ngoại giao, trong xây dựng và phát triển kinh kế và nhu cầu giao lưu tình
cảm của nhân dân, góp phần cùng quân và dân ta làm lên chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ.
Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975, ngành Bưu điện đã tập chung

kiện toàn, mở rộng hệ thống Bưu chính và xây dựng lại tồn bộ hệ thống
thơng tin kỹ thuật điện bằng hai phương thức hữu tuyến và vô tuyến. Trong
thời kỳ chiến tranh ác liệt từ 1964 – 1972, thực hiện chủ chương “ Địch đánh
tuyến ta dịch, địch đánh điểm ta vòng, để làm cho hệ thống Bưu điện trở nên
an tồn, cơ động và vững chắc hơn’’. Bằng đơi chân vạn dặm và khẩu hiệu
“Đứt dây như đứt ruột, gãy cột như gãy xương”, cán bộ công nhân viên ngành
Bưu điện đã không quản gian khổ, hy sinh, dũng cảm, kiên cường, băng mình
qua lửa đạn quyết tâm “Sống bám máy bám đường, chết kiên cường bất
khuất” để đảm bảo thơng tin thơng suốt trong mọi tình huống. Trong khi đó, ở
miền Nam ngành thơng tin vơ tuyến điện và giao bưu cũng phải vượt qua
mn vàn khó khăn, vất vả, thiếu thốn, lội suối băng rừng, có khi chỉ ăn rau
rừng để “Nằm trong lòng địch mà đánh địch”, lợi dụng những phương tiện
của địch để đánh địch và để mở “4 đường xương sống”, “3 mũi soi đường”


11

làm cho mạch máu giao thông liên lạc không bao giờ tắt từ Trung ương đến
Trung ương cục miền Nam, các cơ sở Đảng, các mặt trận, các thôn ấp, và để
đưa đón cán bộ, vận chuyển thuốc men, vũ khí đạn dược đến nơi tập kết an
tồn. Với những phương thức thơng tin bí mật, những hịm thư chết, những
con đường giao liên công khai, hợp pháp, bán hợp pháp, các điểm liên lạc
trong nhà dân...sau đó là các trung tâm Bưu điện được thiết lập với trang thiết
bị thu tin, phát tin vô tuyến, hữu tuyến được sử dụng, thơng tin liên lạc hai
miền Nam Bắc đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, giải phóng hồn tồn đất nước năm 1975.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, nước ta đi vào công cuộc xây dựng
đất nước, chúng ta gặp phải mn vàn khó khăn do hậu quả của chiến tranh, do cơ
chế bao cấp, khủng hoảng kinh tế và xã hội. Nhiệm vụ chính của ngành Bưu điện
lúc này là khẩn chương xây dựng, củng cố cải tạo và phát triển cơ sở hạ tầng thông

tin trong nước, quốc tế và nâng cao năng lực mạng lưới, mở rộng loại hình dịch vụ,
đáp ứng nhu cầu thơng tin tồn xã hội. Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI
của Đảng năm 1986 về: “Phát triển nhanh Bưu điện, đáp ứng nhu cầu thông tin và
cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có, đồng thời ra sức xây dựng cơng nghiệp sản xuất thiết
bị thơng tin hiện đại hóa từng bước có trọng điểm mạng lưới thơng tin Bưu điện,
làm cho cơng tác Bưu điện được nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi”. Ngành
Bưu điện đã vượt qua mọi khó khăn, khắc phục nghèo nàn, tiết kiệm tích lũy, năng
động, sáng tạo, tự lực tự cường đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có
hệ thống Bưu điện viễn thông hiện đại so với các nước trong khu vực.
Trải qua các giai đoạn lịch sử hết sức khó khăn, gian khổ, từ thời chiến
tranh ác liệt đến thời bình đi vào xây dựng đất nước, ngành Bưu điện đã khẳng
định được vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Với yêu cầu nghiên cứu, sưu
tầm, bảo quản, giới thiệu các tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử, văn hố, khoa
học, phản ánh q trình hình thành, xây dựng và phát triển của Bưu điện Việt
Nam từ thời tiền sử đến nay, Bảo tàng Bưu điện Việt Nam được ra đời.


12

Bảo tàng Bưu điện là Bảo tàng chuyên ngành về Bưu chính, Viễn thơng
và Cơng nghệ thơng tin, được thành lập ngày 10/12/1994, nhân ngày quốc tế
Bảo tàng 18/5 và kỷ niệm 121 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bảo
tàng ra đời trên cơ sở sáp nhập giữa phòng Truyền thống của ngành Bưu điện
và Bảo tàng Tem thuộc công ty Tem Việt Nam theo quyết định số 1010/QĐTCCBLĐ ngày 16 tháng 12 năm 1991 của Tổng cục Bưu điện.
Theo quyết định trên: “Thành lập Bảo tàng Bưu điện trực thuộc Văn
phòng tổng cục, trên cơ sở tổ chức lại bộ phận bảo tàng lịch sử thuộc Trung
tâm Thông tin Xuất bản và bảo tàng tem Bưu chính thuộc Cơng ty Tem”
(Điều 1, quyết định).
Thời gian đầu, Bảo tàng được đặt tại trụ sở 18 Nguyễn Du - Hà Nội.
Tháng 5 năm 2007, Bảo tàng chuyển về số 10 Hạ Hồi. Và nay, để Bảo tàng

phát triển ngang tầm với lịch sử vẻ vang của ngành, đồng thời gìn giữ giá trị
văn hố cho thế hệ sau, Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam VNPT đã
quyết định đưa Bảo tàng Bưu điện Việt Nam về trưng bày tại tầng 3 Toà nhà
VNPT - 57 Huỳnh Thúc Kháng - Hà Nội vào ngày 18 tháng 5 năm 2011.
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Bảo tàng Bưu điện
Theo ICOM: “Bảo tàng là một thiết chế phi lợi nhuận, hoạt động
thường xun, mở cửa đón cơng chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự
phát triển của xã hội. Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, thông tin và
trưng bày các bằng chứng vật thể và phi vật thể về con người và môi trường
của con người vì mục đích nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức”1.
Hiệp hội các Bảo tàng Mỹ thì đưa ra định nghĩa về Bảo tàng như sau:
“Bảo tàng là một thiết chế (cơ quan) được thành lập hoạt động lâu dài và
khơng có lợi nhuận, khơng chỉ nhằm mục đích thực hiện các trưng bày đương
đại, được miễn thuế thu nhập quốc gia và liên bang, mở cửa đón cơng chúng
và hoạt động theo hướng quan tâm của cơng chúng. Có mục đích bảo quản và
1

Hội đồng quốc tế các bảo tàng – lịch sử và quy tắc đạo đức bảo tàng, Cục Di sản văn hóa dịch và xuất bản
(2005), tr.113.


13

bảo tồn nghiên cứu, giới thiệu, tập hợp và trưng bày có hướng dẫn phục vụ
cho nhu cầu thưởng thức của người xem. Những hiện vật trưng bày phải có
giá trị văn hóa giáo dục, bao gồm những tác phẩm nghệ thuật, những cơng
trình khoa học (cả những hiện vật sống và những vật vô tri, vô giác), những
hiện vật lịch sử, và hiện vật khoa học ứng dụng (tư liệu lịch sử và kỹ thuật).
Do vậy các Bảo tàng còn bao gồm cả các vườn thực vật, các vườn thú, những
khu thuỷ sinh, các đài thiên văn, cung điện, di tích lịch sử và di chỉ đáp ứng

được những yêu cầu nêu ra ở trên”1.
Theo Luật di sản văn hố nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2009): “Bảo tàng là thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản,
nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên
nhiên, con người và môi trường sống của con người, nhằm phục vụ nhu cầu
nghiên cứu học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của cơng chúng”2.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng nhưng nhìn chung
các định nghĩa đều nhấn mạnh vào những mặt cơ bản sau:
- Nhiệm vụ cốt lõi cơ bản nhất của bảo tàng là 6 khâu công tác nhiệm
vụ: nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, giáo dục.
- Mục đích hoạt động của bảo tàng là nhằm để đáp ứng nhu cầu nghiên
cứu, tìm hiểu, thưởng thức văn hố quần chúng.
- Khách tham quan chính là đối tượng mà bảo tàng hướng tới.
Bảo tàng Bưu điện Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, bảo
quản, trưng bày, tuyên truyền giới thiệu các tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử,
văn hố, khoa học, phản ánh q trình hình thành, xây dựng và phát triển của
Bưu điện Việt Nam từ thời tiền sử đến nay, qua đó giới thiệu thành quả ngành
Bưu điện đã đạt được và những đóng góp của ngành vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
1

Timothuy An Brose và Crispin Paine, Cơ sowrbaor tàng – Tài liệu dich và xuất bản của Bảo tàng Cách
mạng Việt Nam (2000), tr.32.
2
Luật Di sản văn hóa ban hành năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị Quốc gia, mục 16,
điều 4, tr.35.


14


Điều 2, quyết định 1010/QĐ-TCCBLĐ, ngày 16 tháng 12 năm 1991của
Tổng cục Bưu điện, quy định rõ chức năng của bảo tàng Bưu điện như sau:
- Sưu tầm, tàng trữ, bảo quản, trưng bày và giới thiệu các hiện vật lịch
sử và sự hình thành, phát triển và truyền thống của ngành Bưu điện.
- Sưu tầm, tàng trữ, bảo quản, trưng bày và giới thiệu các mẫu tem Bưu
chính của Việt Nam và các nước.
- Tham gia nghiên cứu lịch sử của ngành và khoa học về tem Bưu chính.
- Lưu giữ bản gốc mẫu tem đã được duyệt để in và phát hành.
- Tư vấn nghiệp vụ bảo tàng đối với các đơn vị trong ngành.
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng Bưu điện
1.1.3.1. Hoạt động nghiên cứu
Trong các Bảo tàng, công tác nghiên cứu khoa học là hoạt động nghiệp
vụ quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ, có tính chất xun suốt tồn bộ hoạt
động của Bảo tàng như sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, giáo dục tuyên
truyền. Mọi hoạt động này đều dựa trên cơ sở hiện vật gốc, hiện vật bảo tàng.
Công tác nghiên cứu khoa học của bảo tàng thực chất là nghiên cứu sưu
tập hiện vật bảo tàng và các di sản văn hóa (bao gồm di sản bất động sản, môi
trường, đối tượng di sản phi vật thể). Trong quá trình hoạt động nghiên cứu,
bảo tàng khám phá ra những thông tin, tư liệu mới, xác định các phương pháp
sử dụng chúng để phục vụ cho chức năng xã hội của Bảo tàng.
Công tác nghiên cứu của bảo tàng còn hướng tới nghiên cứu bảo tàng
học – với từ cách là bộ mơn khoa học xã hội để đóng góp những vấn đề lý
luận cho bảo tàng học như những khái niệm về bảo tàng, đặc trưng, chức năng
của Bảo tàng, các dự án khoa học triển lãm, sưu tầm…
Bảo tàng Bưu điện Việt Nam là một bảo tàng chun ngành về Bưu
chính – Viễn thơng và Cơng nghệ Thông tin, để thực hiện tốt những chức
năng, nhiệm vụ của bảo tàng mình, lãnh đạo bảo tàng đã rất quan tâm đến
công tác nghiên cứu khoa học. Bảo tàng thường xuyên tổ chức những buổi hội



15

thảo khoa học trong bảo tàng và theo định kỳ mỗi năm bảo tàng tổ chức 2 buổi
gặp gỡ nhân chứng lịch sử, lần thứ nhất sẽ tổ chức từ khu vực Huế trở ra ngoài,
lần 2 tổ chức từ Huế vào trong. Qua các buổi hội thảo và gặp gỡ nhân chứng lịch
sử như vậy nguồn thông tin thu được từ các nhân chứng lịch sử và các nhà sử học
góp phần làm bổ sung và chỉnh lý những thông tin cho các hiện vật trong bảo tàng
và cung cấp nguồn thơng tin phong phú, chính xác để xuất bản nhiều tác phẩm
sách, báo, tạp chí có giá trị. Ngoài ra, lãnh đạo bảo tàng cũng thường tổ chức thi
đua nghiên cứu khoa học cho cán bộ trong bảo tàng, qua các cuộc thi đua nhiều đề
tại nghiên cứu khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn đã được ra đời.
1.1.3.2. Hoạt động sưu tầm hiện vật
Công tác sưu tầm là khâu công tác mở đầu quan trọng tạo tiền đề vật
chất cho toàn bộ hoạt động của bảo tàng. Trong bảo tàng nếu khơng có hiện
vật gốc, sưu tập hiện vật gốc mang giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học thì khơng
có hoạt động bảo tàng. Những hiện vật gốc mang giá trị bảo tàng được bảo
tàng tổ chức thu thập, sưu tầm về bảo tàng theo các nguyên tắc và phương
pháp của bảo tàng học.
Trong suốt 18 năm qua, Bảo tàng Bưu điện đã thực hiện tốt công tác sưu
tầm hiện vật, làm phong phú thêm kho cơ sở và hệ thống trưng bày của bảo
tàng. Các cán bộ công nhân viên bảo tàng đã cần mẫn lựa chọn hàng nghìn hiện
vật, hình ảnh có giá trị bảo tàng và phù hợp với nội dung của Bảo tàng Bưu
điện để tổng hợp, phân loại phục vụ cho công tác trưng bày. Với những hiện
vật chưa có nguồn gốc, cán bộ cơng nhân viên Bảo tàng đã nghiên cứu tài liệu,
gặp gỡ nhân chứng lịch sử, tổng hợp và xác minh, cập nhật thông tin vào các
loại biểu mẫu.
Trong hoạt động sưu tầm, kế hoạch sưu tầm được bảo tàng thực hiện
rất khoa học, đúng theo các quy trình. Theo quy định của bảo tàng Bưu điện,
cán bộ phòng sưu tầm để thực hiện một chương trình sưu tầm vào năm sau thì
phải lập kế hoạch sưu tầm cho lãnh đạo bảo tàng duyệt từ tháng 11 năm trước,



16

nếu được thơng qua thì mới được thực hiện chương trình sưu tầm đó vào năm
sau.
Hoạt động sưu tầm của Bảo tàng Bưu điện ngoài những điểm tương đồng
với những bảo tàng khác thì sưu tầm ở Bảo tàng Bưu điện có một số đặc trưng
khác biệt. Trong giai đoạn sưu tầm hiện nay, các hiện vật được sưu tầm về bảo
tàng chủ yếu là các hiện vật là sở hữu của ngành Bưu chính Viễn thơng, các cán
bộ kho và cán bộ sưu tầm nghiên cứu trong kho cơ sở của Bảo tàng nếu thấy cần
thiết bổ sung thì họ sẽ làm đơn đề nghị lên lãnh đạo phòng, lãnh đạo phòng xét
duyệt nếu thấy hợp lý đề nghị lên Tập đoàn được nhập hiện vật về kho Bảo tàng.
Vì vậy, trong hoạt động sưu tầm của Bảo tàng hiện nay, các hiện vật được
chuyển tới Bảo tàng chủ yếu là các máy móc khơng cịn sử dụng của ngành Bưu
chính nhưng có giá trị Bảo tàng, ít có khi phải mua bán, trao đổi từ bên ngoài.
1.1.3.3. Hoạt động kiểm kê, bảo quản
Trong các Bảo tàng, công tác kiểm kê hiện vật Bảo tàng là việc nghiên
cứu xác định, ghi chép, mô tả các hiện vật, sưu tập hiện vật Bảo tàng nhằm xác
định giá trị, nội dung khoa học, lập các thủ tục pháp lý cho hiện vật Bảo tàng
phục vụ cho công tác nghiên cứu, công tác trưng bày – giáo dục của Bảo tàng.
Công tác kiểm kê hiện vật là một trong sáu khâu công tác của bảo tàng,
sau công tác sưu tầm hiện vật, đây là khâu cơng tác giữ vao trị rất quan trọng,
có liên hệ chặt chẽ với các khâu khác, thực hiện tốt hoạt động kiểm kê thì các
hoạt động khác của bảo tàng sẽ được tiến hành dễ dàng, thuận tiện hơn.
Hoạt động Kiểm kê, Bảo quản của Bảo tàng Bưu điện được thực hiện
rất bài bản và khoa học. Hiện vật sau khi sưu tầm về bảo tàng được qua hội
đồng xét duyệt hiện vật của bảo tàng. Nếu được công nhận là hiện vật Bảo
tàng sẽ được qua cơng tác kiểm kê, bảo quản để hồn thiện hồ sơ pháp lý cho
hiện vật và được tổ chức bảo quản ở trong kho.

Việc lập hồ sơ cho hiện vật sau khi được xét duyệt được các cán bộ
kiểm kê tiến hành rất nghiêm túc, kỹ lưỡng đảm bảo đầy đủ các giấy tờ mang


17

tính pháp lý cho hiện vật, và hồn thiện thêm nội dung, giá trị hiện vật. Hồ sơ
hiện vật của Bảo tàng Bưu điện gồm 7 loại giấy tờ như sau:
- Bản ghi chép hiện vật
- Biên bản bàn giao hiện vật
- Giấy biên nhận
- Biên bản giao nhận hiện vật
- Phiếu chất liệu
- Phiếu kiểm kê
- Hộ chiếu hiện vật
Với hoạt động kiểm kê được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định đã
tạo điều kiện tố các hoạt động khác của Bảo tàng Bưu điện được tiến hành rất
thuận lợi, khoa học, nhanh chóng, phục vụ tốt cho cơng tác bảo quản, khai
thác, phát huy giá trị hiện vật. Đặc biệt với công tác tiếp sau công tác kiểm kê
là hoạt động bảo quản hiện vật được tiến hành rất tốt và nhanh chóng, với
những thơng tin khai thác được hồ sơ giấy tờ của hiện vật, cán bộ bảo quản có
thể dễ dàng phân loại hiện vật một cách chính xác và đưa ra biện pháp bảo
quản thích hợp.
1.1.3.4. Hoạt động trưng bày, tuyên truyền giáo dục
Công tác trưng bày là một trong những cơng tác có vị trí rất quan trọng
nhằm thực hiện sự giao tiếp của Bảo tàng với công chúng, với xã hội. Trưng
bày là bộ mặt của Bảo tàng, là cầu nối của Bảo tàng với công chúng, là nơi
công chúng cảm nhận, thưởng thức những giá trị văn hóa của bảo tàng.
Bảo tàng tiến hành công tác giáo dục tuyên truyền đến với cơng
chúng thơng qua nhiều hình thức tiếp cận để chuyển giao có mục đích

thơng tin, những tri thức về lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ, Bảo
tàng thực hiện hoạt động tuyên truyền giáo dục này bằng phương pháp trực
quan sinh động thông qua hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc và các chương
trình giáo dục. Để thực hiện công tác này Bảo tàng phải tiến hành hướng


18

dẫn khách tham quan, in ấn, giới thiệu, xuất bản phẩm, quảng bá trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Hiện nay, các phòng ban trong Bảo tàng Bưu điện chưa được phân chia
ra rõ ràng nên trong công tác trưng bày, tuyên truyền giáo dục của Bảo tàng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, Bảo tàng Bưu điện vẫn ln cố gắng để
hồn thành tốt cơng tác tun truyền giáo dục của Bảo tàng.
1.2. Nội dung trưng bày của Bảo tàng Bưu điện
Phòng trưng bày của Bảo tàng Bưu điện có diện tích mặt sàn khoảng
500 m2 và được bố trí một cách khoa học, đi theo từng tiến trình lịch sử của
ngành Bưu điện, giúp người xem dễ cảm, dễ hiểu về từng giai đoạn trưởng
thành và phát triển của ngành. Bảo tàng hiện đang lưu giữ, bảo quản và trưng
bày hơn 400.000 tài liệu, hiện vật, hình ảnh về Bưu chính, viễn thơng, cơng
nghệ thơng tin và tem Bưu chính.
Phịng trưng bày của Bảo tàng Bưu điện gồm 3 chủ đề chính:
Chủ đề 1 : Thành tích vẻ vang của ngành Bưu điện.
Phần trưng bày chủ đề về thành tích vẻ vang của ngành Bưu điện cũng
chính là gian khánh tiết của bảo tàng bưu điên, được thiết kế theo hướng
không gian mở, là nơi tổ chức những buổi hội thảo khoa học, sinh hoạt
chuyên đề, kết nạp Đảng viên, Đoàn viên mới, giao lưu giữa các thế hệ.
Tại đây, không gian rộng với chủ điểm là 2 bức tranh vươn ra biển lớn
và chiếm lĩnh không gian vũ trụ của Bưu chính viễn thơng Việt Nam. Đặt ở vị
trí trang trọng của phịng là hai tủ trưng bày những phần thưởng cao quý mà

ngành Bưu điện đã đạt được trong suốt quá trình hơn 65 năm xây dựng và
phát triển như Huân chương Sao vàng; Huân chương Hồ Chí Minh, Huân
chương Độc lập, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Chủ đề 2: Lịch sử hình thành và phát triển của ngành Bưu điện,
gồm các giai đoạn:
- Giai đoạn trước 1945.


19

- Giai đoạn từ 1945 – 1954.
- Giai đoạn 1955 – 1975.
- Giai đoạn từ 1976 đến nay.
Phần trưng bày theo biên niên sử. Trong giai đoạn trước 1945, Bảo tàng
đã sưu tầm và trưng bày giới thiệu một số hình ảnh về hoạt động Bưu chính,
vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện bằng đường bộ tại nông thôn, một số vật
dụng trước năm 1945 như thùng thư lưu ký do Pháp sản xuất của Bưu điện Đà
Nẵng gửi tặng; đoạn cáp điện thoại do thực dân Pháp sản xuất, được lắp đặt
phục vụ thơng tin hữu tuyến Sài Gịn - Hà Nội từ năm 1888; máy điện thoại
do hãng Ericsson sản xuất, được sử dụng phục vụ thông tin liên lạc thời Pháp
thuộc ở Hà Nội năm 1940, được công nhân người Việt cất giấu và sử dụng
phục vụ chính quyền Cách mạng sau năm 1945…
Phần trưng bày giai đoạn 1945-1954 mang lại nhiều xúc cảm với người
xem trước những hiện vật mà lớp cha anh đi trước đã sử dụng phục vụ cho
việc thông tin liên lạc như chiếc xe đạp do đồng chí Nguyễn Văn Tân, cán bộ
kỹ thuật ngành Bưu điện có sáng kiến cải tiến, lấy bộ phận tạo ra điện (Đi-NaMô) của ô tô Pháp lắp vào bánh sau xe đạp, nối với bánh xe trước tạo thành
máy phát điện một chiều, dùng để cung cấp nguồn điện cho máy vô tuyến
điện; những vật dụng thô sơ như chiếc ống quyển được làm bằng thân cây tre,
nứa; túi được khâu bằng vải thô dùng để đựng công văn, tài liệu; băng đỏ phù
hiệu Quốc kỳ mà giao thông viên Hà Nội đeo khi làm nhiệm vụ trong những

ngày toàn quốc kháng chiến tháng 12/1946; chiếc phao bơi bằng vải mà giao
thông viên Vũ Thị Thuấn đã sử dụng 9 lần vượt sông Văn Úc để chuyển cơng
văn, tài liệu và đưa đón cán bộ Cách mạng.
Tại phần trưng bày này, Bảo tàng cũng trưng bày một số máy móc,
thiết bị CBCNV ngành Bưu điện đã sử dụng như: máy vô tuyến điện BC1306, máy phát âm thanh manip dùng dạy học lớp vô tuyến điện báo đầu
tiên…


20

Tại phần trưng bày 1955-1975, Bảo tàng đã lựa chọn những hình ảnh
tiêu biểu nhất để giới thiệu một số hoạt động trọng tâm của ngành Bưu điện
như: Lễ bàn giao Nha Bưu điện Bắc phần cho Chính quyền Cách mạng
tháng 10/1954; hoạt động của một Phòng giao dịch Bưu điện ở giới tuyến;
Hệ thống loa truyền thanh do CBCNV Cơng ty Cơng trình Bưu điện mắc tại
bờ Bắc sơng Bến Hải từ năm 1960. Bên cạnh đó là một số hiện vật phục vụ
sản xuất và chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, có máy điện thoại
phục vụ giao thông vận tải tại bến phà Ghép - Thanh Hóa, nơi thường xuyên
bị máy bay Mỹ bắn phá, máy thu phát kèm ragơnơ phục vụ chiến đấu và
phịng chống thiên tai, chiếc xe Hon đa mà lực lượng giao bưu khu Sài GònGia Định đã sử dụng để vận chuyển cơng văn, tài liệu, đưa đón cán bộ đến
địa điểm tập kết an toàn.
Giai đoạn 1975 cho đến nay, đi lên cùng đất nước, ngành Bưu điện
bước vào giai đoạn tăng tốc, hội nhập quốc tế. Tại đai trưng bày này, Bảo
tàng đã lựa chọn một số sản phẩm công nghiệp thông tin do ngành Bưu điện
sản xuất, mô hình, hình ảnh các cơng trình tiêu biểu: Cơng trình thông tin vệ
tinh mặt đất đầu tiên do Liên Xô giúp đỡ, được xây dựng năm 1980 tại Do
Lễ, Kim Bảng, Hà Nam; hình ảnh xây dựng cột cao trên tuyến thông tin hữu
tuyến dọc Quốc lộ 1A Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh - Minh Hải; Thi cơng lắp
đặt cáp ngầm tại các thành phố lớn, lắp đặt anten viba số, phóng vệ tinh
Vinasat…

Ngồi ra, cịn rất nhiều các hình ảnh và hiện vật của những sự kiện lớn
trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, phát triển viễn thông – công nghệ thông tin
trong thời kỳ mới.
Chủ đề 3: Tem Bưu chính Việt Nam và tem Liên minh Bưu chính thế
giới (UPU)
Khơng gian trưng bày cuối cùng của Bảo tàng Bưu điện là phần trưng
bày chủ đề: tem Bưu chính Việt Nam và tem liên minh Bưu chính thế giới.


21

Phần trưng bày cuối cùng này có các bộ sưu tầm tem rất phong phú và đa
dạng gồm cả những mẫy tem Bưu chính Việt Nam và tem Bưu chính thế giới.
Chủ đề trưng bày về tem Bưu chính này ln là phần mang đến sự thích thú
và để lại ấn tượng sâu sắc cho khách tham quan đến với bảo tàng Bưu điện.
1.3. Nội dung trưng bày tem Bưu chính Việt Nam và tem Liên
minh Bưu chính thế giới (UPU) tại Bảo tàng Bưu điện
Phần trưng bày tem Bưu chính Việt Nam và tem liên minh Bưu chính
thế giới bao gồm bộ sưu tập gần 400.000 con tem UPU của 264 nước, vùng
lãnh thổ và tổ chức phát hành tem thế giới, những con tem này được trưng
bày trong 2 tủ kéo hiện đại với 200 cánh; và hơn 4.000 mẫu tem Bưu chính
Việt Nam phát hành từ năm 1946 đến nay, trong đó có bộ tem đầu tiên của
nền Bưu chính Việt Nam Dân chủ Cộng hịa được phát hành đặc biệt nhân dịp
1 năm ngày Cách mạng tháng 8 thành công và quốc khánh 2 tháng 9 năm
1946.
Đây là chủ đề cuối trong không gian trưng bày của bảo tàng, có ý nghĩa
quan trọng, các hiện vật trong phần trưng bày này ngoài mang những giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt quan trọng như những mẫu tem đầu tiên
của nước Việt Nam, nó cịn là những hiện vật cực kỳ quý hiến, có giá trị kinh
tế rất cao như các mẫu tem liên minh Bưu chính thế giới bằng vàng.

Tem Bưu chính Việt Nam từ 1946 đến nay được trưng bày trong 4 tủ
taplo.
- Tủ 1 trưng bày tem từ 1946 đến 1980 gồm 1187 tem
- Tủ 2 trưng bày tem từ 1980 đến 1991 gồm 1186 tem
- Tủ 3 trưng bày tem từ 1992 đến 2001 gồm 789 tem
- Tủ 4 trưng bày tem từ 2002 đến nay gồm 354 tem
Tem giai đoạn từ 1946 đến 1954 được trưng bày trên mặt thứ đầu tiên
của album tem thuộc tủ taplo 1, riêng những con tem Đông Dương in đè được
trưng bày trong tủ kính nằm ở chính giữa của gian trưng bày.


22

Ngồi các hiện vật mang tính chủ đạo của gian trưng bày là các con
tem Bưu chính Việt Nam và tem liên minh Bưu chính thế giới, trong gian
trưng bày này còn giới thiệu một số tài liệu, hiện vật có giá trị, ý nghĩa như:
các sổ dịch tem liên minh Bưu chính thế giới, một số mẫu phác thảo tem Bưu
chính Việt Nam Dân chủ Cộng hịa 1945 – 1954, bộ tem về các dân tộc Việt
Nam, con dấu của Bưu điện Việt Nam qua các thời kỳ, đặc biệt, trong phần
trưng bày này nổi bật lên với tác phẩm tranh: Bác Hồ đang nghe điện thoại,
được ghép bằng các con tem Bưu chính Việt Nam. Đây là tác phẩm khơng
những mang tính nghệ thuật cao mà nó cịn thể hiện trình độ mỹ thuật tinh tế
và tình cảm kính mến của tác giả với Bác Hồ kính yêu.
1.4. Vài nét về sự ra đời của tem Bưu chính và lịch sử tem Bưu
chính Việt Nam
1.4.1. Vài nét về sự ra đời của tem Bưu chính
Lịch sử bưu chính thế giới đã ghi nhận hoạt động thư tín đã có từ thời
cổ đại và là đặc quyền của giới vua chúa. Các Pharaoh Ai Cập cổ đại đã sử
dụng những sứ giả để chuyển tin khắp trong và ngoài lãnh thổ của mình. Thư
tín trong thời kỳ này là những tấm đất sét có khắc chữ. Có thể nói người lính

truyền tin chiến thắng từ Marathon về Aten vào năm 490 (trước công nguyên)
là người bưu tá đầu tiên trong lịch sử.
Ở châu Âu, hoạt động bưu chính phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt là
tại nước Anh, vào thế kỷ 16, vua Henri VIII đã cử một viên quan chun coi
sóc hoạt động bưu chính. Năm 1661, Henry Bishop đã đưa ra sáng kiến sử
dụng con dấu có khắc ngày, tháng, năm để đóng lên các bì thư tín nhằm theo
dõi các tuyến thư.
Từ thế kỷ 17, một số nước ở châu Âu đã tổ chức chuyển thư của cơ
quan và nhân dân. Người bưu tá chuyển thư và nhận tiền thanh tốn cước phí
từ người nhận thư. Phương pháp này gây nhiều phiền tối như: cước phí cao


23

(người bưu tá phải đi ngựa hàng chục dặm để chuyển một bức thư), mất an
ninh cho bưu tá.
Bưu chính Pháp và Anh có phương án: người gửi thư mua một phiếu
dán vào bì thư rồi bỏ vào thùng thư. Bưu tá lấy thư, bóc lại phiếu và chuyển
đi. Phương án này không được áp dụng lâu. Tuy vậy những phiếu dùng thời
đó có thể được coi là "mẫu tem đầu tiên" và có giá trị sưu tầm rất cao. Những
mẫu đó hiện chỉ cịn trên văn bản ở Bảo tàng.
Đến thế kỷ 17, nước Anh mở đầu sự nghiệp Bưu chính do nhà nước
kinh doanh. Cho đến những năm 30 của thế kỷ 19, nước Anh vẫn thu lệ phí
gửi thư theo số trang và cự ly vận chuyển của đường thư. Một bức thư từ
Luân Đôn đến Scotland phải trả cước phí bằng tiền cơng nhật của một cơng
nhân xây dựng đường sắt. Người dân bình thường khơng thể trả được giá
cước đắt như vậy, cho nên người ta tìm mọi cách để giảm hoặc khơng trả
cước. Ví dụ: có một thương nhân khéo léo viết nhiều bức thư lên một tờ giấy
rồi gửi cho một người nhận, người đó lại cắt tờ giấy thành từng thư rồi trao
cho người nhận thư ở cùng khu vực. Bởi vì thư đó là một tờ giấy nên chỉ phải

trả cước của một bức thư và như vậy giảm cước phải nộp của người nhận thư.
Sir Rowlland Hill (1795-1879) là một nhà cải cách kiệt xuất. Ông quê ở
Birmingham nước Anh, là một giáo viên dạy toán nhưng rất quan tâm đến
hoạt động Bưu chính.
Thời ấy, ở nước Anh cịn lưu truyền một câu chuyện như sau: Năm
1888, Rowlland Hill đang đi chơi ở một vùng gần Luân Đôn, ông thấy một
người phu trạm từ xa mang một phong thư đưa cho một cơ gái. Cơ gái cầm
bức thư chỉ nhìn qua rồi trả lại người phu trạm và nói: “Xin lỗi tơi khơng có
tiền, mong ơng trả về người gửi”. Người phu trạm và cơ gái lời qua tiếng lại.
Ơng đi tới, hỏi rõ tình hình rồi trả giúp cơ gái bưu phí. Sau khi người phu
trạm đi khỏi cơ gái nói với ơng rằng: “Bức thư này là của anh tôi gửi. Chúng
tôi đã hẹn trước với nhau nếu bình n vơ sự thì đánh một dấu trịn ở bì thư,


24

sau khi xem xong tôi biết anh ấy ở xa khơng xảy ra chuyện gì, khỏi phải trả
cước. Thế là vừa có thơng tin vừa khơng phải trả tiền”.
Năm 1835, Rowlland Hill bắt đầu nghiên cứu vấn đề cải cách Bưu
chính nước Anh. Để tuyên truyền cho tư tưởng cải cách, năm 1837, ông cho
xuất bản một quyển sách nhỏ mang tên “Cải cách bưu cục - tầm quan trọng và
tính thực tiễn” (Post Office Reform It’s Importance and Practicability), trong
sách này ông nêu ra một biện pháp cải cách là trong phạm vi vùng đất Anh và
Bắc Ai-len, mọi thư tín khơng kể đường bưu xa gần mỗi thư nặng 1/2 ounce
(14,2 g) chỉ thu cước 1 Penny và phải trả trước bằng cách mua một bì thư đã
có dấu hiệu trả cước để người gửi thư sử dụng.
Để thuận tiện cho người gửi khơng muốn dùng bì thư đã in dấu hiệu trả
cước, bưu cục bán cho một mảnh giấy “in hoa”nhỏ để dán lên bì thư tự làm.
Mảnh giấy “in hoa” nhỏ như một bông hoa, mặt sau có keo, chỉ cần làm ướt
rồi dán lên bì thư. Rowlland Hill gọi mảnh giấy đó là “lá nhãn” (label), thực

tế là con tem chúng ta dùng ngày nay.
Tháng 01-1837, Rowlland Hill viết thư cho một thành viên Chính phủ
Anh đề xuất kiến nghị này nhưng kiến nghị bị Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu
chính Anh kịch liệt phản đối. Sau đó, Rowlland Hill in quyển sách nhỏ này
thành truyền đơn phát khắp nơi để tạo sự chú ý của dư luận. Quốc hội Anh
sau nhiều lần thảo luận, cuối cùng tháng 08-1839 đã thông qua một đạo luật
nổi tiếng là “Luật cước 1 Penny”(One Penny Act). Ngày 10/01/1840, nước
Anh quyết định thực hiện kiến nghị của Rowlland Hill: không kể xa gần, mỗi
bức thư nặng 1/2 ounce thu phí 1 Penny. Đó là chế độ cước bình qn 1
Penny có ảnh hưởng sâu rộng trên lịch sử Bưu chính tồn thế giới. Để thực
hiện kế hoạch cải cách Bưu chính của Rowlland Hill, Bộ Tài chính (thời đó
bưu cục ở Anh do Bộ Tài chính quản lý) đã mời ơng về làm việc.
Tem 1 Penny Đen in hình Nữ hoàng Victoria để vừa thể hiện quyền uy
của quốc gia vừa thể hiện sự nghiêm túc của một chứng khốn có giá mặt


25

bằng tiền do nhà nước phát hành, khi in ấn đã áp dụng công nghệ in khắc tiên
tiến nhất thường dùng để in tiền giấy của các nước ở Âu, Mỹ thời đó và in
trên giấy có bóng mờ hình vương miện để chống làm giả. Phía trên tem ở giữa
có chữ “Postage” (cước bưu), hai bên góc có hoa chữ thập, phía dưới tem,
giữa là chữ “One Penny” (1 Penny). Tờ tem in chiều ngang 12 tem, chiều dọc
20 tem, tổng cộng 240 tem, giá mặt cả tờ vừa đúng 1 Bảng Anh. Để ngăn
ngừa làm giả, mỗi tem có một bóng mờ vương miện trên giấy, phía dưới tem
ở 2 góc có 2 chữ cái để đánh dấu. Những con tem cùng hàng ngang, chữ cái ở
góc trái giống nhau, những con tem cùng hàng dọc, chữ cái ở góc phải giống
nhau. Theo vậy mà đánh dấu.
Nước Anh dự định ngày 10/01/1840 bắt đầu áp dụng cước bình qn 1
Penny, nhưng đến tháng giêng năm đó khơng chuẩn bị đủ bì thư và tem, cho

nên tạm thời đóng dấu “đã thu cước” lên bì thư. Về nguyên tắc, ngày phát
hành tem là 06/05/1840, nhưng có bưu cục đã bán tem từ ngày 01/05/1840.
Con tem đầu tiên của thế giới đã ra đời như vậy.
Tiếp theo nước Anh, Brazil bắt đầu sử dụng tem vào năm 1843; sau đó
là Mỹ và Mauritius vào năm 1847; Pháp, Bỉ và Bavaria vào năm 1849; Áo,
Tây Ban Nha và Thụy Sĩ vào năm 1850; Đức và Đan Mạch vào năm 1852…
Hầu hết các nước khác cũng bắt đầu sử dụng tem vào năm 1860. Như vậy là
chỉ trong vòng 20 năm tem sau khi ra đời, tem Bưu chính đã có mặt trên khắp
thế giới.
1.4.2. Vài nét về lịch sử tem Bưu chính Việt Nam
1.4.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Ở Việt Nam, từ khi tiến hành xâm lược Nam Kỳ năm 1858, thực dân
Pháp đã chú trọng đến thiết lập và phát triển hoạt động Bưu chính. Con tem
đầu tiên do chính quyền Pháp lưu hành tại Việt Nam vào năm 1863 mang
hình một con cị. Năm 1889, con tem indochine (Đơng Dương) chính thức ra
đời dùng chung cho cả ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia. Từ năm 1892


×