Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tìm hiểu về sưu tập tài liệu, hiện vật đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của đảng cộng sản đông dương, tháng 2 1951

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 111 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
************

TÌM HIỂU SƯU TẬP TÀI LIỆU, HIỆN VẬT
“ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TỒN QUỐC LẦN
THỨ II CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐƠNG
DƯƠNG, THÁNG 02 – 1951”
TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số : 52320305

Người hướng dẫn:

TS. CHU ĐỨC TÍNH

Sinh viên thực hiện: NGUYỄN QUẾ AN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Với đề tài tốt nghiệp đại học: Tìm hiểu sưu tập tài liệu, hiện vật “Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đơng Dương, tháng 21951” tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS Chu Đức Tính trong suốt q trình tìm hiểu,
nghiên cứu để hồn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các cán
bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh, đặc biệt là các cán bộ làm việc trong kho cơ sở
Bảo tàng Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian


nghiên cứu, tìm hiểu để hoàn thành đề tài này.
Cuối cùng, em xin trân trọng cảm ơn thầy cô giáo trong khoa Di sản
Văn hóa đã truyền đạt cho em những kiến thức bổ ích trong 4 năm học để em
có đủ tri thức hồn thành khóa luận này, cảm ơn người thân và bạn bè đã cho
em nguồn động viên tinh thần trong suốt thời gian qua.
Do thời gian và khả năng có hạn của một sinh viên bước đầu tập nghiên
cứu, với sưu tập tài liệu, hiện vật tương đối lớn, việc đi sâu tìm hiểu từng tài
liệu, hiện vật vẫn cịn hạn chế nên khóa luận khơng tránh khỏi những khiếm
khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cơ và các
bạn để cho khóa luận được hoàn thiện hơn.


CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

BCHTW

Ban chấp hành Trung ương

BTHCM

Bảo tàng Hồ Chí Minh

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CP

Chính phủ


KHTN

Khoa học tự nhiên

KKBĐ

Kiểm kê bước đầu

LSXH

Lịch sử xã hội

NCKH

Nghiên cứu khoa học

NXB

Nhà xuất bản

NQ

Nghị quyết



Quyết định

SKK


Số kiểm kê

Tr

Trang

TW

Trung ương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU: ........................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 4
6. Đóng góp của khóa luận.............................................................................. 5
7. Bố cục khóa luận ......................................................................................... 5

CHƯƠNG 1: BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH VỚI CÔNG TÁC
XÂY DỰNG SƯU TẬP HIỆN VẬT BẢO TÀNG .................... 6
1.1. Sưu tập hiện vật bảo tàng và vai trò của sưu tập hiện vật bảo tàng đối với
hoạt động bảo tàng ............................................................................................ 6
1.1.1. Sưu tập hiện vật bảo tàng – khái niệm, tiêu chí, nguyên tắc xây
dựng sưu tập ...................................................................................................... 6
1.1.1.1. Khái niệm sưu tập hiện vật bảo tàng .......................................... 6
1.1.1.2. Tiêu chí xây dựng sưu tập hiện vật bảo tàng ........................... 11
1.1.1.3. Nguyên tắc xây dựng sưu tập hiện vật bảo tàng ...................... 13

1.1.2. Vai trò của sưu tập hiện vật đối với hoạt động bảo tàng ................ 15
1.2. Vài nét về Bảo tàng Hồ Chí Minh............................................................ 17
1.3. Kho cơ sở Bảo tàng Hồ Chí Minh với hoạt động xây dựng sưu tập hiện
vật bảo tàng ..................................................................................................... 25
1.3.1. Đôi nét về hệ thống kho cơ sở bảo tàng Hồ Chí Minh .................... 25
1.3.2. Cơng tác xây dựng sưu tập hiện vật ở kho cơ sở bảo tàng Hồ Chí
Minh ................................................................................................................ 30

CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU SƯU TẬP TÀI LIỆU, HIỆN VẬT
“ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG


CỘNG SẢN ĐƠNG DƯƠNG, THÁNG 2-1951” TẠI BẢO
TÀNG HỒ CHÍ MINH .................................................................34
2.1. Tổng quan về sưu tập tài liệu hiện vật .................................................... 35
2.1.1. Lịch sử và nguồn gốc của sưu tập .................................................... 35
2.1.2. Nội dung của sưu tập........................................................................ 39
2.2. Phân loại sưu tập ...................................................................................... 49
2.2.1. Sưu tập ảnh ....................................................................................... 50
2.2.2. Sưu tập hiện vật bằng giấy ............................................................... 54
2.2.3. Sưu tập hiện vật bằng kim loại......................................................... 60
2.3. Giá trị của sưu tập .................................................................................... 60
2.3.1. Giá trị lịch sử ..................................................................................... 61
2.3.2. Giá trị văn hóa ................................................................................... 65
2.3.3. Giá trị giáo dục .................................................................................. 68
2.3.4. Giá trị lưu niệm ......................................................................................70

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO QUẢN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ SƯU TẬP TÀI LIỆU, HIỆN VẬT “ĐẠI
HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG CỘNG

SẢN ĐÔNG DƯƠNG, THÁNG 2-1951” TẠI BẢO TÀNG HỒ
CHÍ MINH .....................................................................................72
3.1. Thực trạng của sưu tập ............................................................................. 72
3.1.1. Tình hình sắp xếp tại kho cơ sở ....................................................... 73
3.1.2. Bảo quản phòng ngừa và bảo quản trị liệu cho sưu tập ................... 75
3.2. Một số giải pháp ....................................................................................... 77
3.2.1. Tiếp tục công tác nghiên cứu sưu tập .............................................. 77


3.2.2. Đẩy mạnh cơng tác kiện tồn và quản lý sưu tập ............................ 80
3.2.3. Nâng cao chất lượng bảo quản sưu tập ............................................ 82
3.2.4. Tiếp tục hoạt động khai thác, phát huy giá trị sưu tập ..................... 84

KẾT LUẬN ....................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................92
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Là Người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam,
Lào, Campuchia, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ln
làm trịn vai trị và sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến
của ba nước Đông Dương tuy cùng chung một mục tiêu, cùng một chiến
trường, nhưng mỗi nước đã có những bước phát triển riêng biệt. Tình hình đó
địi hỏi mỗi nước cần phải thành lập một chính đảng cách mạng theo Chủ
nghĩa Mác-Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và
chủ động góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba nước.

Ở trong nước, kể từ khi có Đảng (1930), tình hình có những chuyển
biến căn bản. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân
dân ta từ người mất nước lên người làm chủ đất nước. Nhưng do dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp, nhân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên đánh
giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Qua hơn 5 năm chiến đấu, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã liên tiếp thu được nhiều thắng
lợi. Thực dân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến do chính họ phát động.
Thế và lực của cuộc kháng chiến từ sau chiến thắng Biên giới có bước phát
triển vượt bậc.
Từ năm 1950, phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Phong
trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển làm rung chuyển hậu phương
của chủ nghĩa đế quốc. Phong trào bảo vệ hồ bình thế giới trở thành phong
trào quần chúng rộng rãi. Và đến năm 1951, tình hình trên thế giới và ngay
trong nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, đặt ra những yêu cầu cấp
bách, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn để đưa


2

cách mạng tiến lên. Cũng trong lúc này, lực lượng kháng chiến của nhân dân
Lào và Campuchia đã trưởng thành và ngày càng lớn mạnh, vì thế mà Đảng
bộ Lào và Campuchia 0trong Đảng Cộng sản Đơng Dương đã có đủ những
điều kiện để tiến tới thành lập ở mỗi nước một đảng có cương lĩnh riêng, phù
hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc. Yêu cầu mới của cách mạng
Việt Nam đặt ra cho Đảng ta phải bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, phải tăng cường hơn nữa sức chiến đấu
và lãnh đạo của Đảng cho phù hợp với yêu cầu của một Đảng lãnh đạo chính
quyền. Cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới lại có những yêu cầu mới,
đòi hỏi Đảng phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách để

đưa cách mạng tiến lên. Và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
được triệu tập nhằm đáp ứng những địi hỏi bức thiết đó.
Nhiệm vụ chính của cách mạng lúc này là đưa kháng chiến đến thắng
lợi hồn tồn. Đại hội đề ra nhiều chính sách, chủ trương cụ thể để động viên
sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm giành thắng lợi, đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược và đánh đổ các thế lực phong kiến tay sai của
chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc, thực hiện dân chủ nhân dân tiến lên
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân do
nhân dân lao động làm động lực, cách mạng đó khơng chỉ giải quyết những
nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến, mà còn phát triển chế độ dân chủ nhân
dân một cách mạnh mẽ, đồng thời gây mầm mống cho CNXH, tạo điều kiện
để tiến lên CNXH.
Có thể nói Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951) là một Đại hội có ý
nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến
phong trào kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta.


3

Đại hội họp đúng 16 năm sau Đại hội lần thứ nhất. Nhưng Đại hội I
(1935) cũng như Hội nghị thành lập Đảng trước đó năm năm đều là những sự
kiện của thời kỳ đầu xây dựng Đảng, thời kỳ Đảng ta ra đời và bước lên vũ
đài chính trị. Đại hội II lại là Đại hội lần đầu tiên của thời kỳ Đảng ta đã giành
được chính quyền tồn quốc trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và trở thành Đảng cầm quyền đang lãnh đạo cuộc
kháng chiến cứu nước lần thứ nhất. Đây cũng là lần đầu tiên Đảng ta, với tên
gọi Đảng Cộng sản Đông Dương, sau năm năm rút vào hoạt động bí mật, đã
ra cơng khai với tên gọi mới - Đảng Lao động Việt Nam! Đại hội II còn đánh
dấu một bước thay đổi lớn về mặt tổ chức của Đảng: Đảng Cộng sản Đông
Dương từ là tổ chức chung của những người cộng sản ba nước Việt, Miên,

Lào, nay tiến lên thành ba tổ chức cách mạng độc lập cho mỗi nước.
Hiện nay, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh đang lưu giữ sưu tập tài liệu, hiện
vật về “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng Cộng sản Đông
Dương, tháng 2-1951”. Đây là tập hợp những tài liệu, hình ảnh, hiện vật tuy
chưa được tập hợp một cách đầy đủ nhưng phần nào cũng thể hiện được một
cách khách quan và là những bằng chứng thiết thực phản ánh về kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam – một kỳ Đại hội
có ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử nước ta với những nhiệm vụ, mục tiêu
lớn hàng đầu được đặt ra đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Sưu tập tài
liệu, hiện vật về “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản
Đông Dương, tháng 2-1951” đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh là
một tài sản vô cùng giá trị, mặt khác cho tới nay cũng chưa có một cơng trình
nghiên cứu nào tìm hiểu một cách đầy đủ về sưu tập này, nên chính vì vậy em
xin chọn đề tài : Tìm hiểu về sưu tập tài liệu, hiện vật “Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2-1951” hiện đang


4

được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh làm khóa luận tốt nghiệp Đại học
chuyên ngành Bảo tồn – Bảo tàng.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu, giới thiệu sưu tập tài liệu, hiện vật “Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ II của Đảng Cộng sản Đơng Dương, tháng 2-1951”.
- Tìm hiểu nội dung, xác định những giá trị tiêu biểu của sưu tập tài liệu, hiện
vật “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương,
tháng 2-1951” đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh gồm: Giá trị lịch
sử, giá trị văn hóa, giá trị giáo dục và giá trị lưu niệm của sưu tập.
- Tìm hiểu thực trạng sưu tập tài liệu, hiện vật “Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2-1951” nhằm đề xuất một

số giải pháp nhằm bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là sưu tập tài liệu, hiện vật “Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2-1951” tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu sưu tập tài liệu, hiện vật về Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2 - 1951.
- Không gian nghiên cứu: nghiên cứu sưu tập tài liệu, hiện vật đang được lưu
giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử


5

- Phương pháp: thống kê, phân tích tổng hợp, khảo sát, tiếp cận trực tiếp tài
liệu hiện vật…
- Phương pháp liên ngành: sử học, bảo tàng học, văn hóa học…
6. Đóng góp của khóa luận:
- Giới thiệu nội dung của bộ sưu tập tài liệu, hiện vật “Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đơng Dương, tháng 2-1951” hiện
đang lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu được, khóa luận góp phần khẳng định
giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, giá trị giáo dục và giá trị lưu niệm của sưu tập,
bổ sung nguồn tư liệu cho các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng, nghiên cứu về
Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người quan tâm đến sưu tập tài liệu, hiện vật
“Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương,
tháng 2-1951”.

7. Bố cục khóa luận:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính khóa luận gồm 3 chương:
 Chương 1: Bảo tàng Hồ Chí Minh với công tác xây dựng sưu tập
hiện vật bảo tàng.
 Chương 2: Tìm hiểu sưu tập tài liệu hiện vật “Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2-1951” tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh.
 Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo quản và phát huy giá trị sưu

tập tài liệu hiện vật “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
Cộng sản Đông Dương, tháng 2-1951” tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.


6

CHƯƠNG 1
BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH VỚI CƠNG TÁC XÂY DỰNG
SƯU TẬP HIỆN VẬT BẢO TÀNG
1.1.Sưu tập hiện vật bảo tàng - vai trò của sưu tập hiện vật bảo tàng đối
với hoạt động bảo tàng.
1.1.1. Sưu tập hiện vật bảo tàng – khái niệm, tiêu chí, nguyên tắc xây
dựng sưu tập
1.1.1.1. Khái niệm sưu tập hiện vật bảo tàng:
“Bảo tàng là cơ quan được ủy thác, gìn giữ các tài sản của con người và
nhiều lợi ích trong tương lai của con người. Giá trị của nó là ở chỗ phục vụ
xứng đáng cho đời sống cảm xúc và tinh thần của lồi người”1. Thứ tài sản ở
đây chính là những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà con người lao động
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, trong quá trình đấu tranh để cải tạo thiên
nhiên, cải tạo xã hội để hướng tới xã hội văn minh, tiến bộ hơn.

Những giá trị vật chất, giá trị tinh thần này ln được bảo tàng gìn giữ
và bảo quản. Mà thực chất đó chính là những hiện vật bảo tàng – sưu tập hiện
vật bảo tàng, có chứa đựng những tri thức cần thiết về tự nhiên, xã hội và con
người, đồng thời cũng chứa đựng một giá trị lịch sử văn hóa nhất định, là một
minh chứng hùng hồn cho một sự kiện, một hiện tượng nhất định nào đó trong
lịch sử mà nó tồn tại
Các hiện vật mà con người còn giữ được trong các sưu tập chính là
những hiện vật lịch sử, những căn cứ xác thực để nghiên cứu, tìm hiểu về thời
đại quá khứ của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội.
1

Cơ sở bảo tàng .Bảo tàng Cách mạng Việt Nam dịch và xuất bản. HN.2000.


7

Khái niệm “Hiện vật bảo tàng” luôn được các chuyên gia, các nhà bảo
tàng học không ngừng quan tâm nghiên cứu nhằm hồn thiện thành một khái
niệm cơ bản. Có rất nhiều quan điểm được đưa ra:
Ngay từ thế kỷ XVII, ơng Maior trong cơng trình nghiên cứu của mìnhBảo tàng học miêu tả- có viết: “Hiện vật bảo tàng phải là những hiện vật nằm
trong các bảo tàng và nó được gìn giữ lâu dài như những vật chân chính có
thật lấy từ cuộc sống hiện tại của nó, hiện vật bảo tàng phải là những hiện vật
mang tính quý hiếm”2.
Sự hình thành về tư duy hiện vật bảo tàng của con người đã được hình
thành từ sớm, khi con người thấy được rằng ngoài các giá trị cơ bản nó hàm
chứa thì cịn minh chứng cho sự kiện, thời kỳ lịch sử mà nó tồn tại. Đến tận
thế kỷ XIX thì hiện vật trong bảo tàng ngày càng được xem như nguồn sử liệu
gốc của nhiều ngành khoa học khác nhau do sự chun mơn hóa của khoa
học. Và một khái niệm nữa được đưa ra trong cuốn “Bảo tàng học” của hai
giáo sư V.Levưkin (CHDC Đức) và K.G.Kherbơst (Liên Xô cũ):

“Hiện vật bảo tàng là hiện vật mang giá trị bảo tàng được lấy ra từ thế
giới đồ vật trong hiện thực khách quan, nó được sắp xếp vào các sưu tập bảo
tàng để tổ chức việc bảo quản và sử dụng thuận tiện, lâu dài. Hiện vật bảo
tàng là vật mang thông tin xã hội hoặc thơng tin khoa học, nó là nguồn sử liệu
quan trọng cung cấp những tri thức cần thiết về tự nhiên, xã hội và về con
người cho những ai tiếp cận với nó. Hiện vật bảo tàng nào cũng chứa đựng
một giá trị lịch sử văn hóa nhất định, vì thế nó là một bộ phận của di sản văn
hóa dân tộc”3.

2

TS. Nguyễn Thị Huệ, Nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng. NXB CTQG. Hà Nội, 2002, tr.12.

3

Levưkin V. và Kherbơst K.G., Bảo tàng học. Bảo tàng loại hình lịch sử, Matxcơva, 1998, tr.38 ( tiếng Nga)


8

Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhận thức, căn cứ
vào chức năng xã hội, những nhiệm vụ xã hội mà bảo tàng được giao, tập thể
giảng viên bộ môn Bảo tàng học, Khoa Bảo tàng, trường Đại học Văn hóa Hà
Nội đã nêu:
“Hiện vật bảo tàng là nguồn nhận thức trực tiếp cảm tính cho nhận thức
của con người, tiêu biểu về văn hóa vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử cùng những hiện vật về thế giới tự nhiên xung
quanh ta, bản thân nó chứng minh cho một sự kiện, hiện tượng nhất định nào
đó trong quá trình phát triển của xã hội và tự nhiên phù hợp với loại hình bảo
tàng được sưu tầm, bảo quản nhằm phục vụ cho nghiên cứu và giáo dục khoa

học”4.
Trong cuốn “Nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng” của Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, HN.2005, tác giả TS.Nguyễn Thị Huệ đã đưa ra khái
niệm:
“Hiện vật bảo tàng là những hiện vật gốc mang giá trị và thuộc tính của
hiện vật bảo tàng, có hồ sơ khoa học – pháp lý kèm theo, phù hợp với nội
dung và loại hình của bảo tàng, chúng được gìn giữ bảo quản lâu dài để phục
vụ cho những hoạt động và chức năng xã hội của bảo tàng”.
Mặt khác trong cuốn “Cơ sở bảo tàng học” cũng viết:
“Hiện vật bảo tàng là nguồn gốc đầu tiên của tri thức, mà nhờ có nguồn
gốc đầu tiên của tri thức ấy, bảo tàng mới trở thành cơ quan nghiên cứu khoa
học, mới có khả năng trở thành cơ sở tư liệu phục vụ cho các ngành khoa học,
tổ chức kinh tế xã hội, cơ quan văn hóa khác”5.

4

Cơ sở bảo tàng học (3 tập), Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 1990, tr.81.Tập 1.

5

Cơ sở bảo tàng học, Matxcơva, tr.106.


9

Và gần đây nhất là cuốn “Sự nghiệp bảo tàng của nước Nga” (do
Kaulen.M.E chủ biên) được Cục Di sản Văn hóa xuất bản năm 2006 đã viết:
“Hiện vật bảo tàng là đối tượng tự nhiên hay văn hóa lịch sử được nhập
vào sưu tập bảo tàng, là tư liệu ban đầu của tri thức và tác động cảm xúc và
mang giá trị bảo tàng”6.

Do vậy, thông qua các khái niệm trên đây cho thấy hiện vật bảo tàng là
hiện vật được khẳng định mang giá trị bảo tàng và có vai trị to lớn đối với sự
ra đời, tồn tại và phát triển của bảo tàng. Đó là hiện vật gốc của lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội được lấy ra từ hiện thực xung quanh con người, hàm
chứa trong đó nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật…và ln
có hồ sơ khoa học pháp lý kèm theo.
Còn khái niệm “sưu tập hiện vật bảo tàng” là gì ? thì trước tiên chúng
ta phải tìm hiểu thuật ngữ “sưu tập”.
Thuật ngữ sưu tập được bắt nguồn từ tiếng La tinh là Collectio, chuyển
sang tiếng Pháp và tiếng Anh là Collection và tiếng Nga là Kolecxia.
Trong cuốn “Đại bách khoa thư” của Liên Xô cũ có giải thích:
“Sưu tập là sự tập hợp có hệ thống một số lượng hiện vật (cùng loại
hoặc liên kết với nhau bởi nét chung của chủ đề)”7.
Trong cuốn “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” sưu tập được giải thích là sự
tìm kiếm cơng phu và tập hợp lại. Vậy nên, qua một số cách giải thích cơ bản
cho thấy sưu tập được hiểu là sự liên kết, tập hợp có hệ thống những đối

6

Kaulen M.E ( chủ biên). Sự nghiệp bảo tàng ở nước Nga (tài liệu dịch). Cục di sản Văn hóa xuất bản năm

2006. Tr.233.
7

Đại bách khoa tồn thư Liên Xơ (cũ), tập XX, tr.433.


10

tượng cùng loại bởi những nét chung của chủ đề nhằm phục vụ cho mục đích

giáo dục, giải trí và sử dụng…
Với khái niệm sưu tập hiện vật bảo tàng thì cũng được đề cập đến khá
nhiều trong các cơng trình bảo tàng học thế giới và Việt Nam. Các chuyên gia
bảo tàng học của Cộng hòa Liên bang Nga đã viết:
“Sưu tập hiện vật bảo tàng là toàn bộ những hiện vật khác nhau cùng
chủng loại hoặc giống nhau về những dấu hiệu nhất định không kể mỗi một
hiện vật trong đó có giá trị văn hóa riêng được tập hợp lại đều có ý nghĩa lịch
sử, nghệ thuật, khoa học hay văn hóa”8.
Theo “Từ điển thuật ngữ bảo tàng” của Liên Xô xuất bản năm 1974 tại
Matxcơva, các nhà bảo tàng học Xô Viết đã định nghĩa sưu tập hiện vật bảo
tàng như sau:
“Sưu tập bảo tàng là tổng thể các hiện vật bảo tàng có liên quan đến
một hay vài dấu hiệu chung, có tầm quan trọng về khoa học hay nghệ thuật và
được liên kết lại như một thể thống nhất, toàn vẹn”9.
Định nghĩa về “sưu tập hiện vật bảo tàng” cũng được trình bày rất rõ
trong cuốn “Luật Di sản Văn hoá và Nghị định hướng dẫn thi hành”, tại mục
9 điều 4:
“Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản
văn hóa phi vật thể, được thu thập, gìn giữ sắp xếp có hệ thống theo những
dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội”10.

8

Sự nghiệp bảo tàng của nước Nga, Cục Di sản Văn hóa xuất bản, HN 2006, tr.235 (bản dịch).

9

Sự nghiệp bảo tàng – những vấn đề cấp thiết, BTCMVN xuất bản, H, 1996, tr.112


10

Luật Di sản Văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành, NXB CTQG,H,2004, tr.13 – tr.14


11

Hay ngay tại Hội thảo khoa học thực tiễn “Sưu tập và phương pháp xây
dưng sưu tập hiện vật bảo tàng” tổ chức tại Hà Nội ngày 7 và 8/1/1994, các
nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa về “Sưu tập hiện vật bảo tàng”, tuy có
nhiều định nghĩa của nhiều tác giả được đưa ra song đều hướng về chung một
quan điểm: sưu tập hiện vật bảo tàng là tập hợp các hiện vật gốc dựa trên một
hay nhiều dấu hiệu chung theo thể loại, nội dung, xuất xứ…
Việc nghiên cứu nhằm đưa ra khái niệm về sưu tập hiện vật bảo tàng đã
được rất nhiều nhà bảo tàng học trong nước và trên thế giới quan tâm, đề cập.
Điều này thể hiện vai trò quan trọng của sưu tập, những tài sản “cố định” của
mỗi bảo tàng, thể hiện đặc trưng, sắc thái riêng cho từng bảo tàng để tạo nên
vị thế xã hội của bảo tàng trong hiện tại và tương lai.
1.1.1.2. Tiêu chí xây dựng sưu tập hiện vật bảo tàng
Trong bảo tàng, hiện vật bảo tàng chính là đối tượng chủ yếu để hình
thành, xây dựng nên các sưu tập. Công tác xây dựng sưu tập là một trong
những hoạt động thường xuyên của bảo tàng, là một khâu công tác quan trọng
được thực hiện nhằm khai thác nội dung thông tin và để bảo quản hiện vật
hiệu quả. Tuy nhiên không phải tất cả các hiện vật bảo tàng đều được xây
dựng thành sưu tập, mà bảo tàng phải nghiên cứu, lựa chọn, phân loại chúng
dựa trên cơ sở các tiêu chí xây dựng sưu tập của mỗi bảo tàng bởi mỗi một
bảo tàng đều có nội dung, loại hình, tính chất khác nhau. Vì vậy mà bảo tàng
cần phụ thuộc vào thành phần hiện vật bảo tàng mình sở hữu, loại hình bảo
tàng để xây dựng các tiêu chí thích hợp để hình thành các sưu tập hiện vật cho
bảo tàng mình, phục vụ cho các chức năng và nhiệm vụ cụ thể của bảo tàng.

Mặc dù có rất nhiều tiêu chí để xây dựng sưu tập hiện vật song tất cả các bảo
tàng đều phải tuân thủ những nguyên tắc chung khi phân loại sưu tập vì mỗi
sưu tập hiện vật chứa đựng những giá trị thông tin nhất định, là nguồn khai
thác thông tin, tư liệu cho hoạt động của mỗi bảo tàng.


12

Qua các báo cáo tại Hội thảo khoa học thực tiễn “Nâng cao chất lượng
công tác kiểm kê và quản lý các sưu tập hiện vật bảo tàng” tổ chức tháng
4/2003 thì các nhà khoa học Việt Nam cũng đưa ra nhiều ý kiến trong công
tác xây dựng sưu tập nhưng trên thực tế phân loại và xây dựng sưu tập ở các
bảo tàng thì các nhà khoa học đã tạm đưa ra 2 tiêu chí để xây dựng sưu tập
hiện vật như sau:
+ Tiêu chí 1: Các hiện vật cùng sưu tập phải cùng phản ánh hoặc góp
phần nghiên cứu một sự kiện, một vấn đề, một tổ chức xã hội, một nhân vật.
+Tiêu chí 2: Các hiện vật đó có chung một hay nhiều thuộc tính như
loại hình, chất liệu, kĩ thuật chế tác, chức năng sử dụng, địa danh, niên đại…
Ngồi ra, cịn có nhiều ý kiến từ các cán bộ ở nhiều bảo tàng khác nhau về
việc xây dựng sưu tập nhưng tóm lại đi từ lý luận và thực tiễn của hoạt động
bảo tàng trên thế giới và Việt Nam, công tác xây dựng sưu tập hiện vật được
dựa trên những tiêu chí sau:
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo đề tài lịch sử.
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo loại hình hiện vật.
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo công dụng hiện vật.
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo chất liệu hiện vật.
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo địa điểm.
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo thời gian.
 Xây dựng sưu tập hiện vật theo tác giả.
 Xây dựng sưu tập tư nhân (có chủ sở hữu).

 Xây dựng sưu tập hiện vật lưu niệm gắn liền với cuộc đời – sự nghiệp
của danh nhân văn hóa, lịch sử, khoa học và quân sự…
Có thể nói ngắn gọn hơn nữa về việc xây dựng sưu tập hiện vật đó chính là
các hiện vật trong sưu tập phải là hiện vật gốc, có hồ sơ khoa học pháp lý kèm


13

theo và nhất là phải có cùng những dấu hiệu chung (đặc điểm chung) về cả
hình thức bên ngồi lẫn cả nội dung bên trong.
1.1.1.3. Nguyên tắc xây dựng sưu tập hiện vật bảo tàng:
Xây dựng sưu tập hiện vật là một hoạt động khoa học thường xuyên quan
trọng như các công tác nghiệp vụ khác của bảo tàng như: sưu tầm, kiểm kê,
bảo quản, trưng bày,...nhằm mục đích cung cấp thơng tin tập trung tồn diện
sâu sắc, nhanh chóng và chính xác về nội dung từ các hiện vật bảo tàng cho
công chúng và cộng đồng xã hội. Hoạt động xây dựng sưu tập bao gồm 3 nội
dung:
- Một là sưu tầm hoặc tập hợp các hiện vật đơn lẻ thành sưu tập
- Hai là nghiên cứu để bổ sung cho sưu tập ngày càng phong phú về số
lượng và chất lượng.
- Ba là nghiên cứu để bảo quản lâu dài, khai thác, sử dụng phục vụ cho
NCKH và trưng bày – giáo dục.
Mỗi một bảo tàng đều có đặc trưng riêng khác nhau để tiến tới xây dựng
cho mình những sưu tập phù hợp với nội dung chủ đạo của bảo tàng. Các
nguyên tắc cơ bản được đưa ra cho việc xây dựng sưu tập không dành riêng
cho lại hình bảo tàng nào cả mà được áp dụng chung cho khơng chỉ loại hình
bảo tàng KHTN mà cịn cả bảo tàng LSXH, đó là:
- Nguyên tắc 1: Những hiện vật được đưa vào trong sưu tập hiện vật bảo
tàng phải là những hiện vật đã được đăng ký trong sổ kiểm kê bước đầu của
bảo tàng đó, tức là hiện vật bảo tàng đã thuộc quyền sở hữu của bảo tàng. Đây

được coi là nguyên tắc quan trọng nhất bởi vì sưu tập hiện vật được xây dựng
thường chỉ bao gồm những hiện vật bảo tàng của chính bảo tàng đó.


14

Những hiện vật chưa được đăng ký trong sổ KKBĐ nghĩa là chưa đủ
điều kiện trở thành hiện vật bảo tàng do chưa được thẩm định về nội dung và
có đầy đủ nội dung pháp lý nên sẽ không được đưa vào trong sưu tập. Thực
tế hiện nay cho thấy, có nhiều hiện vật đã được đăng ký trong sổ KKBĐ
nhưng nội dung hồ sơ và thông tin ghi chép về hiện vật còn thiếu và rất sơ
sài. Những hiện vật này cần phải được nghiên cứu bổ sung thông tin về nội
dung và gía trị của chúng vào hồ sơ trong quá trình xây dựng sưu tập nếu
muốn đưa hiện vật vào sưu tập, nhằm đảm bảo được giá trị bảo tàng đích
thực khi xây dựng những sưu tập hàm chứa thơng tin chân thực chính xác,
phong phú đầy đủ.
- Nguyên tắc 2: Bảo tàng cần phải nghiên cứu, tìm hiểu để tập hợp đầy
đủ, chính xác các hiện vật bảo tàng hiện đang được lưu giữ bảo quản và trưng
bày để đưa vào sưu tập.
Bảo tàng không chỉ nghiên cứu, lựa chọn những hiện vật bảo tàng đã được
đăng ký trong sổ KKBĐ, mà còn phải nghiên cứu, tìm hiểu những hiện vật
gốc khác chưa được đăng ký trong sổ KKBĐ nhưng đang được lưu giữ trong
kho cơ sở để tiếp tục bổ sung thông tin nội dung giá trị cho chúng, lập hồ sơ
khoa học pháp lý đầy đủ cho chúng để chính thức biến những hiện vật gốc đó
trở thành hiện vật bảo tàng, từ đó đưa vào sưu tập nhằm hoàn chỉnh cả mặt
chất lẫn lượng cho sưu tập.
- Nguyên tắc 3: Với các bước tiến hành xây dựng sưu tập hiện vật thì bảo
tàng phải thực hiện một cách nghiêm túc và phái có được sự thẩm định của tổ
chức khoa học có trách nhiệm cao nhất của bảo tàng về mặt nội dung và pháp
lý, phải được giám đốc bảo tàng ký duyệt. Từ đó, tiến hành cơng tác bảo quản

và quản lý sưu tập với tư cách là bộ phận của di sản văn hóa phục vụ cho các
hoạt động chun mơn nghiệp vụ trong và ngoài bảo tàng.


15

1.1.2. Vai trò của sưu tập hiện vật đối với hoạt động của bảo tàng:
Sưu tập hiện vật bảo tàng là sự tập hợp hợp lý và khoa học của các hiện
vật bảo tàng, mang lại nguồn tri thức mang tính tổng quát, cụ thể và rất đa
dạng, phong phú cho người tìm hiểu, thể hiện đặc trưng của bảo tàng nên việc
xây dựng sưu tập luôn được các bảo tàng lưu tâm thực hiện thường xuyên.
Một sưu tập hiện vật thực sự có giá trị khi đảm bảo được các yếu tố
cơ bản:
+ Hiện vật tham gia vào sưu tập phải là hiện vật gốc, có giá trị bảo tàng.
+ Hiện vật phải phù hợp với nội dung và loại hình bảo tàng.
+ Hiện vật có vai trị quan trọng đối với hoạt động của bảo tàng như:
hoạt động nghiên cứu, hoạt động sưu tầm, hoạt động kiểm kê – bảo quản, hoạt
động trưng bày, hoạt động giáo dục – tuyên truyền.
Xét cụ thể vai trò của sưu tập hiện vật đến các công tác nghiệp vụ của
bảo tàng thì:
 Đối với cơng tác nghiên cứu:
Sưu tập hiện vật bảo tàng sẽ cung cấp thông tin một cách đầy đủ và chi
tiết về tất cả các mặt: lịch sử, văn hóa, khoa học,…mà nó hàm chứa. Các giá
trị trong sưu tập được khai thác triệt để nhằm hiểu rõ một cách tồn diện về
sưu tập và cơng tác nghiên cứu đóng vai trị tìm hiểu làm rõ thêm các thơng
tin vẫn cịn đang ẩn chứa trong sưu tập. Từ đó, có thể giúp bổ sung thơng tin
cịn thiếu cho hiện vật, bổ sung thêm hiện vật cho sưu tập, giúp hồn thiện bộ
sưu tập hiện vật.
 Đối với cơng tác sưu tầm:



16

Cơng tác sưu tầm đóng vai trị đặc biệt đối với bảo tàng, đặc biệt đối
với việc xây dựng sưu tập vì kết quả của sưu tầm là lựa chọn và thu nhận
những hiện vật gốc có giá trị, xây dựng hình thành kho cơ sở.
Hoạt động xây dựng sưu tập gắn bó chặt chẽ với cơng tác sưu tầm ở bảo
tàng. Sưu tập hiện vật được xây dựng đều phải dựa vào kết quả của công tác
sưu tầm để lựa chọn hiện vật đã được đưa về bảo tàng để đưa vào trong sưu
tập. Và mặt khác, khi sưu tập ra đời, bảo tàng sẽ phát hiện ra sự thiếu hụt các
hiện vật cần thiết để từ đó lập ra kế hoạch, bố trí thời gian tìm kiếm bổ sung
vào sưu tập, làm phong phú cho sưu tập, nâng cao hiệu quả cho bảo tàng.
 Đối với công tác kiểm kê – bảo quản:
Kho cơ sở bảo tàng là nơi lưu giữ và bảo quản hiện vật, sưu tập hiện vật
bảo tàng. Trong quá trình xây dựng sưu tập, các cán bộ tiến hành lựa chọn,
nghiên cứu hồ sơ hiện vật trong kho cơ sở ngồi ra cịn ở cả trên hệ thống
trưng bày. Công việc này giúp cho các cán bộ có cái nhìn chính xác và tồn
diện về kho cơ sở của bảo tàng mình. Khơng phải hiện vật nào khi đưa vào
sưu tập cũng có đầy đủ thơng tin, vì vậy trong q trình nghiên cứu lựa chọn
thì các cán bộ sẽ phát hiện ra những hiện vật chưa có đầy đủ thơng tin cần
thiết hay chưa được pháp lý hóa thì sẽ được bổ sung thơng tin dần dần. Trên
cơ sở đó thì việc bổ sung thông tin sẽ làm tăng thêm số lượng hiện vật để đưa
vào trong sưu tập, làm phong phú cho bộ sưu tập.
 Đối với công tác trưng bày:
Sưu tập có vai trị và giá trị đặc biệt vì khi sưu tập được xây dựng sẽ là
tiền đề cho việc xây dựng, chỉnh lý các phần trưng bày hay triển lãm của bảo
tàng. Kho cơ sở được tạo thành bởi các sưu tập giúp cho các cán bộ trưng bày
luôn tìm kiếm được những đề tài mới, hình thành nên những ý tưởng mới và
từ đó có thể đổi mới các đề tài, đưa ra các giải pháp thích hợp cho trưng bày



17

chuyên đề và trưng bày lưu động để phục vụ công chúng, đem lại hiệu quả
cao. Các bộ sưu tập được bảo tàng đưa lên trưng bày phù hợp với chủ đề đưa
ra nhằm tạo ra điểm nhấn, tạo cho người xem có cái nhìn rõ ràng, dễ dàng
hiểu được ý đồ của bảo tàng trong việc trưng bày không chỉ về mặt nội dung
mà cịn cả hình thức, giúp mang đến khách tham quan nguồn tri thức tổng
quát, đa dạng mà phong phú.
 Đối với công tác tuyên truyền – giáo dục:
Sưu tập hiện vật bảo tàng đem đến cho công chúng một nguồn tri thức
tổng quát, hệ thống và rất phong phú. Các sưu tập là cơ sở của công tác giáo
dục tuyên truyền, luôn hướng tới đối tượng của hoạt động giáo dục là công
chúng tham quan. Sưu tập hình thành cung cấp nguồn thơng tin tập trung,
nhanh, chính xác tới cơng chúng, thu hút họ đến để nghiên cứu, học tập, tham
quan giải trí... . Dưới các hình thức tuyên truyền trực tiếp và gián tiếp thì sưu
tập đóng vai trị quan trọng, phát huy tác dụng hướng tới việc phổ biến tri
thức cho công chúng, từ đó góp phần giáo dục cơng chúng hiệu quả thơng qua
chính những sưu tập hiện vật của bảo tàng.
Tóm lại, sưu tập hiện vật đóng vai trị rất quan trọng và cần thiết, có
mối quan hệ chặt chẽ khơng thể tách rời với từng khâu công tác nghiệp vụ
trong bảo tàng nhằm hướng tới mục đích quan trọng là phổ biến tri thức, giáo
dục con người. Việc xây dựng các sưu tập được thực hiện tốt sẽ là cơ sở cho
việc khẳng định vị thế của bảo tàng, đóng góp cho việc phát triển bền vững
của bảo tàng trong xã hội.
1.2. Vài nét về Bảo tàng Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn
hóa kiệt xuất. Người đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế



18

giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với những cống
hiến, công lao vơ cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thì việc xây dựng một bảo tàng về
Người để lưu giữ những di sản mà Người để lạilà mong muốn, nguyện vọng
khơng những của Đảng ta mà cịn của cả toàn thể nhân dân trong nước để
tưởng niệm vị lãnh tụ vơ cùng kính u của mình và bày tỏ lịng biết ơn sâu
sắc đến Người.
Cơng trình Bảo tàng Hồ Chí Minh nằm ở số 19 phố Ngọc Hà, quận Ba
Đình, Hà Nội, nằm trong quần thể khu di tích lịch sử - văn hóa quan trọng bậc
nhất của thủ đô Hà Nội và của cả nước, cùng với Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Nhà sàn Bác Hồ. Cơng trình là nơi thể hiện rõ nét nhất tấm gương, đạo đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của đất nước Việt Nam cũng như tồn nhân
loại.
Bảo tàng Hồ Chí Minh được khởi công xây dựng ngày 31/8/1985,
khánh thành ngày 19/5/1990, đúng kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Thời gian trực tiếp xây dựng cơng trình chỉ diễn ra trong vịng
gần 5 năm nhưng q trình chuẩn bị cho sự ra đời của bảo tàng kéo dài tới
gần 20 năm.
Sau ngày Người mất (tháng 9/1969) thì ngày 21/11/1970, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 206 – NQ/TW thành lập Ban phụ
trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ban phụ trách xây dựng Bảo tàng gồm
các đồng chí Hà Huy Giáp, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban phụ trách
xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh; đồng chí Hồng Tùng, Ủy viên Trung ương
Đảng, phó trưởng ban; đồng chí Vũ Kỳ, ủy viên. Các cán bộ của cơ quan
41(mật danh của cơ quan phục vụ Bác Hồ năm 1941 khi Bác về nước trực
tiếp lãnh đạo cách mạng) đã tình nguyện ở lại làm nhiệm vụ giữ gìn và phát



19

huy di sản Bác Hồ để lại. Một số cán bộ từ các cơ quan khác, các trường đại
học được tuyển chọn thêm. Trên cơ sở đó, tổ chức bộ máy của cơ quan dần
được hình thành.
Có thể nói, tổ chức của cơ quan 41 là tiền thân của Bảo tàng Hồ Chí
Minh, từ cơ quan này phát triển thành Bảo tàng là khoảng thời gian có khơng
ít khó khăn vì cơng việc được triển khai và thực hiện trong điều kiện đất nước
có chiến tranh và kinh tế cịn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo và
quan tâm sâu sát của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, với sự phấn
đấu nỗ lực không ngừng thì Ban phụ trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh
đã tiến hành triển khai một loạt các nhiệm vụ quan trọng như: cho xây dựng
cơ cấu tổ chức, chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho Bảo tàng, tăng cường hợp tác
quốc tế với Bảo tàng Trung ương Lênin (Liên Xô) và Bảo tàng Quốc gia Đimi-tơ-rốp (Bungari), thực hiện các công tác nghiệp vụ của bảo tàng gồm xác
minh tư liệu, sưu tầm hiện vật về Bác; xây dựng đề cương nội dung, tìm kiếm
giải pháp mỹ thuật trưng bày, thiết kế thi cơng cơng trình cho Bảo tàng, bảo
quản và phát huy tác dụng của Khu Di tích Phủ Chủ tịch.
Những công việc mà Ban phụ trách Bảo tàng Hồ Chí Minh lãnh đạo cơ
quan thực hiện trong 7 năm đầu là những tiền đề để xây dựng một Bảo tàng
Hồ Chí Minh trong tương lai khi nguồn nhân lực đã sẵn sàng, cơ sở vật chất
như tài liệu hiện vật, đề cương nội dung trưng bày…đã được hình thành.
Ngày 12/9/1977, đúng ngày kỷ niệm Xơ Viết Nghệ Tĩnh, đồng chí Lê Duẩn
thay mặt Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ký nghị quyết 04
– NQ/TW về việc thành lập Bảo tàng Hồ Chí Minh: “Để tỏ lịng biết ơn và
đời đời ghi nhớ cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để ra sức học tập
tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người, quyết tâm thực hiện Di chúc của
Người, đào tạo con người mới, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, kế
tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người”.



×