Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Mot so van de Dia ly toan cau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.11 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐỊA LÍ TOÀN CẦU Nguyễn Phi Hạnh (chủ biên) - Ông Thị Đan Thanh. I. VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HOÁ 1. Khái niệm về toàn cầu hóa Toàn cầu hóa là hiện tượng kinh tế xã hội, thực tế đang diễn ra và lan tỏa cả chiều rộng và chiều sâu trong thế giới ngày nay, cùng với cách mạng khoa học và công nghệ thế kỉ XX đã làm cho các quan hệ cộng đồng thế giới tiến tới khuôn khổ toàn cầu. Đây là vấn đề phức tạp, mâu thuẫn, gây nhiều tranh luận, quan niệm khác nhau và có những lí giải không giống nhau về cơ sở của toàn cầu hoá cũng như về tính tất yếu của quá trình này. Hiện nay trong học thuật cũng còn dùng khá nhiều khái niệm để cùng chỉ về quá trình toàn cầu hoá. Có quan điểm cho rằng toàn cầu hóa chỉ mới xuất hiện gần đây. Toàn cầu hóa là chính sách của Mĩ nhằm bành trướng quyền lực, thống trị thế giới theo kiểu Mĩ. Thực chất toàn cầu hóa là Mĩ hóa. Quan điểm này không chỉ tồn tại ở các nước đang phát triển mà có ở ngay các nước phát triển như Nhật Bản, Pháp…Với quan niệm toàn cầu hóa là chính sách của Mĩ, là Mĩ hóa nên đã đẩy thái độ trên cả bình diện lí thuyết và trong hoạt động thực tiễn là cần chống lại quá trình này nhằm đảm bảo cho sự phát triển độc lập, đa dạng của các quốc gia, dân tộc. Quan điểm thứ hai là quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa. Có ý kiến cho rằng, toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Đúng là có nhiều cách tiếp cận để đưa ra định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa. Có điểm cần chú ý là quốc tế hóa, toàn cầu hóa không chỉ là quá trình phản ánh sự gia tăng của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà nét quan trong nữa là phản ánh quy mô của các hoạt động liên quốc gia. Do đó có thể đi tới quan niệm sau: “Toàn cầu hóa là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng qui mô, cường độ các hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát triển” Quốc tế hóa, toàn cầu hóa là một quá trình, vì vậy nó khác với các vấn đề toàn cầu. Tham gia vào quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa chính là thực hiện hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa bao gồm nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, xã hội, tự nhiên… Trong các mối quan hệ đó, toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm vừa là cơ sở cũng như động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác nhau của xu thế toàn cầu hóa nói chung và thực tế toàn cầu hóa kinh tế đang là xu thế nổi bật nhất. Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế: “Toàn cầu hóa kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, vươn tới quy mô toàn thế giới đạt trình độ và.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> chất lượng mới”. Toàn cầu hóa kinh tế là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, là cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất và những biến đổi trong phương thức kinh doanh nên có thể khái quát cao hơn. “Toàn cầu hóa kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới nền kinh tế thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu”. 2. Sự phát sinh, phát triển và đặc trưng của toàn cầu hóa Lịch sử nhân loại đã chứng kiến ba lần có “hiện tượng toàn cầu hóa” hay còn gọi là “quốc tế hóa” trước khi bước vào thời đại “toàn cầu hóa mới” được bắt đầu từ những thập kỉ cuối của thế kỉ XX và phát triển mạnh sang đầu thế kỉ XXI. “Lần thứ nhất vào cuối thế kỉ XV, sau khi Crixtốp Côlông tìm ra châu Mĩ. Châu Âu “khai hóa” thế giới và theo đó tư bản được tích lũy lớn, nước Anh trở thành bá chủ thế giới. Lần thứ hai vào giữa thế kỉ XIX, người châu Âu chinh phục châu Á, Nhật Bản nắm cơ hội tiến hành cuộc “Duy tân” hưng thịnh đất nước. Lần thứ ba sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc với sự ra đời của một trật tự thế giới do các nước thắng trận dẫn dắt, các quốc gia thuộc châu Á, Phi, Mĩ La tinh giành độc lập và hòa nhập vào cộng đồng thế giới”. Đặc điểm chung của ba lần “toàn cầu hóa” này là ở chỗ chúng đều là hệ quả của chiến tranh và chính sách thực dân, trình độ của các quốc gia còn thấp, các vấn đề chung có tính chất toàn cầu chưa xuất hiện, các hiện tượng phát triển toàn cầu chưa được thể chế hóa. Khác với ba lần trước, toàn cầu hóa lần thứ tư xuất hiện bởi sự bùng nổ công nghệ thông tin thế giới, nó bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống nhân loại. Chính ba nhân tố công nghệ - kĩ thuật, thông tin và tiền vốn lưu chuyển xuyên quốc gia trở thành động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Với nền kinh tế toàn cầu hóa, việc tổ chức sản xuất và khai thác thị trường trong phạm vi một nước đã nhanh chóng chuyển sang tổ chức sản xuất và khai thác thị trường trên phạm vi toàn thế giới và theo đó sự phát triển kinh tế của bất kì quốc gia nào cũng vượt qua biên giới quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa hiện nay là sản phẩm của văn minh nhân loại và do đó nó là cơ hội cho mọi quốc gia đón nhận, tự nguyện hội nhập và góp sức mình thúc đẩy toàn cầu hóa. Hầu hết các nhà nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng, tiến trình toàn cầu hóa mới ở những bước đầu và có nhiều biến chuyển khác nhau trong những thập niên tới. Toàn cầu hóa là một hiện tượng “mở” đang vận đong65 và sẽ trải qua những chặn đường dài. * Những đặc điểm cơ bản của toàn cầu hóa hiện đại: - Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Hoa kì với vị thế siêu cường mạnh nhất thế giới, tuyên bố công khai tham vọng bá chủ toàn cầu, thực hiện thế giới một cực. Xu thế đa cực phát triển mạnh trong đời sống chính trị thế giới. Một số nước lớn khác đang ráo riết tìm cách giành vị trí siêu cường. Các nước đang phát triển cũng đều ra sức vươn lên..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức, nhiều mức độ khác nhau lan rộng khắp toàn cầu, kéo theo nó sự tăng cường tự do hóa kinh tế và xu hướng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh trong một nền kinh tế thế giới đang hướng tới nên kinh tế tri thức. - Cách mạng khoa học và công nghệ làm bùng nổ nhiều thành quả khó tưởng tượng, đặc biệt là cách mạng tin học, sinh học tạo ra lực đẩy to lớn và phương tiện cực kì nhanh chóng cho toàn cầu hóa. - Các mối quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng vươn đến toàn diện, với nhiều hình thức phong phú, với tốc độ và quy mô vượt xa mọi thời kì trước, mang lại những vận hội lớn lao và những thách thức năng nề đối với mỗi quốc gia. - Toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi một loạt những nhân tố như vai trò của các công ty xuyên quốc gia, của chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế… - Toàn cầu hóa đi đôi với khu vực hóa bao gồm các quan hệ song phương. Vì vậy toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là hai mặt của cùng một hiện tượng. Tham gia toàn cầu hóa và thực hiện hội nhập quốc tế là hai cách nói khác nhau để diễn đạt một xu thế, một tiến trình thống nhất. Toàn cầu hóa, khu vực hóa và quan hệ song phương có thể bổ sung và tăng cường cho nhau, song không phải bao giờ cũng thuận lợi. Có khi toàn cầu hóa và khu vực hóa hoặc toàn cầu hóa và quan hệ song phương trái chiều nhau, trở thành đối trọng và đối thủ của nhau. Đó là trường hợp trước mối lo bị vi phạm hoặc thu hẹp chủ quyền quốc gia, các nước trong cùng khu vực hoặc hai nước vốn có quan hệ hữu nghị liên kết lại để tự bảo vệ trong quá trình toàn cầu hóa phức tạp. - Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình tự do hóa. Không thể hội nhập kinh tế quốc tế mà không có tự do hóa nền kinh tế dân tộc. Đây là điểm mới của toàn cầu hóa ngày nay. Hội nhập quốc tế có nhiều mức độ và nó gắn liền với mức độ tự do hóa. Hội nhập quốc tế càng sâu thì tự do hóa càng rộng. Không thể có một quốc gia nào có thể hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu mà lại có thể không tự do hóa. Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và tự do hóa chính là sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế. Mỗi nền kinh tế dân tộc là bộ phận của toàn cầu, gắn bó, phụ thuộc vào nhau. Chỉ có hội nhập mới là con đường hiệu quả để phát huy thế mạnh, lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế và để bổ sung cho điểm yếu của nền kinh tế dân tộc. Vấn đề là cần xác định mức độ, tiến trình hội nhập và tự do hóa như thế nào cho phù hợp với trình độ nền kinh tế. Đây là điều cần tính toán, cân nhắc đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. 3. Toàn cầu hóa – cơ hội và thách thức đối với mỗi quốc gia Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu. Cơ hội do toàn cầu hóa mang lại là vô cùng to lớn. Song những tiêu cực của nó cũng không thể xem thường, những thách thức không phải là nhỏ. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, không một quốc gia nào kể cả các quốc gia phát.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> triển nhất cũng không nằm ngoài quỹ đạo vận động chung, sân chơi chung. Mọi vấn đề toàn cầu nảy sinh như: chủ nghĩa khủng bố, đại dịch AIDS, hiện tượng El Nino, ô nhiễm môi trường, phá rừng…đều trở thành mối quan tâm của toàn nhân loại. Quyền lợi và trách nhiệm đều được chia sẻ. Tất nhiên các nước phát triển do vị thế và tiềm lực của mình, có điều kiện để hưởng thụ. Các nước nhỏ không vì thế mà tự ti, quay lưng lại với toàn cầu hóa. Cả các nước giàu như Hoa Kì, Nhật Bản, Tây Âu đều đang phải cải tổ một cách sâu sắc nền kinh tế của mình để thích ứng với các yêu cầu phát triển mới của toàn cầu hóa. Các nước đang phát triển và chuyển đổi cần tận dụng cơ hội để đi tắt, đón đầu tiến tới những bước phát triển cao hơn trên cơ sở thừa hưởng và vận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để được khai thông và kết nối với các nguồn lực bên trong. *Cơ hội toàn cầu hóa  Toàn cầu hóa cho phép các nước có cơ hội và điều kiện để tiếp nhận các dòng vốn, công nghệ, mở rộng thị trường, tiếp nhận kĩ năng và kinh nghiệm quả lí từ các nền kinh tế phát triển cao nhất.  Toàn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, tổ chức và quản lí, về sản xuất và kinh doanh, đưa kinh nghiệm và kiến thức đến với các dân tộc, ở nhiều nước, đến từng gia đình, đến từng người dân góp phần cho công nghiệp hóa hiện đại hóa.  Tạo khả năng phát triển, rút ngắn và mang lại nguồn lực quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển từ nguồn vật chất đến tri thức và kinh nghiệm về chiến lược dài hạn, về tổ chức tiến hành ở cấp vĩ mô quốc gia đến cấp vi mô của từng doanh nghiệp.  Toàn cầu hóa thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc, làm cho con người ở mọi châu lục ngày càng hiểu biết nhau hơn.  Nhờ toàn cầu hóa phát triển, các nguồn nhân lực có điều kiện di chuyển, trao đổi cho nhau, giúp nhau tạo lợi thế so sánh.  Toàn cầu hóa mở ra khả năng phối hợp nguồn lực giữa các quốc gia, dân tộc để giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu như vấn đề môi trường, dân số, chiến tranh và hòa bình. *Thách thức  Toàn cầu hóa đã phân phối không cân bằng các cơ hội và lợi ích giữa các khu vực, quốc gia, trong mỗi quốc gia, từng nhóm dân cư. Vì vậy toàn cầu hóa đã làm gia tăng thêm tình trạng bất công, phân hóa giàu nghèo.  Với việc hội nhập, kĩ thuật công nghệ hiện đại được thu nhập tạo ra khả năng nâng cao năng suất lao động, đồng thời các dòng hàng hóa – dịch vụ của các nước phát triển có lợi thế cũng sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia kém phát triển. Từ đó nảy sinh cạnh tranh gay gắt, nảy sinh phá sản, thất nghiệp làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội.  Toàn cầu hóa đem đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại kèm theo hậu quả khốc hại về môi trường xã hội (mất đi bản sắc dân tộc, đối với lớp trẻ ở nhiều nước đang phát triển sính ngoại, vọng ngoại, Âu hóa, Mĩ hóa trên chính quê hương.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> mình).  Làm phổ biến lan tràn nhanh các dịch bệnh (HIV/AIDS), phổ biến các loại hình văn hóa ngoại lai, lối sống trái với thuần phong mĩ tục vốn có của họ.  Các lực lượng, tổ chức phản động đến bọn mafia, bọn khủng bố, những tổ chức tội phạm, các giáo phái thần bí có thể liên kết với nhau xâm nhập vào các quốc gia. Do vậy các nhà nước nâng cao cảnh giác, phòng ngừa, đối phó với thế lực phản động này.  Toàn cầu hóa đặc biệt đặt các nước đang phát triển trước những thách thức mà vượt qua thắng lợi thì cái được là rất lớn, còn ứng phó thất bại thì cái mất cũng rất lớn… Vì vậy các quốc gia cần có chiến lược thông minh, điều chỉnh kịp thời để có thể tận dụng tốt nhất các cơ hội và vượt qua thách thức. II. KHU VỰC HÓA – BƯỚC ĐẦU CỦA TOÀN CẦU HÓA Trong quan hệ với toàn cầu hóa thì xu thế khu vực hóa được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hóa. Khu vực hóa có nhiều mức độ khác nhau, từ một vài nước và lãnh thổ đến nhiều nước tham gia vào một tổ chức khu vực địa lí. Các tổ chức khu vực này nhằm hỗ trợ nhau phát triển, tận dụng những ưu thế của khu vực trong quá trình từng bước tham gia nên kinh tế toàn cầu. Hiện nay có các tổ chức khu vực đáng chú ý như: Liên minh châu Âu (EU); Khu vực thương mại tự do châu Âu (EFTA); Khu vực thương mại tự do toàn châu Mĩ (FTAA); Khu vực thương mại tự do Bắc Mĩ (NAFTA); Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); Khu vực thương mại tự do Mĩ La tinh (MERCOSUR); Liên minh châu Phi (AU); Tổ chức hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) sẽ tiến tới khu vực có mậu dịch tự do ASEAN và Trung Quốc, Đông Bắc Á…Các tổ chức khu vực có mức độ gắn kết của các thành viên trong mỗi khu vực là không giống nhau. Đa số các tổ chức khu vực được hình thành nhằm tiến tới tự do hóa mậu dịch. Tại các nước Liên Xô cũ sẽ hình thành khu vực mậu dịch tự do giữa năm quốc gia lớn: Nga, Bêlarut, Ucraina, Cadắcxtan, Udơbêkixtan và liên minh Nga, Bêlarut đã hình thành cũng sẽ tiến tới sử dụng một đồng tiền chung vào năm 2005. 1. Một số tổ chức liên kết khu vực + Hiệp định thương mại tự do Bắc Mĩ (NAFTA) thành lập năm 1994 bao gồm Hoa Kì, Canađa và Mêhicô, mục đích nhằm tạo ra khu vực tự do thương mại, tạo điều kiện phát triển cho các nước tham gia và tăng cường sự cạnh tranh. Đây là thị trường lớn trên thế giới, dân số 410 triệu người, tổng GDP: 11.710 tỉ USD (2002) + Liên minh châu Âu (EU) thành lập năm 1993 bao gồm 15 nước thành viên, 25 quốc gia vào tháng 5/2004. Không gian kinh tế này bao gồm 545 triệu dân với tổng GDP: > 7000 tỉ USD (2001). Từ 1/1/1999, đồng tiền chung châu Âu ra đời.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> (EURO), ngày 1/1/2002 EURO được sử dụng trong 12 quốc gia, đưa sự liên kết lên mức cao hơn và toàn diện: Liên minh kinh tế - tiền tệ. Người dân được tự do di chuyển vốn, lao động trong các nước thành viên. + Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) thành lập năm 1967 ban đầu chỉ có 5 nước. Đến 1999 tổng số lên 10 thành viên. ASEAN có diện tích 4,7 triệu km 2, dân số 555 triệu người (2003), tổng GDP: 544 tỉ USD. Các nước ASEAN hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực, trong đó hợp tác kinh tế là chủ yếu. Mục tiêu của các nước ASEAN trong thế kỉ XXI được xác định ở Hội nghị cấp cao lần thứ 8 tại PhômPênh (tháng 11/2002) là: Hướng tới một cộng đồng các nước Đông Nam Á phát triển. Hiện nay ASEAN tích cực hợp tác với EU, các nước lớn trên thế giới như: Hoa Kì, Canađa, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc…, Nam Á và nhiều nước khác. Hình thành khu vực mậu dịch tự do AFTA đối với 6 thành viên cũ từ 1/1/2002. Việt Nam muộn hơn sẽ gia nhập vào năm 2006. + Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC) thành lập năm 1989. Năm 1998 kết nạp thêm Việt Nam, Pêru và Nga. Đến nay có 21 thành viên (hiện không mở rộng thêm nữa để củng cố hoạt động của diễn đàn). APEC là khu vực kinh tế lớn nhất (chưa phải là khối kinh tế), với dân số 2,5 tỉ người, chiếm 52% GDP toàn cầu. tuy nhiên trình độ phát triển kinh tế của các nước rất khác nhau. Mục tiêu chủ yếu là phối hợp hoạt động của các nước để tăng cường phát triển kinh tế, thúc đẩy thương mại đa phương. Hình thành khu vực mậu dịch tự do với các nước phát triển kinh tế vào năm 2010, các nước đang phát triển là 2020. Ngoài các tổ chức kinh tế khu vực còn có các tổ chức liên kết tiểu khu vực, các dự án phát triển tiểu vùng. Các khối kinh tế khu vực hình thành đã thúc đẩy tự do hóa thương mại, đầu tư, dịch vụ trong phạm vi khu vực cũng như giữa các khu vực với nhau, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đồng thời thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường các quốc gia, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Tuy vậy, xu hướng khu vực hóa cũng đặt ra không ít vấn đề đòi hỏi các quốc gia phải quan tâm giải quyết như tự chủ về kinh tế, quyền lực quốc gia, dễ mất bản sắc văn hóa dân tộc.. Lược đồ các khu vực kinh tế 1. NAFTA: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mĩ.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 2. EU: Liên minh châu Âu 3. ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á 4. MERCOSUR: Khu thị trường chung Nam Mĩ 5. AU: Liên minh châu Phi 6. NGA – BELARUT: Liên minh Nga - Bêlarut 7. SAARC: Tổ chức hợp tác khu vực Nam Á 8. APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương 2.Vấn đề tôn giáo, dân tộc, xung đột và bảo vệ hòa bình Những năm cuối thế kỉ XX đã trôi qua với những biến đổi dồn dập và nhanh chóng trong đời sống quốc tế. Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu giữa hai cực không còn, nhưng không có nghĩa là hòa bình đã ngự trị trên Trái Đất này. Những mâu thuẫn vẫn còn đan xen lúc này hay lúc khác, nơi này hay nơi khác, nhiều vấn đề xã hội nổi cộm diễn ra suốt thập kỉ 90 và đến đầu thế kỉ XXI khiến loài người phải qua tâm, lo lắng. điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và nền kinh tế của các nước trên thế giới. 2.1. Mâu thuẫn tôn giáo, xung đột sắc tộc, li khai Những vụ đụng độ về sắc tộc giữa các bộ lạc, tộc người lien tiếp xảy ra dẫn đến những vụ trả thù đẫm máu, làm cho hang chục nghìn người trở thành nạn nhân phải đi lánh nạn, nhiều người dân vô tội bị giết. Cộng đồng quốc tế đã có nhiều cố gắng để chấn chỉnh các cuộc xung đột, nội chiến đặc biệt ở châu Phi, thí dụ cuộc chống đối lẫn nhau giữa người Hutu và người Tutxi (Ruanđa), cuộc chiến ở Uganđa, Dimbabuê, Angôla, CH Côngô…Những biến động chính trị tại Xênêgan và Côtđivoa (Tây Phi) những cuộc nổi loạn đã xảy ra chuyển thành cuộc đảo chính…Mặc dù đã có những hiệp định hòa bình được kí kết, song tất cả đều không có hiệu lực. vấn đề người Cuôcxơ (Irắc)…Có thể nói những cuộc nội chiến, mâu thuẫn sắc tộc, đòi li khai diễn ra khắp nơi trên các châu lục: + Châu Âu: Cuộc xung đột ở Bắc Ailen, Tây Ban Nha, Kôxôvô đòi tách khỏi liên bang Nam Tư, Chécnhia một nước cộng hòa thuộc Liên bang Nga với số dân 1 triệu người chủ yếu là người theo đạo Hồi đòi tách thành một quốc gia độc lập. + Châu Mĩ: Nội chiến ở Pêru, Chiaapát đòi li khai, khủng bố ở Achentina… + Châu Á: Nội chiến ở Apganitxtan, cuộc chiến giữa quân Những con hổ giải phóng Tamin và quân chính phủ (Xri Lanca) trong nhiều năm nay, việc thống nhất trên bán đảo Triều Tiên lúc ấm lúc lạnh (qua việc nối lại cuộc họp Liên Triều và viếng thăm người thân giữa hai vùng lãnh thổ này). Căng thẳng kéo dài giữa Ixaren và Palétxtin, giữa Ấn Độ và Pakitxtan (tranh chấp vùng Kasơmia và vụ khủng bố tòa nhà quốc hội Ấn Độ tháng 1/2002, giữa hai tôn giáo Ấn Độ giáo và Hồi giáo ở hai nước này). + Đông Nam Á: Tình hình phức tạp và căng thẳng hơn. Đông Timo đòi li khai.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> (tháng 9 năm 1999 và đã trở thành quốc gia độc lập – trẻ nhất thế giới năm 2002). Tỉnh Axê nằm ở phía bắc đảo Xumatơra (Inđônêxia), miền tây Irian (Inđônêxia) đòi li khai. Đảo Minđanao nằm ở phía nam Philíppin dân số chủ yếu theo đạo Hồi, phong trào đòi li khai diễn ra mạnh qua các cuộc xung đột với quân chính phủ, bắt cóc con tin kể cả khách du lịch nước ngoài khiến nhiều người lo lắng. 2.2. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế Một trong những tội ác nguy hiểm và phổ biến là chủ nghĩa khủng bố quốc tế nhằm phá hoại sự ổn định kinh tế xã hội, đe dọa dân chúng, bắt giữ con tin, gây chiến, chiếm lĩnh các trung tâm vô tuyến phát thanh, thay đổi chế độ chính trị, lật đổ giới lãnh đạo ở nước này hay nước khác, gán ép những quan điểm bè phái dân tộc chủ nghĩa cơ bản và những quan điểm khác…Gần đây những phần tử khủng bố còn lợi dụng thành quả khoa học kĩ thuật để thực hiện hành động khủng bố kĩ thuật cao như tấn công bằng vũ khí sinh hóa học, chất nổ. Những vụ khủng bố đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, điển hình là vụ 11/9/2001 tại trung tâm thương mại Niu I-ooc Mĩ, đánh Đại sứ quán Mĩ ở một số nước, vụ bắt cóc 700 con tin tại nhà hát Matxcơva (Nga, năm 2002), nổ bom đảo Bali năm 2002 (Inđônêxia), bắt cóc con tin người nước ngoài tại đảo Minđanao (2001), phá hủy khách sạn Mariốt (Giacácta – Inđônêxia) năm 2003. Bước sang thế kỉ XXI, chủ nghĩa khủng bố lại tăng them. Việc chống khủng bố cần phải có sự hợp tác tích cực của các quốc gia để tiêu diệt tận gốc rễ. Nó không chỉ là công việc của riêng chính phủ mà còn là nhiệm vụ của mỗi cá nhân vì chủ nghĩa khủng bố vẫn là mối đe dọa tới an ninh thế giới và là cuộc chiến đầy cam go, một thách thức đối với toàn thể cộng đồng quốc tế. 2.3. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia cùng với sự chi phối của toàn cầu hóa kinh tế và sự hình thành thị trường thế giới thống nhất như một chỉnh thể dưới tác động của cách mạng công nghệ mới. Kinh tế trở thành trọng tâm trong chiến lược phát triển của hầu hết các quốc gia. Các nước nằm trong thế tương thuộc lẫn nhau, sự phát triển của nền kinh tế nước này là điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế nước khác, bất kể đó là nền kinh tế lớn nhỏ như thế nào. Theo đó, sự bất ổn ở một nước nào đó về chính trị, kinh tế, an ninh, môi trường, mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, khủng bố… sẽ hiển nhiên là mối lo chung của toàn nhân loại và các nước lớn, nhỏ tất yếu sẽ buộc phải tham gia vào cuộc, chia sẻ trách nhiệm trong khi xử lí các vấn đề quốc tế. Nạn cháy rừng ở Inđônêxia vào năm 1997 được coi chủ đề chính của Hội nghị về môi trường ở Tôkyô. Vấn đề thanh sát vũ khí ở Irắc là công việc chung của cộng đồng quốc tế mà Liên Hợp Quốc là đại diện. Giải quyết vấn đề Kôxôvô không chỉ là công việc chung của Nam Tư và NATO mà còn là công việc của Nga, Trung Quốc và nhiều quốc gia. Với thỏa thuận hòa bình Oai – Rivơ II các nhà lãnh đạo Palétxtin và Ixaren cam kết cùng nhau chịu trách nhiệm về hòa bình ở Trung Đông. Việc Hoa Kì rút khỏi nghị định thư Kyôtô để giảm bớt khí thải đang bị lên án trên phạm vi toàn cầu. Cuộc chiến chống khủng bố được sự nhất trí cao của nhiều quốc gia, mặc dù chỉ.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> có một ít nước tán thành phương án phát động chiến tranh…Cho nên các nước sẽ phải liên kết chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết để chống lại rủi roc hung của cả thế giới. Sự đổ vỡ của một mắt xích nào trong hệ thống này sẽ dẫn đến sự đổ vỡ của cả hệ thống. Do sự hợp tác để phát triển trên nhiều cấp độ: vi mô và vĩ mô, quốc gia và quốc tế, khu vực và lien khu vực…tất sẽ phải là phổ biến. Với ý nghĩa các nước luôn phụ thuộc vào nhau nên có thể nói rằng, một thế giới hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển sẽ phải là dòng chảy chủ yếu của thế giới trong thế kỉ XXI. 2.4. Cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình và ổn định là điều kiện cho sự phát triển của mỗi quốc gia Thời kì hậu chiến tranh lạnh, thế giới đang đứng trước những biến động to lớn bởi những kẻ đầy tham vọng và đơn cực của chính phủ Mĩ muốn vượt trội hẳn lên, áp đặt cho các nước khác những tiêu chí riêng, thường vẫn nảy sinh từ những tính toán vụ lợi và ích kỉ của mình. Những cuộc chiến tranh mới đã bùng nổ ở một số nơi như: chiến tranh vùng Vịnh lần I, cuộc chiến tranh của NATO đánh vào Liên bang Nam Tư vì Kôxôvô 1999 (Kôxôvô là một tỉnh của Liên bang Nam Tư, có 80% dân số là người Anbani được phương Tây xúi giục đòi tách riêng thành một quốc gia). NATO tấn công Liên bang Nam Tư, buộc Nam Tư khuất phục. Mĩ tấn công Apganitxtan để truy tìm BinLađen sau sự kiện 11/9/2001. Và cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ II (3/2003) của lien quân Anh - Mĩ đánh vào Irắc để lật đổ chính quyền hợp pháp của một đất nước có chủ quyền. Tiếp sau biết đâu sẽ là Iran, Triều Tiên, Xômali, Yêmen…với nhiều lí do khác nhau. Trong hai thập kỉ tới thế giới vẫn đứng trước nguy cơ gây mất ổn định, những lực cản đối với dòng chảy chung và trong điều kiện hiện nay, những nhân tố này đều bị biến tướng thành các vấn đề hết sức phức tạp: - Lợi ích giữa ba trung tâm phát triển nhất của thế giới: Hoa Kì – Nhật Bản – Tây Âu sẽ có sự cạnh tranh, sự cạnh tranh này có thể song phương có thể thành đa phương. Sự cạnh tranh kinh tế vẫn hàm chứa trong đó các nguy cơ về cạnh tranh chính trị, quân sự…Tuy rằng điều kiện và cơ hội cho sự nổ ra các cuộc chiến tranh giữa các cường quốc đã trở lên ít có khả năng, khi mà các nguy cơ hạt nhân đã bị nhân loại thường xuyên lên án một cách quyết liệt và bản than các nước cũng hiểu rõ hơn ai hết về hậu quả ghê gớm của nó và trước hết là cho chính họ. - Chủ nghĩa khủng bố quốc tế vốn đã hoành hành từ các thập kỉ trước tiếp tục là hiện tượng đáng lo ngại cho nhân loại trong vài thập kỉ tới. - Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trở lên trầm trọng. Các nước nghèo vì thiếu vốn, công nghệ, kĩ năng quản lí…do đó khoảng cách về trình độ phát triển ngày càng xa so với các nước giàu. Do lệ thuộc vào cơ cấu xuất khẩu, ngoại tệ, vốn chi phối của các công ti xuyên quốc gia nên dễ bị tổn thương và nguy cơ rủi ro lớn lại rơi vào chính nước nghèo. Sự phá sản các doanh nghiệp, thu hẹp mức sống, thất nghiệp…đều là những nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội trong các nước này. Cho nên vấn đề giữ gìn hòa bình là vấn đề toàn nhân loại phải quan tâm. Trong thập niên đầu của thế kỉ XXI thế giới sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề nan.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> giải – được xem là những thách thức, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới cùng nổ lực hợp tác vì sự phát triển hòa bình và thịnh vượng. Các nhà lãnh đạo các nước ở cấp vĩ mô cần có những biện pháp cứng rắn và mềm dẻo trong việc giải quyết các vấn đề của nước mình cũng như quốc tế, tránh những điều đáng tiếc xảy ra khiến cộng đồng thế giới phải quan tâm lo lắng để nhân loại được sống trong hòa bình ổn định, là điều kiện cho sự phát triển của mỗi quốc gia. 3. Vấn đề dân số, tài nguyên và môi trường Ngày nay, , dân số, tài nguyên và môi trường là những vấn đề nóng bỏng của nhân loại đòi hỏi phải giải quyết. Nếu không giải quyết tốt các vấn đề này, nhân loại sẽ rơi vào con đường suy vong. Dân số, tài nguyên và môi trường là ba vấn đề có mối quan hệ gắn bó với nhau, trong đó, dân số trở thành vấn đề chủ yếu, nguồn gốc gây ra sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên và sự suy thoái môi trường. 3.1. Khái quát về sự phát triển dân số thế giới Theo tài liệu khảo cổ học, con người xuất hiện trên Trái Đất cách đây khoảng 2,5 – 3 triệu năm trên lục địa châu Phi, sau đó mới dần dần phát triển ra khắp thế giới. Dân số tế giới chỉ có số liệu thống kê từ năm 1650, còn số liệu trước đó chỉ được tính toán theo cách suy đoán dựa vào mật độ dân số của các bộ lạc nguyên thủy còn tồn tại ở một số khu vực trên Trái Đất cho đến ngày nay. Theo ước tính, dân số thế giới vào đầu giai đoạn Nông nghiệp kho ảng 9000 – 8000 năm trước Công nguyên, có khoảng 5 triệu người. Đến năm 1650, dân số thế giới đạt 500 triệu người. Từ đây, trở đi, do đời sống vật chất được cải thiện, điều kiện y tế, khoa học, giáo dục được nâng cao nên dân s ố th ế gi ới ngày càng phát triển nhanh. Quá trình phát triển dân số thể hiện qua bảng dưới đây: Năm Dân số (triệu người) Thời gian để tăng số dân lên 1 tỉ (năm) 9000 – 8000 Khoảng 5 triệu người năm trước CN 1650 500 1850 1000 Khoảng trên dưới 10.000 1930 2000 80 1960 3000 30 1975 4000 15 1987 5000 12 12/10/1999 6000 Gần 12 2008 (Dự kiến) 8000 9 Bảng I.1. Thời gian để dân số thế giới tăng 1 tỉ Nguồn: Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số. Dự án VIE/94/P01.HN.1995. Như vậy, trong thời kì xa xưa, dân số thế giới rất ít và tốc độ phát triển rất chậm. Từ khi con người xuất hiện cho đến khi đạt được 1 tỉ người đầu tiên, lào người đã mất khoảng trên dưới một vạn năm. Kể từ 1650 trở đi, khi số lượng dân số đã khá cao, điều kiện sống của con người được cải thiện tốt hơn thì tốc độ phát triển dân.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> số ngày càng nhanh, thời gian để tăng lên 1 tỉ người ngày càng rút ngắn lại. Vào nửa cuối thế kỉ XX, dân số tăng lên rất nhanh trong một thời gian ngắn được gọi là sự bùng nổ dân số (population exposion). Điều đáng chú ý là, sự bùng nổ dân số lại xảy ra ở các nước đang phát triển, trở thành một sự kiện mang tính chất toàn cầu, bởi vì dân số ở các nước này chiếm tới 2/3 dân số toàn thế giới. 3.2. Ảnh hưởng của bùng nổ dân số đến tài nguyên và môi trường Con người muốn tồn tại phải khai thác các nguồn tài nguyên và sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Trong quá trình đó, do việc khai thác và sử dụng không hợp lí, con người đã làm cạn kiệt, suy thoái các nguồn tài nguyên và môi trường. Hiện tượng đó được gọi là “sức ép của dân số lên tài nguyên và môi trường” và thể hiện qua tình hình sử dụng một số nguồn tài nguyên và môi trường dưới đây: a. Nguồn tài nguyên đất Đất là lớp vật chất vụn bở trên bề mặt các châu lục, nơi tồn tại và phát triển của hầu hết các loài thực vật và một số động vật đất. Đất là đối tượng và tư liệu của sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp không gì thay thế được. Nhờ có đất, con người mới có khả năng sản xuất một khối lượng lương thực, thực phẩm lớn để nuôi sống xã hội loài người. Đất còn là cơ sở cho sản xuất thủ công nghiệp, công nghiệp và là nơi cư trú của con người. Vốn đất trên thế giới có khoảng 14.777 triệu ha, trong đó đất sử dụng cho nông nghiệp chiếm khoảng 35%. Trong số này, đất trồng trọt chiếm khoảng 11% và đất đồng cỏ chăn thả khoảng 24%. Trong quá trình khai thác, do việc sử dụng không hợp lí hoặc không chú ý bảo vệ, nhiều vùng đất bị suy thoái, bị phá hủy làm diện tích đất trồng bị thu hẹp. Nguồn tài nguyên đất bị thu hẹp là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây: - Sự xói mòn của đất do nước chảy, do gió, do chăm bón không đầy đủ và do chăn thả gia súc quá mức. - Do xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thong, bến cảng, phát triển đô thị, các thôn làng, xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp…). - Ví dụ ở các nước Tây Âu, trong thập kỉ 70 của thế kỉ XX, các nước mất từ 1 – 3% đất trồng để phát triển đô thị. Ở Hoa Kì, trước đây hang năm mất khoảng 1 triệu ha đất tốt để mơ rộng các đường cao tốc. Ở nước ta, dân số tăng, diện tích đất bình quân theo đầu người ngày càng giảm rõ rệt: + Năm 1940 bình quân diện tích đất/đầu người: 0.2 ha; + Năm 1960 bình quân diện tích đất/đầu người: 0.16 ha; + Năm 1985 bình quân diện tích đất/đầu người: 0.12 ha; - Do sự tưới tiêu không hợp lí làm cho đất bị chua hóa, phèn hóa hoặc mặn hóa. Sự suy thoái nguồn tài nguyên đất nói chung là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng đối với con người, bởi vì nó sẽ dẫn tới sự thiếu hụt lương thực, thực phẩm, nguồn cơ bản để nuôi sống con người..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> b. Nguồn tài nguyên rừng Rừng là một hệ sinh thái rất quan trọng của sinh quyển, nơi tập trung chủ yếu các loài thực vật than gỗ và một số lượng lớn các loài động vật. Rừng có vai trò rất to lớn đối với tự nhiên và con người: - Rừng làm giảm dòng chảy trên mặt, chuyển nước mưa thành nước ngầm, góp phần điều hòa chế độ song ngòi. - Rừng cung cấp chất hữu cơ cho đất, làm tăng độ phì và chống xói mòn đất. - Rừng có tác dụng điều hòa khí hậu và được xem là “lá phổi hành tinh”. Rừng có tác dụng điều hòa tỉ lệ CO2/O2 trong khí quyển, làm giảm nhiệt độ và cường độ bốc hơi mặt đất, tăng độ ẩm cho không khí nhờ sự toát hơi nước của cây và lọc bụi cho không khí trong lành. - Rừng có tác dụng bảo vệ đa dạng sinh học, vì đây là nơi có nguồn thức ăn phong phú, nơi quần tụ nhiều loài thực vật và động vật. - Rừnglà nơi cung cấp cho con người nhiên liệu, nguyên liệu trong công nghiệp và xây dựng, dược liệu, thực phẩm. Do vậy rừng trở thành đối tượng của ngành kinh tế lâm nghiệp. Diện tích rừng nguyên thủy trên thế giới ước tính khoảng 60 triệu km 2 và được khai thác khá sớm. Trước Công nguyên rừng đã được khai thác khá mạnh tại các trung tâm Văn minh cổ đại. Đến thời tư bản chủ nghĩa, tại nhiều khu vực trên thế giới rừng đã bị khai thác ồ ạt và gần đây, tốc độ khai thác rừng ngày càng tăng và sự suy giảm rừng diễn ra rất nhanh chóng. Theo FAO, đến năm 1963, diện tích rừng trên thế giới còn khoảng 42,3 triệu km 2, bằng khoảng 32,2% diện tích các lục địa. Theo Đêvêdơ, đến năm 1973 các tiêu chí trên chỉ còn: 38,37 triệu km2 và 29,1%; đến năm 1990, theo FAO còn 34,42 triệu km2 và 27%. Hiện nay, hang năm thế giới mất khoảng 11 triệu ha rừng nhiệt đới. Sự suy giảm rừng nhiệt đới nhanh là một tổn thất lớn đối với loài người. Ở nước ta, trong mấy chục năm trở lại đây diện tích rừng đã bị suy giảm khá lớn. Năm 1943 độ che phủ rừng còn 43% diện tích cả nước. Đến năm 1976 độ che phủ nói trên còn 33,8% và đến năm 1990 còn lại 27,8%. Với tình trạng rừng bị suy giảm nhanh như vậy, nước ta đã có nhiều biện pháp bảo vệ và phát triển rừng nên diện tích rừng đã dần dần tăng lên. Năm 1999 độ che phủ rừng của nước ta đã đạt 33%, đồng thời diện tích đất trống đồi trọc giảm xuống đáng kể. c. Nguồn tài nguyên nước Nước là một thành phần tự nhiên rất quan trọng, có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi sinh vật. Ở đâu có nước thì ở đó có sinh vật và con người sinh sống. Nước chiếm gần 2/3 trọng lượng cơ thể con người, còn đối với một số loài thực vật và động vật thì nước có thể tới hơn 80 – 90%. Nếu cơ thể mất nước từ 10 – 20% thì con người sẽ không tồn tại Nước rất cần cho mọi ngành sản xuất. Ngày nay, trong sản xuất nước được xem là nguồn nguyên liệu không có gì thay thế được. Nguồn tài nguyên nước trên Trái Đất rất phong phú và được phân biệt thành các nguồn sau đây:.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Nước các biển và đại dương chiếm 97,61% khối lượng thủy quyển. - Nước các băng hà chiếm 2,08%. - Ba nguồn còn lại: nước ngầm, hơi nước trong khí quyển và nước các song hồ rất ít, chỉ chiếm 0,31%. Như vậy, nước trên Trái Đất rất nhiều, nhưng đa số là nước mặn và nước ở thể băng. Các nguồn nước con người có thể sử dụng trực tiếp được là không đáng kể, lại phân bố không đều cả trong không gian và thời gian. Ngày nay, do dân số tăng nhanh, công nghiệp hóa và đô thị hóa phát triển mạnh nên nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng. Mặt khác, do tác động của con người, nước trên mặt bị ô nhiễm, nước ngầm bị suy giảm do diện tích rừng bị thu hẹp, vào mùa khô các sông hồ bị cạn kiệt, đến mùa mưa dễ gây lũ lụt lớn. Do vậy, hiện nay nhân loại đang đứng trước ngưỡng cửa của sự khủng hoảng về nước. Nhiều quốc gia, nhiều khu vực hiện nay đã bị thiếu nước, nhất là nước sạch. Đối với nước ta, do nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa hang năm lớn nên mạng lưới sông ngòi phát triển, nhờ vậy, nguồn nước mặt và nước ngầm rất phong phú. Riêng khối lượng nước sông của ta hang năm có khoảng 839 km3, tức là bằng 839 tỉ m 3 nước/năm. Với tình hình sử dụng nước như hiện nay, nguồn nước của nước ta vẫn đủ cho các ngành kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác và sử dụng cần có biện pháp bảo vệ để nguồn nước được sử dụng lâu bền. d. Sự ô nhiễm môi trường “Ô nhiễm môi trường cho đến nay vẫn là vấn đề gây cấn nhất của thiên niên kỉ mới”. đó là lời tuyên bố của Tổng thư kí LHQ Côphi Anan nhân kỉ niệm ngày môi trường thế giới 5/6/2000. Sự ô nhiễm môi trường là sự xuất hiện trong môi trường các chất lạ làm thay đổi thành phần cấu tạo hoặc tăng nồng độ các chất đã có, dẫn đến sự thay đổi các nhân tố sinh thái, vượt quá giới hạn thích ứng của cơ thể, quần thể cũng như quần xã. Sự ô nhiễm môi trường phát triển ở ba môi trường, đó là các môi trường đất, nước và không khí. Sự ô nhiễm môi trường gây ra những biến đổi lớn trong tự nhiên, ảnh hưởng xấu đến sản xuất, điều kiện sống và sức khỏe con người và mọi sinh vật. Có thể xem xét hiện trạng và tác hại của sự ô nhiễm môi trường qua môi trường nước và môi trường không khí sẽ được trình bày dưới đây. - Sự ô nhiễm môi trường nước. Nước bị ô nhiễm là nước có một số chất ngoại lai xâm nhập vào nước tự nhiên dù chất đó có hại hay không có hại, nhưng khi chúng vượt qua một giới hạn nào đó sẽ trở nên độc hại với con người và sinh vật. Ví dụ: muối rất cần cho cơ thể, nhưng nước mặn lại không uống được vì nồng độ muối đã vượt quá giới hạn cho phép. Có hai nguồn gây ô nhiễm môi trường nước, đó là nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo. Nguồn gây ô nhiễm tự nhiên chủ yếu là nước mưa. Nước mưa rơi xuống đất, hòa tan và lôi cuốn mọi chất bẩn (bùn cát, phân rác, các hợp chất hóa học, vi khuẩn…) xuống các bồn nước. Nguồn nhân tạo gồm các chất thải sinh hoạt, công.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> nghiệp và sản xuất nông nghiệp… Đối với nước ô nhiễm thì độ pH, lượng chất rắn lơ lửng, lượng oxi hòa tan, hàm lượng chất dinh dưỡng (như phốtpho, nitơ), các kim loại nặng (chì, asen, cađimi, thủy ngân, sắt, đồng) và các vi sinh vật luôn luôn cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Nước bị ô nhiễm gây ra nhiều hậu quả cho sức khỏe và hoạt động sản xuất của con người. Ví dụ, nước bị ô nhiễm vi sinh vật sẽ gây các bệnh như thương hàn, tiêu chảy…Nước bị ô nhiễm các hóa chất độc, khi nồng độ của chúng cao sẽ gây ngộ độc cấp tính, còn trong trường hợp nồng độ thấp, chúng sẽ tích lũy dần trong cơ thể, khi đạt đến một nồng độ nhất định sẽ gây ra các bệnh nguy hiểm như ung thư, thần kinh, suy thoái xương tủy…Nước các song hồ, biển và đại dương bị ô nhiễm dầu gây hủy diệt phù du sinh vật – nguồn thức ăn chính của động vật sống trong nước. Lớp dầu nổi lên mặt nước ngăn cản sự trao đổi oxi giữa không khí và nước làm cho nước bị thiếu oxi, mất khả năng tự lọc sạch. Tất cả những điều nói trên đều dẫn đến sự suy giảm mạnh nguồn sinh vật biển. Cuối cùng, nước bị ô nhiễm làm cạn kiệt những nguồn nước sạch, gây khó khăn cho cuộc sống, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sản xuất của con người. - Ô nhiễm môi trường không khí. Sự ô nhiễm không khí là sự có mặt của một số chất khí lạ hoặc sự biến đổi quan trọng về nồng độ của một số chất khí, làm cho không khí thay đổi tính chất như có mùi hoặc giảm tầm nhìn… Các nhân tố gây ô nhiễm không khí quan trọng nhất là: + Các cacbon oxit (CO, CO2), sunfua điôxit (SO2), nitơ oxit (NO2). Trong số các nitơ oxit quan trọng nhất là NO2 và NO. Các nitơ oxit này vào khí quyển, dưới tác dụng của ánh sáng Mặt Trời, chúng phản ứng với các hiđrôcacbon tạo ra các chất ô nhiễm thứ sinh rất độc như formanđêhit (H 2CO), peroxiaxetin nitrat hay còn gọi là PAN (C2H3O5N), ôzôn (O3). Tập hợp các khí này hình thành khói quang hóa, một loại khói màu vàng có mùi rất hôi. + Các khí hiđrôcacbon như mêtan (CH 4), axêtilen (C2H2), êtilen (C2H4), benzene (C6H6), toluene (C6H5C3), pentan (C5H12)…Các hiđrôcacbon đều là những khí độc, có tác dụng xấu đến sức khỏe con người và sự phát triển của thực vật. + Các khí clôrôfluôrôcacbon (CFC S) hay gọi là Freon. CFCS là hợp chất cacbon có chứa flo (F), clo (Cl), còn halon là hợp chất cacbon có chứa flo, clo và brôm (Br). Các khí này thoát ra từ các ngành công nghiệp điện lạnh (tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ…), sản xuất chất chữa cháy, hóa mĩ phẩm, chất tẩy rửa trong công nghiệp điện tử… + Ngoài các khí nói trên, còn vô số các chất khí khác thoát ra từ nhiều ngành sản xuất, từ nhiều nguồn tự nhiên khác nhau. + Chất gây ô nhiễm cuối cùng là các loại bụi khói phát sinh từ các quá trình tự nhiên, từ sinh hoạt gia đình, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Môi trường không khí bị ô nhiễm gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng: * Tăng cường tác dụng hiệu ứng nhà kính (Green house effect) làm không khí nóng lên, gây ra sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> là do các khí CO2, CH4, CFC, NO2 và hơi nước. Các khí này được gọi là khí nhà kính. Phần lớn các khí này thuộc thành phần khí quyển. Hiệu ứng nhà kinh được hình thành theo cơ chế sau đây: năng lượng Mặt Trời đến Trái Đất dưới dạng bức xạ song ngắn và chúng có khả năng xuyên qua tất cả các tầng của khí bầu khí quyển, khi đến mặt đất một phần năng lượng Mặt Trời sưởi nóng mặt đất và không khí, một phần bức xạ trở lại khí quyển dưới dạng tia song dài. Phần lớn các tia bức xạ sóng dài bị các khí nhà kinh hấp thu và sưởi nóng trở lại khí quyển. Đó chính là tác dụng hiệu ứng nhà kính. Nhờ tác dụng của hiệu ứng nhà kính mà nhiệt độ không khí của Trái Đất vào ban đêm không xuống quá thấp, giữ được độ ấm cho con người và sinh vật. Bởi vậy, người ta mới nói, khí quyển tựa như tấm chăn của Trái Đất là do vậy. Nếu không có hiện tượng hiệu ứng nhà kính, ban đêm nhiệt độ không khí trên Trái Đất sẽ hạ xuống tới -180C. Trong điều kiện khí quyển không bị ô nhiễm, do tương quan giữa bức xạ đến và bức xạ đi, nhiệt độ trên Trái Đất là cân bằng. Ngày nay, do khí quyển bị ô nhiễm, lượng khí nhà kinh tăng lên, cân bằng nhiệt độ Trái Đất dương. Đó là nguyên nhân làm khí quyển nóng dần lên. Trong 100 năm qua, nhiệt độ trung bình trái đất tăng lên từ 0,3 – 0,60C, và nhiệt độ tăng nhanh kể từ năm 1965 trở lại đây. Sự nóng lên của khí quyển, đến lượt nó lại gây nhiều hậu quả khác, đó là: - Sự tan băng vùng cực và núi cao làm cho mực nước biển dâng lên, sẽ nhấn chìm các vùng đất và các quốc đảo thấp. - Khí hậu nóng lên dẫn đến những thay đổi bất thường về thời tiết, khí hậu, làm thay đổi các điều kiện sinh thái ảnh hưởng đến đời sống và sự phát triển của mọi sinh vật. - Sự nóng lên của khí quyển làm cho nhiều bệnh cũ tái phát, phát sinh nhiều loại bệnh mới, ảnh hưởng xấu đến đời sống và sức khỏe con người. Đặc biệt, những đợt thời tiết nóng bất thường gây ra cái chết cho nhiều người do bệnh nhồi máu cơ tim và các bệnh về phổi. Liên quan đến nhiệt độ cao là sự bùng phát nhiều bệnh khác như: sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não,…ở nhiều nơi trên thế giới. * Lắng đọng axit do ảnh hưởng của các khí SO 2, NOX. Các khí này, khi vào khí quyển gặp hơi nước sẽ biến thành các axit mạnh như H 2SO4, HNO3. Lắng đọng axit cũng là hiện tượng gây nguy hại lớn cho sản xuất và đời sống con người và sinh vật. Hiện tượng chết rừng, chết cá tôm gây hại lớn cho ngành lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, mưa axit gây phá hủy mạnh các công trình xây dựng, bụi axit còn phá hủy mọi đồ dung, vật liệu trong các gia đình, bảo tang, kho tang… * Suy giảm tầng ôzôn do tác động của các khí CFC và Halon. Các khí này ở tầng thấp là những khí độc bền vững, nhưng khi lên tầng cao, dưới ảnh hưởng của các tia tử ngoại chúng bị phân hủy, giải phóng ra clo và brôm nguyên tử - các tác nhân gây suy giảm tầng ôzôn. Tầng ôzôn bị suy giảm, các tia tử ngoại, nhất là các tia cực tím xâm nhập xuống mặt đất gây nguy hiểm cho các sinh vật như: thay đổi cấu trúc gen, giảm khả năng miễn dịch cơ thể làm cho các bệnh lây nhiễm dễ phát triển. Các tia tử ngoại còn gây các bệnh đục thủy tinh thể mắt, ung thư da, làm suy giảm phù du sinh vật dưới biển, gây ảnh hưởng xấu đến tài nguyên sinh vật biển..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> * Cuối cùng, ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và mọi sinh vật. Tóm lại, sự bùng nổ dân số là nguồn gốc gây ra sự cạn kiệt, suy thoái các nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường và hậu quả cuối cùng là ảnh hưỏng xấu đến sức khỏe và cao hơn là sự tồn vong của xã hội loài người. Bởi vậy, ngày nay bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ hang đầu của toàn nhân loại. Để thực hiện việc bảo vệ môi trường có hiệu quả, việc giáo dục môi trường trở thành nhiệm vụ quan trọng của các trường học. Các hầy giáo của mọi ngành học, tùy theo chuyên môn của mình cần hiểu biết các vấn đề về môi trường để giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày khái niệm và phân tích đặc điểm cơ bản của toàn cầu hóa? 2. Cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với mỗi quốc gia. Những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập toàn cầu hóa? 3. Khu vực hóa được hình thành dựa trên cơ sở nào? Và nhằm mục tiêu chủ yếu gì? Hãy kể một số lien kết khu vực trên thế giới? 4. Tại sao loài người phải ngăn chặn các vấn đề xã hội: mâu thuẫn tôn giáo, dân tộc, xung đột, khủng bố? 5. Sự phát triển dân số trên thế giới đã diễn ra như thế nào? Ảnh hưởng của sự bùng nổ dân số đến các nguồn tài nguyên tự nhiên? 6. Khái niệm về ô nhiễm môi trường và những hậu quả do môi trường nước bị ô nhiễm gây ra? 7. Nêu khái niệm và các nhân tố gây ô nhiễm môi trường không khí. Phân tích những hậu quả do môi trường không khí bị ô nhiễm. BÀI THỰC HÀNH 1. Thu thập các tài liệu về một trong ba vấn đề: toàn cầu hóa, các tệ nạn, mâu thuẫn xã hội và vấn đề dân số, tài nguyên môi trường trên thế giới hoặc ở nước ta. 2. Từ các tài liệu thu thập được, hãy viết báo cáo về vấn đề anh chị đã chọn để trình bày trước tổ hoặc lớp theo sự hướng dẫn của giảng viên..

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×