Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

BAI DU THI TIM HIEU CD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.29 KB, 29 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Bài dự thi Tìm hiểu về công đoàn Việt Nam 80 năm chặng đường lịch sử Câu 1: Đồng chí hãy cho biết: Tổ chức Công đoàn Việt Nam được thành lập vào ngày tháng năm nào ? Do ai sáng lập ? Đại hội V Công đoàn Việt Nam (tháng 2 năm 1983) đã quyết định lấy ngày 28/ 7/ 1929, ngày thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ làm ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam. Quá trình hình thành và ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động của đồng chí Nguyễn ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) – lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Những năm tháng hoạt động trong phong trào công nhân và Công đoàn Quốc tế, Bác đã nghiên cứu hình thức tổ chức Công đoàn ở các nước tư bản, thuộc địa và nửa thuộc địa. Từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn, đặt cơ sở lý luận và hình thức tổ chức cho Công đoàn Việt Nam. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Bác viết: “ Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Có thể nói, trên bước đường đi chủ nghĩa Mác – Lê nin và thành lập các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã quan tâm rất lớn đến tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân. Quá trình Người chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập một chính Đảng vô sản cũng là quá trình Người xây dựng cơ sở lý luận và biện pháp tổ chức Công đoàn cách mạng. Từ năm 1925 đến năm 1928, nhiều Công hội bí mật đã hình thành do sự hoạt động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đặc biệt từ năm 1928, khi kỳ bộ Bắc kỳ của VIệt Nam Cách mạng Thanh niên đồng chí Hội chủ trương thực hiện “Vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, thúc đẩy sự phát triển của tổ chức công hội lên một bước mới cả về hình thức lẫn nội dung hoạt động. Năm 1929 là thời điểm phong trào công nhân và hoạt động công hội ở nước ta phát triển sôi nổi nhất, đặc biệt là ở miền Bắc. Các cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra liên tục ở nhiều xí nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành động giữa các cuộc đấu tranh ở xí nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa phương và giữa địa phương này với địa phương khác trong toàn xứ. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và tổ chức công hội đòi hỏi phải có một tổ chức Mác Xít, một Đảng thực sự cách mạng của giai cấp.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> công nhân có khả năng tập hợp, lãnh đạo công nhân đấu tranh giành độc lập tự do.Tháng 03/1929,chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà nội.Tiếp đến, ngày 17/06 /1929, Đông Dương Cộng Sản Đảng giao cho đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Uỷ viên lâm thời phụ trách công tác công vận của Đảng triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công Hội Đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28/7/1929 tại nhà số 15, phố Hàng Nón Hà Nội. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là người đứng đầu Ban Chấp hành lâm thời Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ. Sự kiện thành lập Tổng Công hội Đỏ miền Bắc việt Nam là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt nam có một đoàn thể cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo công nhân lao động. Chính vì ý nghĩa đó theo đề nghi của Tổng Liên đoàn lao đông Việt Nam, bộ chính trị TW Đẩng Cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày 28/7/1929 là ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam. Câu 2: Đồng chí hãy cho biết từ khi thành lập đến nay, Công đoàn Việt Nam đã trải qua mấy kỳ Đại hội ? Mục tiêu, ý nghĩa của các kỳ Đại hội ? Từ khi thành lập (ngày 28/ 7/ 1929) đến nay, Công đoàn Việt Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội đó là: đại hội công đoàn việt nam lần thứ I Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ I khai mạc vào sáng ngày 01/ 01/ 1950 và làm việc đến hết ngày 15/ 01/ 1950, tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Về dự Đại hội có trên 200 đại biểu thay mặt cho khoảng 350.000 công nhân, viên chức, lao động. Nhiều chiến thi đua các ngành, các đoàn thể quần chúng cách mạng, các đại biểu nước ngoài cũng tham dự Đại hội. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, đại diện Mặt trận dân tộc thống nhất đã đến dự Đại hội. Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ nhất tiến hành nhằm kiểm điểm và tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam từ khi hình thành, nhất là từ sau Cách mạng tháng Tám thắng lợi đến thời điểm Đại hội. Đại hội đã nhận được thư chào mừng của Liên hiệp Công đoàn thế giới, đặc nhận được thư của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thư, Bác viết: “ ...Nhân dịp Đại hội, tôi gửi lời thân ái chúc các đại biểu mạnh khoẻ và Đại hội có kết quảthiết thực, tốt đẹp. Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, giai cấp công nhân ta đã góp phần quan trọng và đã có những thành tích vẻ vang, từ nay giai cấp công nhân ta phải là người lãnh đạo. Vì vậy, mọi nam, nữ mọi công nhân phải cố gắng học tập tiến bộ, phải cố gắng xung phong làm biểu mẫu trong việc để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của giai cấp mình...” Đại hội đã nghe bài phát biểu quan trọng của đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng về nhiệm của Công đoàn và giai đoạn cấp công nhân. Đại hội đã thảo luận sôi nổi bản báo cáo của Ban chấp hành Tổng Liên đoàn lao động.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Việt Nam “Công nhân Việt Nam chiến đấu độc lập, dân chủvà hoà bình”, do đồng chí Trần Danh Tuyên trình bày. Đại hội đề ra mục tiêu: “Động viên công nhân, viên chức cả nước, nhất là ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ mới của giai cấp công nhân và Công đoàn trong kháng chiến, Nghị quyết Đại hội đã nêu rõ: “Tích cực cùng toàn dân chuẩn bị chuyển sang tổng phản công, tiêu diệt những thực dân Pháp và bù nhìn tay sai, đánh bại âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất thật sự cho Tổ quốc, góp phần cùng lao động và nhân các nước đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới”. Đại hội đề ra nhiệm vụ quốc tế: “ Chung sức lao động và các lực lượng dân chủ thế giới đấu tranh chống phản động quốc tế, nhất là phản động Mỹ, để bảo vệ hoà bình, dân chủ cho nhân loại. Liên kết và ủng hộ Liên Xô và các nước dân chủ mới. Tích cực hoạt động để góp phần thống nhất lao động thế giới. Đoàn kết cặt chẽ với lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ chế độ thực dân xâm lược, giành quyền tự do, độc lập thực sự cho các quốc gia. Giúp đỡ và phối hợp với công nhân, lao động Miên, Lào đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân Pháp trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản Pháp”. Đại hội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng – Người thành lập và lãnh đạo Công hội Ba Son ( 1921) làm Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam gồm 21 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tổng Liên đoàn gồm: Trần Danh Tuyên, Nguyễn Hữu Mai, Hoàng Hữu Đôn, Nguyễn Duy Tính, Trần Quốc Thảo, Đòng chí Hoàng Quốc Việt (tá Hạ Bá Cang), Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng (2/1951 là Uỷ viên Bộ Chính trị) được bầu làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đồng chí Trần Danh Tuyênđược bầu làm Tổng Thư ký, các đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Trần Quốc Thảo được bầu làm phó Tổng Thư ký. Sau nửa tháng làm việc, ngày 15/ 01/ 1950, Đại hội đại biểu Công đoàn Việt Nam lần thứ nhất đã kết thúc tốt đẹp, đánh dấu một bước trưởng thành to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Nghị quyết được Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ nhất thông qua, là sự vận dụng đúng đắn, cụ thể và sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và hoạt động Công đoàn, là điều kiện rất thuận lợi cho giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam hoàn thành những nhiệm vụ quan trọng trong bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. đại hội công đoàn việt nam lần thứ II Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II họp từ ngày 23 – 27/ 02/ 1961, tại Trường Thương nghiệp - Hà Nội, ( gần Cầu Diễn cách trung tâm Hà Nội 5 km,.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> trên đường đi thị xã Sơn Tây). Tổng số Đại biểu về dự Đại hội có 752 người , trong đó có 666 đại biểu chính thức và 86 đại biểu dự khuyết. Đại hội vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và phát biểu ý kiến. Đại hội đã quyết định lấy thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Huấn thị của Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho phương hướng, nhiệm vụ công tác Công đoàn Việt Nam. Đại hội đề ra mục tiêu:“Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động, sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc với tinh thần: “ Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thư II khẳng định: “Sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN có ý nghĩa quyết định rất lớn đối với sự phát triển thắng lợi của cách mạng nước ta, đồng thời đảm bảo nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, của Đảng tiên phong và phát huy tác dụng tích cực của Công đoàn trong mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội”. Đại hội đã chỉ ra nhiệm vụ chung là: “ Đoàn kết, tổ chức, giáo dục toàn thể công nhân viên, phát huy khí thế cách mạng, khí thế làm chủ và tính tích cực sáng tạo của quần chúng làm cho quần chúng mau chóng nắm vững kỹ thuật tiên tiến, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoà XHCN, trước mắt là thi đua hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc”. Đại hội đã nêu ra luận điểm: Công đoàn là trường học chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản của giai cấp công nhân. Không ngừng nâng cao giác ngộ XHCN, nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ của công nhân, viên chức là chức năng nhiệm vụ của Công đoàn. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II đã quyết định đổi tên Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam. Đồng thời nhất trí thông qua Điều lệ Công đoàn Việt Nam gồm 10 chương và 45 điều trong đó quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền lợi đoàn viên, nguyên tắc tổ chức, quyền hạn và nhiệm vụ của các cấp Công đoàn. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam mới gồm 54 uỷ viên chính thức, 11 uỷ viên dự khuyết. Đoàn Chủ tịch gồm 19 người. đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ III Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ III họp từ ngày 11- 14/ 02/ 1974, tại Hội trường Ba Đình – Hà Nội. Tham dự Đại hội có 600 đại biểu ( 100 đại biểu dự khuyết) thay mặt cho hơn 1triệu đoàn viên Công đoàn và công nhân, viên chức cả nước. Đại hội đã đón 25 đoàn khách đại diện cho giai cấp công nhân và Công đoàn quốc tế và đoàn đại biểu Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam do đồng chí Đặng Trần Thi ( Phó Chủ tịch Liên hiệp Công.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> đoàn giải phóng) dẫn đầu. Đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Tôn Đức Thắng Chủ tịch nước, đồng chí Phạm Văn Đồng Thủ tướng Chính phủ đã đến dự Đại hội. Đại hội đề ra mục tiêu: “ Động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Đại hội đề ra nhệm vụ cụ thể của Công đoàn trong hai năm 1974 – 1975 là: “ Nhanh chóng hoàn thành việc hàn gắn những vết thương chiến tranh, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá; tiếp tục xây dựng ncơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH; củng cố quan hệ sản xuất XHCN, củng cố chế độ XHCN về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân, ra sức làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam anh hùng”. Đại hội biểu dương thành tích to lớn của giai cấp công nhân và phong trào Công đoàn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, khẳng định sự đóng góp to lớn của giai cấp công nhân trong 13 năm qua. Đại hội nghe bài phát biểu quan trọng của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao độngViệt Nam Về: “Giai đoạn mới của cách mạng và nhiệm vụ của Công đoàn”. Đại hội thông qua Điều lệ sửa đổi trong đó xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam gồm 71 uỷ viên chính thức. Đoàn Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam ( cơ cấu đại diện, chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành quyết định chủ trương công tác giữa hai nhiệm kỳ Đại hội) gồm 19 đồng chí. Công đoàn đã vận động đội ngũ công nhân viên chức miền Bắc khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu, năng động, sáng tạo, thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và kế hoạch Nhà nước những năm tiếp theo. Đại hội Công đoàn việt nam lần thứ IV Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV được tiến hành sớm hơn một năm trong điều kiện cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn đất nước thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 8/ 5/ 1978 Đại hội lần thứ IV Công đoàn Việt Nam khai mạc tại hội trường Ba Đình – Hà Nội. Đại hội diễn ra trong 4 ngày ( từ 8/ 5 – 11/ 5/ 1978 ). Tham dự Đại hội có 926 đại biểu thay mặt cho trên 3 triệu đoàn viên Công đoàn, công nhân, viên chức trong cả nước. Đây là Đại hội đầu tiên của phong trào Công đoàn Việt Nam sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nước nhà thống nhất và tổ chức Công đoàn hai miền Nam, Bắc đã được thống nhất. Đại hội vinh dự được đón các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, có đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ tịch danh dự Tổng Công đoàn Việt Nam; đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Bộ Chính trị, Chủ tịch uỷ Ban thường vụ Quốc hội; đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị đến dự Đại hội. Đại hội đón 36 đoàn đại biểu quốc tế đại diện cho tổ chức Công đonà thế giới, mang đến cho giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam tình đoàn kết của phong trào công nhân, Công đoàn thế giới. Đại hội đã đề ra mục tiêu: “Động viên giai cấp công nhân và người lao động thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh cong nghiệp hoá trong cả nước”. Đại hội đã cụ thể hoá những nhiệm vụ cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào công đoàn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng mà nhiệm vụ trọng tâm là: “ Tập hợp, vận động công nhân lao động hăng hái thi đua sản xuất, thực hiện kế Nhà nước 5 năm lần thứ II”. Đại hội 8 nhiệm vụ cụ thể là: - Phát động phong trào cách mạng của công nhân viên chức thi đua lao động sản xuất cần kiệm xây dựng CNXH nhằm tăng năng suất lao động, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. - Đẩy mạnh phong trào công nhân viên chức thi đua phục vụ nông nghiệp. - Tổ chức và từng bước cải thiện đời sống, phát triển phúc lợi bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân viên chức. - Vận động cán bộ viên chức tích cực tham gia hoàn thành các quan hệ sản xuất ở miền Nam. - Tích cực tham gia cỉa tiến quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước nhằm củng cố và quan hệ sản xuất XHCN. - Đẩy mạnh giáo duc chính trị, văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ cho công nhân viên chức. - Tích cực góp phần tăng cường đoàn kết lao động và phong trào Công đonà thế giới đấu tranh vì quyền lợi của những người lao động, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. - Cải tiến công tác, xây dựng Công đoàn vững mạnh. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam gồm 155 uỷ viên. Ban Thư ký gồm 12 đồng chí. . Đồng chí Nguyễn Văn Linh Uỷ viên bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng ( sau này là tổng Bí thư BCH TW Đảng ) được bầu làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm phó Chủ tịch kiêm tổng Thư ký và đồng chí Nguyễn Hộ được bầu làm phó Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Ban kiểm tra có 7 uỷ viên, do đồng chí Nguyễn Văn Ưng làm trưởng ban. Đại hội Công đoàn việt nam lần thứ V Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ V họp từ ngày 12/ 11 đến 15/ 11/ 1983 tại Hội trường Ba Đình – Hà Nội ( họp trù bị tại khách sạn Giảng Võ – Hà Nội)..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Đại hội gồm 949 đậi biểu thay mặt cho gần 4 triệu đoàn viên công đoàn trong cả nước về dự. Đến dự Đại hội có các đồng chí: Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng, đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát là: “ Động viên công nhân lao động thi đua thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng: Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Đại hội đề ra nhiệm vụ cụ thể là: - Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp. - Phát triển sản xuất công nghiệp, đua nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn XHCN. - Lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phân phối lưu thông, chăm sóc đời sống và bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức. - Thực hiện những nhiệm vụ văn hoá, xã hội. - Tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, đấu tranh chống địch và các phần tử phá hoại, chống các hiện tượng tiêu cực, bảo vệ sản xuất, sẵn sàng chiến đấu. - Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, xây dựng người công nhân mới xãhội chủ nghĩa, tích tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. - Phát triển hợp tác với Công đoàn Lào, Công đoàn Campuchia, Công đoàn Liên Xô và Công đoàn các nước trong cộng đồng XHCN, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của phong trào Công đoàn thế giới vì lợi ích của người lao động , vì hoà bình độc lập dân tộc, chủ nghĩa và tiến bộ xã hội. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ V nhất trí lấy ngày 28/ 7 1929, ngày thành lập Công hội Đỏ Bắc Kỳ làm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam gồm 155 đồng chí. Ban Thư ký gồm 13 đồng chí: Phạm Thế Duyệt, Dương Xuân An, Đinh Gia Bẩy, Vũ Xuân Cận, Hoàng Mạnh Chính, Vũ Định, Phạm Lợi, Lê Phong, Vũ Kim Quỳnh, Nguyễn Thị Thân, Đỗ Thị Thiệp và Hoàng Tỉnh. Đồng chí Nguyễn Đức Thuận, Uỷ viên trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Đồng chí Phạm Thế Duyệt, Uỷ viên dự khuyết trung ương Đảng được bầu làm phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Uỷ ban kiểm tra Tổng Công đoàn Việt Nam có 11 đồng chí do đồng chí Nguyễn Thị Thân làm trưởng ban. đại hội công đoàn việt nam lần thứ VI Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VI tổ chức trọng thể tứ ngày 17 – 20/ 10/ 1988, tại Hội trường Ba Đình – Hà Nội. đại hội gồm có 384 đại biểu thay mặt cho hơn 3 triệu đoàn viên công đoàn. Tới dự Đại hội có đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng và các đồng.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> chí cố vấn Ban Chấp hành trung ương Đảng Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước võ Chí Công, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo cùng nhiều đồng chí lãng đạo khác của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các cơ quan đoàn thể quần chúng và các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng. Đại hội VI Công đoàn Việt Nam là sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của giai cấp công nhân và người lao động. Đây là Đại hội đầu tiênthwcj hiện đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời cũng đặt ra cơ sở lý luận cho đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn. Đại hội với tinh thần đổi mới “ Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thậ, nói rõ sự thật” trong bầu không khí công khai, dân chủ. Đại hội đã đánh giá thực trạng tình hình phong trào công nhân và hoạt động công đoàn đề ra giải pháp khắc phục yếu kém để đưa phong trào công nhân và hoạt động công đoàn phát triển, nhằm thực hiên thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, một mốc quan trọng trên con đường đổi mới đất nước. Đại hội đã đề ra mục tiêu có sức cổ vũ mạnh mẽ đối với công nhân lao động là: “ Việc làm và đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho thời gian tới, trong đó hai nhiệm vụ chính là: “ Động viên công nhân, lao động đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, hăng hái đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm; chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động”. Để phù hợp với yêu cầu tập hợp người lao động thuộc các thành phần kinh tế, phù hợp với yêu cầu mở rộng đối tượng và phạm vi hoạt động của công đoàn trong tình hình mới. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VI quyết định đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đổi tên các Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố, đặc khu, huyện, thị xã thành Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, đặc khu, huyện, thị xã. Bỏ chức danh Tổng thư ký, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao đông Việt nam là người đứng đầu Ban Chấp hành và Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; thay chức danh Thư ký công đoàn các cấp bằng chức danh Chủ tịch công đoàn. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 155 người ; ban Thư ký ( đoàn Chủ tịch ) gồm 15 người. Uỷ ban kiểm tra gồm 11 người, do đồng chí Cù Thị Hậu làm Chủ nhiệm Uỷ ban. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VII Đại hội Công đoàn Vệt Nam lần thứ VII được tiến hành từ ngày 9 – 12/ 11/ 1993, tại Hội trường Ba Đình – Hà Nội. Tham dự Đại hội có 600 đại biểu thay mặt cho công nhân, viên chức lao động khắp mọi miền đất nước. Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười, các đồng chí Nguyễn văn Linh , Phạm Văn Đồng, Võ Chí công cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tới dự Đại hội..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Phát biểu chỉ đạo Đại hội, đồng chí Đỗ Mười nhấn mạnh: “ Phải tập trung sức xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, trước hết là đội ngũ công nhân, lao động trong các ngành sản xuất, kinh doanh và khu vực quản lý Nhà nước, tăng cường đoàn kết thống nhất công nhân, gắn lợi ích giai cấp công nhân với lợi ích dân tộc; làm hạt nhân trong liên minh khối công – nông – trí thức, lực lượng chủ yếu bảo đảm thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà”. “ Công đoàn có trách nhiệm động viên công nhân lao động khối đại đoàn kết toàn toàn dân... phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Khắc phục tình trạng “ Nhà nước hoá, hành trình hoá” trong tổ chức và phương thức hoạt động Công đoàn. Đại hội VII Công đoàn Việt Nam xác định mục tiêu cuả hoạt động công đoàn 5 năm ( 1993 – 1998 ) là: “ Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần và xây dựng bảo vệ Tổ quốc, chăm lo và bảo vệ ích lợi của công nhân, lao động”. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chính của Công đoàn những năm 1993 – 1998: - Động viên công nhân, lao động phát huy tính năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; - Vận động công nhân, lao động tích cực góp phần tham gia xây dựng Đảng tham xây dựng chính quyền vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc; - Tham gia xây dựng giám sát, kiểm tra thực hiện chính sách; tăng cường các hoạt đông xã hội để bảo vệ lợi ích, chăm lo đời sống công nhân, lao động; - Đổi mới côngtác tuyên truyền, giáo dục góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh; tăng cường khối liên minh công – nông – trí thức; - Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng năng lực và bản lĩnh đội ngũ cán bộ công đoàn; - Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, tạo thêm nguồn tài chính; - Tăng cường và mở rộng hợp tác với Công đoàn các nước và các tổ chức quốc tế thuộc các xu hướng khác nhau nhằm cùng phấn đấu cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì lợi ích của người lao động và lớn mạnh của tổ chức Công đoàn Việt Nam; Đại hội đã bầu 125 đồng chí vào Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Ban Chấp hành đã bầu Đoàn Chủ tịch gồm 15 đồng chí. Đại hội cũng bầu ra Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam kháo VII gồm 11 uỷ viên, đồng chí Vũ Kim Quỳnh – Uỷ viên Đoàn Chủ tịch được bầu làm chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn. đại hội công đoàn việt nam lần thứ VIII Đại hội Công đoàn Việt nam lần thứ VIII họp ngày 3 đến 6 / 11/ 1998, được tổ chức trong thể tại Cung Văn hoá lao động hữu nghị Việt – Xô, Thủ đô.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Hà Nội. Tham dự Đại hội gồm 898 đại biểu của 80 đoàn ( 61 Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố và 18 Công đoàn ngành nghề toàn quốc về dự và một đoàn của cơ quan Tổng Liên đoàn ), 31 đoàn đại biểu quốc tế, đại diện tổ chức Liên hiệp Công đoàn Thế giới, đại biểu Công đoàn các nước trong khu vực và các đoàn ngoại giao. Tới dự đại hội có các đồng chí Lê Khả phiêu, Tổng Bí thư Ban Chấp Trung ương Đảng; đồng chí Trần Đức Lương, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch nước; đông chí Phan Văn Khải, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội và nhiều đại biểu đại diện các đoàn thể quần chúng. Đại hội đề ra mục tiêu: “ Vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì việc làm, đời sông, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh”. Xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển về số lượng và chất lượng, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh vững chắc với nông dân và trí thức; gia sức phát triển đoàn viên trong các thành phần kinh tế, tiếp tục xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn; tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xãhội, xây dựng pháp luật, chính sách có lên quan đến công nhân,viên chức lao động, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng củaCNVCLĐ; tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong mặt trận tổ quốc Việt Nam, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh phong trào thi đua sôi nổi, động viên CNVCLĐ phát huy nội lực phát triển kinh tế – xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, theo con đường xã họi chủ nghĩa. Đại hội VII Công đoàn Việt Nam đề ra 6 nhiệm chủ yếu sau: - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, tập hợp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, vững vàng về chính trị, giác ngộ về giai cấp,thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý nghĩa kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có trình độ làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên công – nông dân – trí thức và khối đại đoàn kết đân tộc. - Phát động phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước với khẩu hiệu: “ Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là phong trào: “ Lao động giỏi với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động”; Phong trào “ thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội” phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Gia sức xây tổ chức Công đoàn vững mạnh, phấn đấu đến năm 2003 ở khu vực hành chính sự nghiệp, kinh tế Nhà nước ít nhất có 90% công nhân, viên chức, lao động vào tổ chức Công đoàn nâng cao chất lượng Công đoàn cơ sở.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> vững mạnh. 100% khu vực liên doanh, đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện thành lập Công đoàn cơ sở và 60% số cán bộ công nhân, viên chức, lao động là đoàn viên Công đoàn. Khu vực kinh tế tư nhân có ít nhất 50% số đơn vị có tổ chức Công đoàn và trên 50% số công nhân, viên chức, lao động vào Công đoàn; có từ 50% Công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh; phấn đấu đến năm 2003 có 100% số cán bộ Công đoàn chủ chốt và Chủ tịch Công đoàn cơ sở được qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn. - Nêu cao vai trò vị trí của tổ chức Công đoàn trong việc chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân lao động. Tập trung trí tuệ cán bộ tham gia nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật và các chế độ về các chính sách về lao động, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đào tạo và đào tạo lại các ngành nghề và các chính sách xã hội khác; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với lao động nữ. Tham gia củng cố, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước nhằm làm cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tích cực cùng với Nhà nước thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp, tạo điều kiện cho công nhân, viên chức, lao động tìm kiếm, mở mang các hoạt động dịch vụ, sản xuất ,phát triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, xoá đói giảm nghèo trong công nhân, viên chức, lao đông và bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam lao động hợp tác ở nước ngoài. - Vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Tham gia có hiệu quả trong công cuộc cải cách hành chính, chống quan liêu, lãng phí, chống tahm nhũng, buôn lậu, thực hành dân chủ hoá; có kế hoạch bồi dưỡng công nhân và người lao động giỏi giới thiệu cho Đảng. - Mở rộng và củng cố hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường hữu nghị và hợp tác về mọi mặt, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ từ bên ngoài với mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, tích cực đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của người lao động và Công đoàn các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, phát triển và vì người lao động, vì quyền Công đoàn, vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với tinh thần làm việc khẩn trương sôi nổi, dân chủ và trách nhiệm cao trước giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn cả nước. Đại hội đã bầu 145 đồng chí, vào Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn khoá VIII. Ban Chấp hành đã bầu đoàn Chủ tịch gồm 17 đồng chí: Cù Thị Hậu, Nguyễn An Lương, Đặng Ngọc Chiến, Đỗ Đức Ngọ, Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Hoà Bình, Nguyễn Văn Dũng, Trần Quang Giao, Trần Thị Hồng, Vũ Khang, Nguyễn Hữu Lợi, Nguyễn Thị Luật, Vũ Tiến Sáu, Huỳnh Kim Sơn, Đặng Ngọc Tùng, Nguyễn Viết Lượng và Hoàng Văn Yên. Đồng chí Cù Thị Hậu, Uỷ viên Trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; đồng chí Nguyễn An Lương.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> – Phó Chủ tịch thường trực; các đồng chí Đặng Ngọc Chiến, Đỗ Đức Ngọ, Nguyễn Đình Thắng được bầu làm phó Chủ tịch. Đại hội cũng bầu ra Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khoà VIII gồm 13 Uỷ viên do đồng chí Vũ Khang làm chủ nhiệm. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII nhiện kỳ 1998 – 2003 là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển giao nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn giữa hai thế kỷ. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX họp từ ngày 10 – 13 / 10/ 2003, tại Cung văn hoá lao động Hữu nghị Viêt – Xô, thủ đô Hà Nội. 900 đại biểu ưu tú, đại diện cho hơn 4,2 triệu đoàn viên đã về dự Đại hội. Đại hội vinh dự được đón tiếp đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, các đòng chí nguyên là Cố vấn Ban Chấp hành trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể khác, cùng 31 đoàn đại biểu Công đoàn quốc tế và Công đoàn các nước, đại diện đoàn ngoại giao, tổ chức quốc tế và phi chính phủ có quan hệ với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tới dự. Đồng chí Tổng Bí thư đã phát biểu ý kiến chỉ đạo Đại hội và đã trao tặng Đại hội bức trướng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “ Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam đoàn kết lao động sáng tạo, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Khẩu hiệu hành động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới là: Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao động, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đại hội đã đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức Công đoàn trong nhiệm kỳ 2003 – 2006: Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong công nhân, viên chức lao động; tham gia quản lý, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ Công đoàn; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> lợi các nhiệm phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của Công đoàn nhiệm kỳ 2003 – 2008 là: - Tuyên truyền giáo dục, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. - Chủ động tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát có hiệu quả việc thực hiện pháp luật, chế độ chính sách có liên quan trực tiếp đến công nhân, viên chức lao đông và quy chế dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh công tác chăm lo đời sống, làm tốt chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ. - Tổ chức sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo trong CNVCLĐ, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. - Phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; đổi mới nội dung ìa phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, từng cấp Công đoàn; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ Công đoàn. - Mở rộng hoạt động đối ngoại của Công đoàn Việt Nam. - Đại hội IX Công đoàn Việt Nam là Đại hội “ Đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, đổi mới”, thể hiện ý chí và nguyện vọng to lớn của giai cấp công nhân, của đội ngũ CNVCLĐ và tổ chức Công đoàn Việt Nam bước vào thế kỉ và thiên niên kỉ mới. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành gồm 150 uỷ viên, Ban cháp hành khoá IX đã bầu ra 19 Uỷ viên đoàn chủ tịch gồm: đồng chí Cù Thị Hậu, Đặng Ngọc Tùng, Đỗ Đức Ngọ, Nguyễn Đình Thắng, Đặng Ngọc Chiến, Nguyễn Hoà Bình, Nguyễn Văn Dũng, Vũ Khang, Nguyễn Viết Vượng, Hoàng Văn Yên, Hoàng Ngọc Thanh, Lê Vân Trình, Đỗ Đăng Hiếu, Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn Huy Cận, Nguyễn Thị Kim Hải, Nguyễn Thế Phúc, Phan Viết Thông và Phan Thị Thu Văn. Đồng chí Cù Thị Hậu, Uỷ viên trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đồng chí Đặng Ngọc Tùng – Phó Chủ tịch thường trực; các đồng chí Đặng Ngọc Chiến, Đỗ Đức Ngọ, Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Hoà Bình được bầu làm phó Chủ tịch. Ban Chấp hành bầu Uỷ ban kiểm tra tổng Liên đoàn gồm 11 đồng chí, đồng chí Vũ Khang, Uỷ viên đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn được bầu làm chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra . đại hội công đoàn việt nam lần thứ x.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ x diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5 -11,tại Cung Văn hoá Lao động Hữu nghị Việt - Xô ( Hà Nội ). Đại hội x Công đoàn Việt Nam với khẩu hiệu hành động “ Đổi mới, sáng tạo, vì quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động vì sự nghiệp bền vững của đất nước”. Dự lễ khai mạc có Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; các đồng chí nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; các đồng chí: nguyên chủ tịch nước Lê Đức Anh, Trần Đức Lương; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; nguyên thủ tướng Phan Văn Khải; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú trọng; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An; Chủ tịch Uỷ ban TWMTTQ Việt Nam Huỳnh Đảm; các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội; lãnh đạo các Bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương, TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; các đồng chí lão thành cách mạng và gần 1.000 đại biểu ưu tú, đại diện cho hơn 6 triệu đoàn viên công đoàn của cả nước. Dự Đại hội còn có các đại biểu Công đoàn các nước Ôxtrâylia, campu chia,Trung Quốc, Cu ba, Đan Mạch, Na Uy, Nga, Xingapo, Thuỵ Điển, Nhật Bản và một số tổ chức Quốc tế, đoàn ngoại giao, tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội. Sau diễn văn khai mạc Đại hội của đồng chí Đăng Ngọc Tùng, Chủ tịc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã phát biểu ý kiến khẳng định: Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam là một sự kiện Chính trị quan trọng của giai cấp công nhân, người lao động và tổ chức Công đoàn Việt Nam, đồng chí là nguồn động viên, cổ vũ đối với nhân dân cả nước. Trong 3 ngày làm việc, Đại hội đã tập trung đánh giá sự phát triển về mọi mặt của giai cấp công nhân, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Việt Nam 5 năm qua, làm rõ những vấn đề còn tồn tại, thiếu sót, những vấn đề nổi lên cần giải quyết trong phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn. Những giải pháp để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 20 Hội nghi Ban Chấp hành Trung ương khoá X “ Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” và việc đổi mới nội dun, phương pháp tuyên truyền, giáo dục tổ chức Công đoàn cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội kêu gọi toàn thể công nhân, viên chức, lao động và cán bộ, đoàn viên công đoàn ở các cấp, các ngành trong cả nước hãy phát huy truyền thống và bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của tổ chức công đoàn Việt nam quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội và đưa khẩu hiệu thành hành động “ Đổi mới, sáng tạo, vì quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn nước ta với việc làm cụ thể, thiết thực trong lao động, sản xuất công tác và hoạt động công đoàn”..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Đại hội đã bầu 160 đồng chí vào Ban chấp hàng Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá X . Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá X đã họp bầu 21 đồng chí vào Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu lại làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn; bầu 5 phó chủ tịch gồm các đồng chí: Nguyễn Hoà Bình, Hoàng Ngọc Thanh, Mai Đức Chính, Nguyễn Văn Ngàng, và Nguyễn Thị Hồng. Đồng thời bầu Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khoá X gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Xuân Học được bầu làm chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra.. Câu 3: Đồng chí hãy cho biết: Đại hội nào được đánh giá là Đại hội đổi mới. Theo đồng chí quan điểm “đổi mới” đó được phát triển như thế nào ở Đại hội X Công đồn Việt Nam ? Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VI diễn ra từ ngày 17 – 20/ 10/ 1988, tại hội trường Ba Đình – Hà Nội. Đây là sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của giai cấp công nhân và người lao động. Đại hội lần thứ VI là Đại hội đầu tiên thực hiẹn đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời cũng đặt ra cơ sở lý luận cho đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn, với tinh thần đổi mới “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” trong bầu không khí công khai, dân chủ. Đại hội đã đánh giá thực trạng tình hình phong trào công nhân và hoạt động công đoàn đề ra giải pháp khắc phục yếu kém để đưa phong trào công nhân và hoạt động công đoàn phát triển, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, một mốc quan trọng trên con đường đổi mới đất nước. Đại hội đã đề ra mục tiêu có sức cổ vũ mạnh mẽ đối với công nhân lao động là: “Việc làm và đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho thời gian tới, trong đó hai nhiệm vụ chính là: “Động viên công nhân, lao động đổi mớ i cơ chế quản lý kinh tế, hăng hái đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm; chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động”. Đại hội X Công đoàn Việt Nam đã tổng kết phong trào công nhân, hoạt động công đoàn 5 năm từ 2003 - 2008, đề ra phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2008 - 2013. Đại hội cũng tập trung thảo về Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo lãnh đạo của Ban Chấp hành , Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn khoá IX ( nhiệm kỳ 2003 - 2008 ) ; Báo cáo hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn nhiệm kỳ 2003 - 2008; Báo cáo Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn khoá IX tại Đại hội X Công đoàn Việt Nam; Báo cáo tổng hợp kiến nghị của công nhân, viên chức lao động qua Đại hội Công đoàn các cấp với Đảng, Nhà nước; thảo luận về số.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> lượng, cơ cấu nhân sự Ban Chấp hành và bầu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn khoá X và thông qua điều lệ Công đoàn Việt Nam (sửa đổi). Đại hội đã tập trung đánh giá sự phát triển về mọi mặt của giai cấp công nhân, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Việt Nam 5 năm qua, làm rõ những vấn đề còn tồn tại, thiếu sót, những vấn đề nổi lên cần giải quyết trong phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn. Những giải pháp để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 20 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá X “ Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và việc đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục của tổ chức Công đoàn cho phù hợp với yêu cầu thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các đại biểu tập trung thảo luận những vấn đề bức xúc của người lao động như chăm lo nhà ở cho người lao động, đặc biệt ở các khu công nghiệp, khu chế xuất; công đoàn với việc tham gia xây dựng và thực hiện chế độ, chíng sách về đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động.Các đại biểu cũng đặc biệt quan tâm đến vai trò của công đoàn trong việc tham gia xây dựng và thực hiện tiền lương, tiền công; kiểm tra, giám sát việc thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động và các chế độ, chính sách liên quan người lao động... Các đại biểu cũng kiến nghị các giải pháp thực hiện hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ của các cấp công đoàn giai đoạn 2008 -2013, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về đẩy mạnh xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Góp ý vào điều lệ Công đoàn Việt Nam, Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung quyền của đoàn viên Công đoàn và tổ chức Công đoàn cơ sở; Công đoàn các cấp đại diện cho công nhân viên chức, lao động thương lượng ký thoả ước lao động tập thể với hiệp hội ngành nghề hặc đại diện của người giới chủ sử dụng lao động trong ngành. Công đoàn cơ sở các cấp phối hợp các cấp chính quyền, chủ sử dụng lao động giải quyết hài hoà các quan hệ lao động và trách nhiệm, quyền tổ chức và lãnh đạo đình công theo đúng quy định của pháp luật. Đại hội đã có 8 kiến nghị với Đảng và 12 kiến nghị với Quốc hội, chính phủ. Các kiến nghị này tập trung vào nội dung: Đẩu mạnh xây dựng công tác Đảng và các tổ chức chính trị – xã hội trong giai cấp công nhân; làm tốt công tác tổ chức cán bộ; bổ sung, sửa đổi luật Công đoàn; xây dựng và ban hành luật bảo hộ lao động; luật tiền lương tối thiểu. Các kiến nghị còn tập trung vào việc hoàn thiện các chính sách về lao động nữ, đào tạo, thanh tra lao động việc làm; tiền lương, nhà ở cho công nhân lao động; việc bán cổ phần cho người lao động và tổ chức Công đoàn; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đại hội đã kêu gọi toàn thể công nhân, viên chức, lao động và cán bộ, đoàn viên Công đoàn ở các cấp, các ngành trong cả nước hãy phát huy truyền thống và bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> quyết tâm thực hiện hắng lợi Nghị quyết Đại hội và đưa khâủ lệnh thành hành động “ Đổi mới, sáng tạo, vì quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn nước ta với những việc làm cụ thể, thiết thực trong lao động , sản xuất, công tác và hoạt động của Công đoàn”. Đại hội đã thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Công đoàn toàn quốc lần thứ X, trong đó đề ra các chỉ tiêu: Phấn đấu có 100% cán bộ Công đoàn các cấp được đào tạo bồi dưỡng, tập huấn về lí luận, nghiệp vụ Công đoàn; kết nạp mới ít nhất 1,5 triệu đoàn viên; đến hết năm 2013 có 70% số doanh nghiệp đủ điều kiện thành lập Công đoàn cơ sở và tập hợp 60% trở lên số công nhân, viên chức, lao động trong doanh nghiệp ra nhập Công đoàn; 70% trở lên số Công đoàn cơ sở doanh nghiệp tổ chức thương lượng với người sử dụng lao động; 70% trở lên số công nhân được đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp... Đại hội X đã bầu 160 đồng chí vào Ban Chầp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khoá X. Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khoá X đã họp bầu 21 đồng chí vào đoàn chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu lại làm chủ tịch Tổng Liên đoàn; Bầu 5 phó chủ tịch gồm các đồng chí : Nguyễn Hoà Bình, Hoàng Ngọc Thanh, Mai đức Chính, Nguyễn Văn Ngàng và Nguyễn Thị Thu Hồng. Đồng thời bầu Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khoá X gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đỗ Xuân Học được bầu làm chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra. Các nội dung được thông qua tại Đại hội lần này là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn thể đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động các cấp Công đoàn cả nước, là sự tổng kết thực tiễn và lí luận, về tổ chức và hoạt động Công đoàn trong 5 năm qua để tiếp tục đổi mới và phát triển trong 5 năm tới. Đại hội đã biểu thị quyết tâm của đoàn viên, công nhân, viên chức lao độngvà các cấp Công đoàn cả nước tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp.. Câu 4: Đồng chí hãy nêu quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ? Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã chủ trương tuyển chọn những công nhân ưu tú để kết nạp vào Đảng. Năm trong số bảy uỷ viên Trung ương khoá đầu tiên là thuộc thành phần công nhân. Năm 1930, tuy vhỉ có 319 đảng viên nhưng đã có trên 20% là công nhân. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí minh.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> thường nhắc nhở cán bộ: “Xao lãng sự vận động thợ thuyền vào Đảng là một thiếu sót lớn”. Việc quy hoạch cán bộ xuất thân từ công nhân luôn được Đảng rất chú trọng. Nhưng do nhiều nguyên nhân, việc đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt bố trí cán bộ xuất thân từ công nhân còn nhiều điều bất cập. Trong khi chọn nguồn cán bộ từ công nhân đã hạn chế thì việc sử dụng cán bộ là công nhân đã được đào tạo cũng chưa thoả đáng, vẫn còn tình trạng cán bộ nguồn gốc là công nhân sau khi đào tạo vẫn chưa được bố trí hợp lí. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả đào tạo nói chung và tâm tư nhiệt huyết của cán bộ nói riêng. Thực tiễn đòi hỏi cần nhìn nhận một cách khoa học và tìm ra một hướng đi mới cho công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nguồn gốc từ công nhân, lao động. Cán bộ xuất thân từ công nhân hay từ các giai cấp, tầng lớp khác cũng đều là cán bộ của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với dân. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( Khoá VIII ), tháng 6/ 1997, đã nêu rõ những quan điểm của Đảng trong chiến lược cán bộ thừi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; phải kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng, để xây dựng cán bộ cách mạng, để xây dựng các thế hệ cán bộ hiện tại và tương lai; phải thông qua phong trào cách mạng của nhân dân để rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ phải gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng của tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền và xã hội chủ nghĩa của nhân dân, vì dân, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế chính sách. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VII) đã nêu mục tiêu chung về chiến lược cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển biến liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ”. Về hướng lựa chọn, quy hoạch cán bộ , Đảng chú trọng tạo nguồn lãnh đạo, cán bộ quản lý từ những “ công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang ưu tú... Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nêu rõ: “ Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân”. Hội nghị Trung ương lần thứ VI khoá X của Đảng cũng xác định: “ Chú hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển Đảng trong công nhân. Cơ chế, chính sách đẩy mạnh việc tuyển chọn, đào tạo , bồi dưỡng, sử dụng những cán bộ ưu tú xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất, tăng dần tỉ lệ cán bộ xuất thân từ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng, Nhà nước, công đoàn và các tổ chức chính trị – xã hội khác”. Những quan điểm và chủ trương trên là định hướng cho việc quy hoạch và đào tạo cán bộ nói chung cũng như cán bộ xuất thân từ công nhân nói riêng.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> nhằm bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ công tác cán bộ và góp phần giữ vững tính chất giai cấp công nhân của Đảng. Vấn đề quan trọng cần đặc biệt quan tâm khi hoạch định chiến lược xây dựng giai cấp công nhân là nội dung nọi dung chiến lược xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020; căn cứ vào định hướng sau đây: Một là, xây dựng giai cấp công nhân phù hợp với những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế thị trường thế giới và đòi hỏi phát triển kinh tế thị trường định hướng xãhội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những chuyển biến sâu sắc trong kinh tế thị trường hiện đại sẽ trực tiếp tác động đến mô hình phát triển của Việt Nam, từ đó tác động đến giai cấp công nhân. Trong giai đoạn này, Việt Nam phải chủ động, tự giác để đánh giá đúng sự phát triển của quốc gia và vị thế của nước ta trong các nấc thang phát triển của thế giới. Hai là, phát huy chủ nghĩa yêu nước đi đôi với nâng cao cơ sở kỹ thuật sản xuất, trình độ tay nghề tạo ra chất lượng của sự phát triển giai cấp công nhân. Động lực và chất lượng phát triển là hai nhân tố quyết định tính hiện đại và tính dân tộc của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, làn sóng toàn cầu hoá lan toả trên tất cả các mặt, người công nhân Việt Nam phải mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phải kết hợp giữa tính hiện đại và tính dân tộc xây dựng giai cấp công nhân nước ta. Ba là, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp công nhân với toàn dân tộc. Vị trí, vai trò của giai cấp công nhân được thể hiện ở mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với toàn dân tộc. Đây cũng là vấn đề có tính quy luật. Trong kinh tế thị trường, dân tộc hưng thịnh hay suy vong đều có những công lao hay trách nhiệm của giai cấp ở vị trí hàng đầu về kinh tế và chính trị và có tác động ngược lại đối với sự lớn mạnh của giai cấp đó. Bốn là, nâng cao trách nhiệm và vai trò của giai cấp công nhân trong xây dựng hệ thống chính trị nước ta. vị trí và vai trò của giai cấp công nhân không những thể hiện ở năng suất lao động không ngừng tăng nền kinh tế thị trường, mà còn thể hiện ở ý thức xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đủ sức đưa dân tộc vươn lên trong thế kỉ XXI. Hệ thống chính trị nước ta vững mạnh hay không, đất nước có phát triển hay không là nhờ vào sự lớn mạnh của giai cấp cộng nhân, bộ phận có trách nhiệm lớn nhất trong xây dựng thể chế chính xã hội. Năm là, xây dựng giai cấp công nhân nước ta thành lực lượng sản xuất hiện đại đẻ bảo đảm thực hiện mục tiêu đến năm 2020, nước ta thành một nước theo hướng hiện đại. Vì vậy, xây dựng giai cấp công nhân phát triển cao về chất lượng trở thành nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Tổ chức Công đoàn qua thực hiện mục tiêu này mà đổi mới và phát triển. Chỉ có sớm trở thành lực lượng sản xuất hiện đại thì công nhân mới đạt được năng suất lao động cao, mới thúc đẩy sự vận dụng phương thức quản lý tiên tiến. Qua đó, công nhân tăng thêm thu nhập, có điều kiện cải thiện đời sống vật chất và văn hoá, đặc biệt là sự phát triển cá nhân. khi giai cấp công nhân trở.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> thành lực lượng sản xuất hiện đại, có năng suất lao động cao sẽ góp phần chủ yếu vào việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa về kinh tế. Hoạch đinh “Chiến lược xây giai cấp công nhân Việt Nam đến năm 2020” là cần thiết và cấp bách nhằm thực hiện Nghị quyết 20/NQ – TW Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện kiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là một quá trình liên tục và lâu dài, cần có kế hoạch và bước đi thích hợp, gắn với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. nhận thức đúng về vai trò và vị trí của giai cấp công nhân trong tình hình mới, xây dựng và thực hiện các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cải thiện điều kiện lao động, ăn ở nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, đòi hỏi phải có thời giai và phối hợp chặt chẽ, không ngừng của các cấp, các ngành, sự nỗ lực vượt bậc của hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của nhiều thế hệ công nhân.. Câu 5: Đồng chí hày cho biết chiến lược xây dựng giai cấp công nhân của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay ? Liên hệ thực tế Công đoàn cơ sở nơi đồng chí sinh hoạt, công tác ? i. chiến lược xây dựng giai cấp công nhân của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay: 1. Vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Trong thời đại ngày nay, mặc dù có sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức, nhưng vai trò và sứ mệnh lịch sử nói chung của giai cấp công nhân vẫn không thay đổi. Cần phê phán và bác bỏ các quan điểm sai trái cho rằng, trong điều kiện của cách mạng tin học, kinh tế tri thức, giai cấp công nhân bị hoà đồng, hoà tan và đánh mất bản chất của mình, do đó không còn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng nữa. C.Mác đã nói nhiều về giai cấp công nhân, nhưng hiện nay, điều kiện lịch sử cũng như bản thân giai cấp công nhân có những thay đổi, nên nhận thức của chúng ta về giai cấp công nhân hiện đại cũng phải có sự thay đổi mới để phù hợp với sự thay đổi đó. Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức, giai cấp công nhân được tăng thêm tri thức, được trí thức hoá, nên đã và đang xuất hiện một bộ phận công nhân mới được gọi là “công nhân tri thức”. Giai cấp công nhân hiện nay mặc dù được trí thức hoá nhưng vẫn là giai cấp trung tâm, là lực lượng quyết định xu thế tiến hoa của.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> nhân loại. Thực tế cho thấy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; công nhân có trình độ cao ngày càng phát triển và sẽ chiếm tỉ lệ lớn. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xãhội, đội ngũ công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng, Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân – nông dân – tri thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Có thể khẳng định rằng, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong công cuộc đổi mới đó, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta. bản chất giai cấp công nhân có những nét mới, đó là: một bộ phận đã được trí thức hoá, làm chủ; đa số đã hưu sản... Giai cấp công nhân Việt Nam là người lao động sáng tạo, mang bản chất cách mạng và khoa học tham gia lãnh đạo được sự nghiệp đổi mới của đất nước. 2. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là bất di bất dịch và đây cũng là một trong những bài học thành công của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua. Với tư tưởng của Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng (năm 1951): Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân lao động và của dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiên phong của nhân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam đều trân trọng gọi là “Đảng ta”... với hàm ý Đảng là máu thịt, là hạt nhân lãnh đạo của mọi tầng lớp nhân dân. Điều đó càng chứng tỏ, nhân dân lao đông thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đại diện cho lợi ích của chính mình và của toàn thể dân tộc. Có thể nói rằng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân. 3. Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân: Có thể nói rằng, giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta, là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh của giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ tri thức và khối đoàn kết toàn dân, là đội quân tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và thực hiện Chiến lược xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới. Chiến lược đó chỉ có thể thực hiện bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ của Nhà nước, băng tổng hợp các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng. Nhà nước cần chú trọng thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn thành các cơ chế, chính sách,.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> pháp luật; xây dựng môi trường xã hội giải phóng lực lượng sản xuất, tạo mọi điều kiện để công nhân được phát huy hết khả năng của mình, tăng cường chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chính sách, pháp luật đối với giai cấp công nhân. Đi vào cụ thể, Nhà nước cần ban hành và hoàn thiện một loạt chính sách mới như: Ban hành và hoàn thiện chính sách khuyến khích phát triển công nghệ mới vào sản xuất một cách đồng bộ, giảm tình trạng lao động thủ công, nhất là đối với các ngành đòi hỏi công nghệ cao nhằm đào tạo môi trường, điều kiện để công nhân phát triển. Ban hành và đào tạo chính sách đào tạo và đào tạo lại công nhân; khuyến khích tuyển chọn một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là công nhân con em nhiều đời, vào các trường dạy nghề; ưu đãi trong tuyển chọn, sử dụng đối với những công nhân có kết quả học tập cao, có tay nghề giỏi; khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập để nâng cao nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tiếp thị; khuyến khích những công nhân giỏi một nghề biết nhiều nghề; đãi ngộ đặc biệt đối với những công nhân có sáng kiến, kinh nghiệm, tài năng. Ban hành và hàon thiện một số chính sách về bảo đảm xãhội: chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách nhà ở, chính sách bẩo hiểm xã hội... Nhà nước cần đẩy mạnh và thực hiện tốt chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước để 100% công nhân trong các doanh nghiệp cổ phần mua được cổ phần; tổ chức chỉ đạo, thực hiện tốt quy chế dân chủ để phát huy đầy đủ quyền làm chủ trực tiếp của các cổ đông, của công nhân trong các doanh nghiệp thông qua Công đoàn và hội đồng quản trị; tăng cường công tác kiểm tra; giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, bảo hộ lao động; chú trọng cải thiện lao động và bệnh nghề nghiệp, xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khoẻ công nhân, nhất là đối với công nhân nữ, công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại... Đảng và Nhà nước cần lãnh đạo các cấp, các ngành kết hợp hài hoà chính sách đảm bảo xã hội với chính sách khuyến khích xã hội, để hai loại chính sách này bổ sung cho nhau, tạo thành động lực mạnh mẽ khuyến khích mọi người, mọi tập thể công nhân trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề, các lĩnh vực phát triển tài năng trí tuệ. Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là một vấn đề cơ bản và cấp bách, có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với Đảng và chế độ ta. Bởi vây, Đảng luôn luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá X) đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28- 01- 2008). Thực đòi hỏi phải chiến lược xây dựng giai cấp công nhân thực sự là lực lượng hàng đầu trong qua strình phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân cần được hoạch định trên cơ sở nhận thức đầy đủ điều kiện, mội trường công nhân lao động sản xuất sinh sống. Trước hết là phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam, thể hiện ở trình độ, tiánh chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế còn có khoảng cách còn khá xã giữa điịnh hướng xã hội chủ nghĩa ghi trong lối của Đảng với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội. Hiện nay sự phát triển kinh tế làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội: số cuộc đình công của công nhân, số lượng công nhân mất đất và việc làm tăng, tiềm năng đội ngũ tri thức chưa được phát huy, những yếu kém trong giáo dục đào tạo, trong nghiên cứu, triển khai vẫn chưa được giải quyết; môi trường bị ô nhiễm. Hạn chế này cần được xem xét và cân nhắc vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân. Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo số lượng vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhưng giai đoạn tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ phát triển theo chiều sâu, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại lợi ích cho quốc gia dân tộc nhưng cũng mang lại quyền, lợi ích thiết thực cho công nhân và hoàn thiện quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Liên quan đến công nghiệp, công nhâ, vấn đề an sinh xã hội ở nông thôn, đô thị và gia đình của công nhân đang phải đối mặt với nạn về đời sống, việc làm, vấn đề dinh dưỡng cho lao động. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, ngoài tác động tích cực có thể còn gây ra những hậu quả về môi trường. Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, nếu không có biện pháp phòng chống và sớm khắc phục hậu quả sẽ làm cho Việt Nam từ một nước xuất khẩu lương thực sẽ chuyển thành nước nhập khẩu lương thực, trong khi dân số tăng dần lên, tạo ra nguy cơ đói nghèo phổ biến, Điều này ảnh hưởng xấu đến công nha, lao động. Để đảm bảo mục tiêu trong đường lối xây dựng giai cấp công nhân của Đảng, đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Từ năm 2001, đường lối Đại hội IX của Đảng đã xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Định hướng xây dựng Nhà nước đó là đúng đắn, Tuy nhiên, công tác xây dựng Nhà nước chưa có sự tiến bộ rõ rệt, vấn đề cải cách hành chính được thực hiện nhưng vấn nạn quan liêu tham nhũng chưa giảm. Thực trạng đó cản trở mối liên hệ giữa các cấp chính quyền, giữa doanh nghiệp với nhân dân, việc thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch theo đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này gây khó khăn cho việc nắm bắt, giải quyết tâm tư nguyện vọng và sửa đổi bổ sung những bất hợp lí trong chính sách đối với công nhân, lao động. 4. Những chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn: Thứ nhất, Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh tất yếu phải gắn với.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Công đoàn là tổ chức quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động. Bởi vậy, muốn xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, trước hết phải xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Các tổ chức Công đoàn cần đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, kiên quyết khắc phục những phương pháp hoạt động xơ cứng, trì trệ và hiện tượng “hành chính hoá, Nhà nước hoá”. Công đoàn phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng để ngày càng thu hút, động viên được đông đảo công nhân, lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức của mình. Hoạt động của Công đoàn các cấp phải hướng về cơ sở, cụ thể là phải lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động; lấy việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động làm mục tiêu hoạt động. Các cấp Công đoàn phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Công đoàn; chú trọng lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trưởng thành từ phong trào công nhân, nhằm không ngừng năng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh và sự nhiệt tình, năng nổ của cán bộ Công đoàn. Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn. Công đoàn phải là một tổ chức có bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống, mọi bước ngoặt, mọi giai đoạn của cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn biết giáo dục, động viên người lao động, đoàn kết tập hợp mọi lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ trong từng bước đường đi lên cảu cách mạng các cấp uỷ Đảng cần tạo điều kiện cho các tổ chức công đoàn làm tròn vai trò, vị trí của mình trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan, để qua đó Đảng điịnh hướng về mục đích chính trị và tập hợp người lao động trong mặt trận thống nhất rộng rãi, nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân trong hệ thống chính trị. Các cấp uỷ Đảng, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng phải thường xuyên tiếp xúc, làm việc, lắng nghe ý kiến của Công đoàn, của công nhân, viên chức, người lao động: Tôn trọng và phát huy vai trò chủ động và sáng tạo của Công đoàn. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ và xử lí nghiệm những vi phạm đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn vững mạnh. Thứ ba, thường xuyên bảo đảm chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn. Công đoàn phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân, viên chức và người lao động. Nội dung giáo dục là những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; sứ mệnh lịch sử, bản chất và truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân; chủ nghĩa yêu nước. Trước mắt, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Công đoàn phải làm cho giai cấp công nhân và người lao động nhận thức đầy đủ, đúng đắn bối cảnh thế giới và Việt Nam, với sự đan xen của thời cơ và thách thức. từ đó, công đoàn phải tập hợp, động viên giai cấp công nhân và tập thể người lao.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> động đi đầu trong công cuộc đổi mới đất nước; thực hiện bằng được những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra. Mặt khác Công đoàn cần phát huy vai trò của mình trong việc tham gia quản lí, bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần cho Công đoàn viên. ở đây, không có sự quản lí, bảo vệ của Công đoàn cũng đồng nghĩa với không có dân chủ. Để làm tốt điều này cần tập trung vào việc xây dựng Công đoàn cơ sở thực sự vững mạnh, gắn với việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và chính quyền trong sạch vững mạnh. Đồng thời, Công đoàn cần thường xuyên phát huy vai trò làm chủ của công nhân và người lao động ở mỗi cơ sở, cụ thể là tăng cường công tác kiểm tra và giám sát của quần chúng; nắm vững những tâm tư nguyện vọng của quần chúng để giúp Đảng và Nhà nước hoạch định tốt đường lối chính sách. II. Liên hệ thực tiễn tại công đoàn cơ sở: Nhận thức đúng đắn về vai trò, nhiệm vụ của giai cấp công nhân, với trách nhiệm là một Công đoàn viên tôi cho rằng: Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân – nông dân – trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa văn minh. Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức, thì vai trò và sứ mệnh lịch sử nói chung của giai cấp công nhân vẫn không thay đổi, giai cấp công nhân được trí thức hoá và vẫn là giai cấp trung tâm, là lực lượng quyết định xu thế tiến hoá của xã hội. Thực tế cho thấy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; công nhân có trình độ cao ngày càng phát triển. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tưu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong công cuộc đổi mới đó, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là bất di bất dịch và đây cũng là một trong những bài học thành công của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Tư tưởng của Hồ Chí minh đã chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân. Để xây dựng giai cấp công nhân trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tại mỗi cơ quan, đơn vị cần có những chương trình, kế hoạch ngắn hạn, dài hạn để tạo đà phát triển và phát huy vai trò của giai cấp công nhân tại cơ sở mình trong giai đạon mới..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Đối với đơn vị trường Tiểu học Sốp Cộp, về phương diện Nhà nước cần có những chương trình kế hoạch như sau: Xây dựng quy chế đào tạo lại cán bộ công chức, khuyến khích tuyển chọn một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số người địa phương dự thi tại các trường đại học ưu đãi trong tuyển chọn, sử dụng đối với những cán bộ có năng lực công tác, có trình độ chuyên môn giỏi; khuyến khích, tạo điều kiện cho công chức tự học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ; khuyến khích, đãi ngộ đặc biệt đối với những cán bộ công chức có sáng kiến, có kinh nghiệm, tài năng, biết áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn công tác. Thực hiện đúng quy định chính sách về bảo đảm xã hội: Chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách bảo hiểm xã hội... Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, bảo hộ lao động; cải thiện điều kiện lao động, phòng chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; xây và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khoẻ cán bộ công chức nhất là đối với cán bộ nữ, cán bộ làm việc nặng nhọc, độc hại... Kết hợp hài hoà đảm bảo xã hội với khuyến khích xã hội, tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích mỗi tập thể, cá nhân phát triển tài năng trí tuệ. Đồng thời các chương trình kế hoạch của hoạch của đơn vị, cần có những giải pháp xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn cơ sở: Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Công đoàn cơ sở, đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng để ngày càng thu hút, động viên được đoàn viên tham gia tích cực vào các hoạt động của công đoàn. Hoạt động của Công đoàn các cấp phải lấy công đoàn phải lấy công đoàn viên làm đối tượng vận động; lấy việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động làm mục tiêu hoạt động. Công đoàn phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ trình cho Công đoàn viên; nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh và sự nhiệt tình, năng nổ của Công đoàn viên. Công đoàn cần phát huy vai trò của mình trong việc tham gia quản lý, bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần cho Công đoàn viên, đảm bảo thực hiện tốt quy chế dân chủ trong hoạt động Công đoàn cũng như trong hoạt đôngj của đơn vị. Để làm tốt điều này, cần tập trung vào việc xây dựng Công đoàn cơ sở thực sự vững mạnh, gắn với việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò làm chủ của người lao động, cụ thể là tăng cường công tác kiểm tra và giám sát của quần chúng; nắm vững những tâm tư nguyện vọng của quần chúng để giúp Đảng Nhà nước hoạch định tốt đường lối, chính sách. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn cơ sở. Công đoàn phải là một tổ chức bản lĩnh chính trị vững vàng, lấy nhiệm vụ chính trị của đơn vị làm mục tiêu hoạt động của Công đoàn. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng,.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Công đoàn biết giáo dục, động viên người lao động, đoàn kết tập hợp mọi lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ trong từng bước đi lên của đơn vị. Cấp uỷ đảng cần tạo điều kiện cho các tổ chức Công đoàn làm tròn vai trò, vị trí của mình trong quan hệ cơ quan, tổ chức hữu quan; qua đó, chi bộ Đảng định hướng về mục đích chính trị và tập hợp người lao động trong mọi hoạt động của đơn vị, nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân và người lao động. Cấp uỷ Đảng, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của đơn vị phải thường xuyên tiếp xúc, làm việc, lắng nghe ý kiến của Công đoàn, của công nhân, viên chức, người lao động: tôn trọng và phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của công đoàn. Tăng cường công đoàn công tác kiểm tra của cấp uỷ và xử lý nghiêm những vi phạm đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.. Câu 6: Đồng chí hãy viết một bài khoảng 1.500 từ cống hiến ý tưởng hay có ý nghĩa thực tiễn cho hoạt động Công đoàn hặc những kỷ niệm sâu sắc trong hoạt động Công đoàn của đồng chí ? Qua hoạt động Công đoàn và thực tiễn cuộc sống đặt ra bản thân tôi nhận thấy: Mỗi Công đoàn cơ sở cần có những chương trình hành động cụ thể với đơn vị cơ quan mình. Đã từng tham gia công tác công đoàn tại các trường tiểu học trong và ngoài huyện Sốp Cộp để nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở của nhà trường đi lên cần thực hiện tốt các điều sau: 1. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ đắc lực cho đổi mới công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan đơn vị: - Đội ngũ cán bộ, viên chức nhìn chung có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết tận tuỵ với nghề nghiệp. Ngoài những biện pháp, hình thức tổ chức tuyên truyền giáo dục của đoàn viên, lao động mang tính chất truyền thống, Ban Chấp hành cơ sở cùng với lãnh đạo đơn vị tổ chức các hoạt động như tuyên truyền các Nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước thông qua các buổi học tập chính trị, thời sự và các buổi sinh hạot Công đoàn nhằm nâng cao nhận thức về đường lối quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong mỗi cán bộ, công nhân, viên chức trong toàn trường. Tổ chức tốt các ngày lễ lớn như: Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3/ 2, ngày Quốc tế phụ nữ 8/ 3, ngày 26/ 3, ngày giải phóng miền Nam 30/ 4, ngày Quốc tế lao động 1/ 5, ngày truyền thống Công đoàn 28/ 7, ngày Quốc khánh 2/ 9, ngày phụ nữ việt Nam 20/ 10, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/ 11, ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam 22/ 12,... - Triển khai quán triệt đầy đủ các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh, Liên đoàn lao động huyện, Công đoàn phòng giáo dục đến các công đoàn viên. Năng cao sự hiểu biết về các chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước, tạo nên lòng tin vào.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Đảng, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Công đoàn phối hợp với chính quyền xây dựng các biện pháp để nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ chuyên môn cho đội ngũ công nhân, viên chức. Chủ động tham gia với chính quyền xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, xây dựng chế độ chính sách nội bộ để tạo điều kiện cho cán bộ viên chức đi học để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị. - Bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ quản lý của đơn vị trường cũng như Công đoàn bằng những hình thức đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý Nhà nước. 2. Chăm lo ổn định cuộc sống cán bộ viên chức và an toàn lao động – phòng chống cháy nổ: - Phối hợp với chính quyền xây dựng và hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; phân công lao động hợp lý, tổ chức các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sử dụng phương pháp dạy học hiện đại trong trường học. - Tham gia tích cực và có trách nhiệm trong các hội đồng ở các đơn vị cơ sở về những vấn đề có liên quan tới quyền lợi hợp pháp và chính đáng của người lao động. - Lập quỹ hỗ trợ vào các mục đích như cho đoàn viên Công đoàn có hoàn cảnh khó khăn vay khi sửa chữa nhà cửa, ốm đau, hoạn nạn... - Tổ chức các dịp, tham quan, hội thi tuyên truyền luật giao thông, văn nghệ quần chúng của huyện, giao lưu nhằm học hỏi, nâng cao sự hiểu biết của đoàn viên Công đoàn trong nhà trường. - Thường xuyên tổ chức tốt các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao lôi cuốn được nhiều người tham gia và người xem tạo không khí vui tươi, phấn khởi đoàn kết trong đơn vị. - Tổ nữ công thường xuyên có những hoạt động bổ ích thu hút được đông đảo chị em tham gia. - Tổ chức công tác giảng dạy, tham gia tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, về đổi mới phương pháp dạy học, phát động phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. Tổ chức thao giảng qua các đợt thi đua do nhà trường và phòng giáo dục phát động. - Thực hiên tốt môi trường “Xanh, sạch, đẹp an toàn vệ sinh lao động – phòng chống cháy nổ” tại đơn vị như: trồng cây xanh, gìn giữ vệ sinh môi trường trong khuôn viên trường học. Chấp hành tốt quy định phòng chống cháy nổ, trang thiết bị phương tiện, thiết bị phòng chống cháy và chữa cháy tại đơn vị. 3. Tổ chức tốt các phong trào thi đua, thực hiện tốt các công cuộc vận động mang tính xã hội rộng lớn, dân chủ hoá trong đơn vị:.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> - Phối hợp với chính quyền tổ chức hội nghị cán bộ viên chức, thể hiện rõ vai trò kiểm tra, giám sát và động viên quần chúng phát huy tinh thần làm chủ trong xây dựng đơn vị, đóng góp các biện pháp khắc phục các yêu kém tồn tại. - Dân chủ cơ sở phải được cụ thể hoá trong các lĩnh vực hoạt động ở các đơn vị thông qua các cuộc họp hàng tháng ( Đảng – chính quyền – Công đoàn). các hoạt động trong nhà trường được công khai. Mọi ý kiến đóng góp được chuyển đến phòng giáo dục - đào tạo. - Tham gia tích cực trong các đợt vận động trong xã hội như: ủng hộ đồng bào bị thiên tai, ủng hộ nạn nhân bị chất độc màu da cam, quỹ vì người nghèo... Sốp Cộp, ngày 27 tháng 04 năm 2009 Người viết:.

<span class='text_page_counter'>(30)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×