Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Mot cach hieu ve tho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.27 KB, 35 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Một cách hiểu về thơ Thơ, thơ ca hay thi ca, là một khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài. Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh. Sự tương tác giữa tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và triết khúc. Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có một con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh tróng liên tưởng giữa những hình ảnh quan sát được với những gì vốn có trước đây. Tính nhạc trong thơ là một hình thức làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi người nghe hay người đọc và sức cảm nhận nhanh tróng này tương tự như hiệu ứng của việc xem phim và nghe âm nhạc trong phim hòa quyện với nhau cùng một lúc. Câu chữ trong thơ văn, hay trong ngôn ngữ, giúp con người tái tạo lại hình ảnh mà nó miêu tả, song âm thanh và vần điệu của các từ lại gây cảm xúc về âm nhạc. Sự kết nối khéo léo giữa hai tính chất này của ngôn ngữ thúc đẩy sự tìm tòi các từ có âm thanh hay, xác thực với tình cảm người viết muốn truyền, đồng thời tìm tòi những từ mới. Tính âm nhạc còn thể hiện trong việc sử dụng các từ diễn tả âm thanh như "rì rào", "vi vút", "ầm ầm", "lanh canh" v.v. Chính vì tính chất này, việc làm thơ nhiều khi tương tự như việc làm toán, hoặc việc bài binh bố trận trong quân sự, mà bài toán hay kẻ thù phải chinh phục chính là cảm xúc của họ, và câu chữ hoặc từ là phép toán hay lực lượng quân đội mà họ có, và người làm thơ phải nhanh chóng tìm ra phương pháp biểu tả tình cảm của mình dưới một hình thức cô đọng, hợp lý, với một số lượng từ rất nhỏ. Để lùng tìm những câu, chữ, từ, nghĩa nhanh chóng, người làm thơ thường phải kinh qua một quá trình luyện tập lâu dài, bằng cách đọc sách, học cách biểu tả tình cảm của mình bằng những câu chữ ngắn gọn, đồng thời có cảm quan nhạy bén với ngữ nghĩa của từ được dùng. Thơ còn đòi hỏi tính phân tích các từ nghép và cô đọng từ. Chính vì thế, nhiều khi do làm thơ, người làm thơ dễ rơi vào.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> tình trạng liên tưởng giữa từ của nghĩa này sang từ của nghĩa khác. Khi được dùng trong thơ, người ta còn gọi là sự "chơi chữ". Tính hội họa trong thơ, hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ bản. Người làm thơ, trước khi viết thơ, thường rơi vào tình trạng mà người ta gọi là "cảm hứng". Trong tình trạng này, các hình ảnh thu được trong trí nhớ, có thể bao gồm cả các khung cảnh ở bên ngoài quan sát được, liên kết với nhau, tạo nên một thế giới nhỏ bé. Hình ảnh có thể rõ đến mức người ta gần như cảm thấy có thể động vào những vật thể, ngửi thấy mùi vị, thấy sự chuyển động của vật thể, thấy màu sắc v.v. Người làm thơ sẽ sống trong thế giới ấy trong khi họ đang nghĩ về bài thơ, họ sẽ đi lại, vào các góc của thế giới của mình, nhìn rõ hơn các vật cảnh, liên kết thêm những màu sắc, những chuyển động, những dãy liên tiếp của các sự kiện xảy ra, hay nói cách khác, họ xa rời cái thế giới mà họ đang sống. Chính vì hiện tượng này, người ta có câu nói đùa, chỉ các nhà thơ là thơ thẩn, nằm mơ hay mơ mộng như người ở trên cung trăng. Đây là một hiện trạng có thật. Sự hưng phấn do được sống trong thế giới riêng của mình, được xắp đặt nó theo ý riêng của mình, được thêm thắt, chắt lọc, được cho các vật chuyển động, xoay quanh các vật, chiêm ngưỡng chúng, cảm giác chúng v.v. gây nên sự ham mê, thôi thúc người làm thơ tiếp tục sống và diễn tả lại chúng bằng từ ngữ. Không những quan sát và diễn tả không thôi, họ còn phải nâng sự quan sát của họ lên đến một mức độ nhạy bén, hoa mỹ, không tầm thường - đây chính là sự khác biệt giữa thơ và truyện hay với các loại hình nghệ thuật khác. Một số cách dùng từ để thể hiện:. Quan Cách diễn tả thường sát thấy. Cách diễn tả có tính thơ hơn. mưa. ảm đạm, xối xả, rầu rĩ. thì thầm, lõm bõm, quất mặt, vắt nước, bạc trời đất, xiên ngang trời. buồn. thảm, rầu, ơi là buồn, héo hắt, tênh. lãng đãng, nham nhở, đặc sệt, nhỏ giọt, thở khói đen, bám rễ, đeo trên ngực. hoa. chúm chím, nứt ra, ngóc đầu, nhảy nở, thắm, thơm lừng, múa, hát vị ngọt, phanh lồng ngực tỏa thơm ngát, thơm nồng hương.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ. Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ mộng. Có những hình ảnh khắc khổ, vuông thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ xộ, đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người làm thơ lúc họ viết. Một trong những ví dụ về hình ảnh có thể tìm thấy trong tập Truyện Kiều của Nguyễn Du[1]: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Do ảnh hưởng của quan niệm hội họa dưới thời người làm thơ còn sống, Nguyễn Du thường sử dụng phong thái thủy mặc trong thơ của mình. Phong cảnh đơn sơ, chấm điểm, phác thảo và nhẹ nhàng, nhưng không kém sức quyến rũ. Một câu khác của Bà Huyện Thanh Quan: Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Hay Nguyễn Khuyến: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Hay gần đây hơn của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài Nghe thầy đọc thơ: Em nghe thầy đọc bao ngày Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà Mái chèo nghiêng mặt sông xa Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa Không chỉ là những hình ảnh đẹp, tĩnh tại, hình ảnh trong thơ còn động đậy, hoạt bát. Người đọc thơ vừa hình tượng được vật thể, vừa thấy màu sắc, vừa thấy sự chuyển động của chúng. Chính vì lý do này, nhiều khi các vật được miêu tả trong thơ được nhà thơ cho thêm tính "hoạt họa" của nó, hay còn gọi là "nhân cách hóa". Dùng động từ cho những vật tưởng là vô tri, vô giác cũng giống như việc thổi sức sống vào trong vật thể, làm nó sống động trong đầu người đọc thơ. Chẳng hạn Trần Đăng Khoa đã viết trong bài Mặt bão: Bão đến ầm ầm.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Như đoàn tàu hỏa Bão đi thong thả Như con bò gầy Hay trong bài "Góc Hà Nội" Nắng tháng tư xỏa mặt Che vội vàng nỗi nhớ đã ra hoa. .. Thành phố ngủ trong rầm rì tiếng gió Nhà ai quên khép cửa Giấc ngủ thôi miên cả bến tàu[2] Đương nhiên khi đọc những câu thơ trên, chúng ta còn thấy tính ẩn dụ, so sánh hình ảnh. Tính tương đương của hình ảnh làm cho người đọc dễ liên tưởng hơn, đặc biệt khi để miêu tả một trạng thái với nhiều chi tiết mà tính chắt lọc của thơ không cho phép người ta được rườm rà. Ví von, ẩn dụ còn gây hiệu ứng về các trạng thái tình cảm, chẳng hạn như người ta cảm thấy những vật vô tri, vô giác, hay những hoàn cảnh tự nhiên bỗng trở nên đáng yêu hơn, ngộ nghĩnh hơn, đáng ghét hơn, hay đáng sợ hãi hơn v.v. Những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh thường thấy trong các bài thơ của thiếu nhi làm, chẳng hạn mấy câu thơ Khoa làm lúc 9 tuổi trong bài Buổi sáng nhà em: Ông trời nổi lửa đằng đông Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay .. Chị tre chải tóc bên ao Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương Bác nồi đồng hát bùng boong Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà Song nó cũng xuất hiện trong những bài của những nhà thơ lớn tuổi. Ví dụ Nguyễn Mỹ trong bài Con đường ấy[3]: Nắng bay từng giọt - nắng ngân vang Ở trong nắng có một ngàn cái chuông.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Hoặc Hàn Mặc Tử trong bài Một Nửa Trăng: Hôm nay chỉ có nửa trăng thôi Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi Đặc biệt tính ví von trong thơ Hồ Xuân Hương gây nhiều trạng thái tình cảm nửa hư, nửa thực, gần như trêu chọc người đọc, như trong bài Đánh Cờ: Quân thiếp trắng, quân chàng đen, Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa. Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa, Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên. Hai xe hà, chàng gác hai bên, Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ. Hay trong bài Ốc nhồi (thơ Hồ Xuân Hương): Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi, Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi. Quân tử có thương thì bóc yếm, Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. Nếu hình ảnh trong đầu của nhà thơ không sống động, thì người đọc thơ cũng không có cảm quan sống động của bài thơ. Sự tương tác giữa họa, nhạc trong thơ có thể gần như tương tự với sự đóng góp của họa sĩ, nhạc sĩ, hay nói cách khác, sự dàn dựng một bộ phim, và người họa sĩ, nhạc công, đạo diễn phim v.v. tất cả đều chỉ bởi nhà thơ với ngòi bút và những từ ngữ trong một hệ thống ngôn ngữ mà ra. Cách sử dụng dùng hình ảnh động đậy bằng việc cho thêm các động từ cũng thường được thấy trong các bài thơ Đường, đặc biệt là trong các vế đòi hỏi tính đối lập. Chẳng hạn Hồ Xuân Hương trong bài Lên chơi đông sơn tự: Đông Sơn cảnh chiếm một hồ riêng, Uyên báu bay về, khói pháp chen, Đá núi điểm đầu, mưa phất xuống, Ngàn hoa nở rộ, gió tung lên, Đế Bà hương hỏa thơm bên xóm, Trịnh Chúa xe qua vết cũ còn, Cứu độ bè từ qua bể khổ, Chim âu ngủ đứng bến ngư thôn..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Một điểm khá quan trọng trong phim ảnh, nhạc, thơ hoặc bất cứ một hình thức nghệ thuật nào là tính lôgic của các sự kiện. Sự phát triển của các hình ảnh từ nhỏ đến lớn, từ trầm đến thanh, từ mịn màng đến gồ ghề v.v. phải luôn luôn được cân nhắc. Người đọc thơ bị lôi cuốn một phần cũng vì tính lôgic của nó. Rất nhiều bài thơ, ngay cả của những thi sĩ nổi tiếng, do sắp xếp các hình ảnh trong thơ thiếu tính lôgic mà bài thơ của họ không được mấy người để ý. Những hình ảnh đẹp họ gợi lên, hay những tương tác giữa các nhân vật trong thơ, cũng như tiến trình dẫn đến cao trào không có một sự phát triển lôgic nhất định, gây cảm giác bấp bênh, lõm bõm, và rời rạc cho người đọc. Nhạc trong thơ, hay sự tiến trình của cao trào cũng như thuôi trào trong thơ, cũng tương tự như tiến trình của âm nhạc, đòi hỏi phải theo cung, theo nhịp và theo sự tiến triển của thời gian. Trong hội họa tiến trình này còn được hiểu như tiến trình của các gam màu, đồng dạng hoặc đối lập. Thơ không phải là một tổ hợp của các hình ảnh lộn xộn, song là một chuỗi các hình ảnh được gắn lại với nhau theo một quá trình sắp đặt hợp lý, không kể tính thuận nghịch. Chính vì đặc tính này, người làm thơ, hay các nhà thơ, còn có thể được gọi là các "nghệ sĩ". Họ không chỉ là người biết nhiều từ vựng, biết mường tượng phong cảnh giỏi, song họ là người biết sắp xếp các sự kiện hợp lý, và các bài thơ của họ tái tạo lại tình cảm, tái tạo lại sự kiện trong đầu người đọc nhanh tróng và gắn bó, như sự phát triển tình cảm của họ khi họ viết một bài thơ. Nắm bắt được sự phát triển tình cảm của mình, gây dựng được cao trào đòi hỏi nhà thơ gần như có thêm một bản sao của chính mình. Họ phải quan sát cảm quan và sự tiến triển tình cảm của chính bản thân, ghi nhớ chúng và viết lại. Cảm quan của nhà thơ, sự hội tụ của các sự kiện bên ngoài, tính triết lý v.v. đều ảnh hưởng bởi ngoại cảnh và môi trường xã hội. Không một nhà thơ nào không bị ảnh hưởng của điều kiện chính trị, lịch sử, phong cách suy nghĩ của thời đại khi họ còn sống. Tứ thơ, hay ý tứ của bài thơ, là tình cảm, hình ảnh chủ đạo mà bài thơ muốn truyền đạt. Phong cách là cách trọn từ, cách diễn đạt ý tưởng của mình, chẳng hạn: ngộ nghĩnh, đơn sơ, mộc mạc, đơn giản, thanh thoát, gồ ghề, góc cạnh, mỉa mai, châm biếm, hoặc là cao thượng, đầy tính triết lý v.v. Cấu tứ của bài thơ là cấu trúc và ý tưởng gộp lại. Cách sắp xếp các câu thơ, sự sắp xếp của bài thơ, luật sử dụng trong bài thơ, vần điệu và tính nhạc đều là một phần của cấu tứ. Để có một cấu tứ tốt, người làm thơ thường phải nâng tầm mắt mình cao hơn tình cảm của mình, bao quát toàn bộ bài thơ, làm chủ chính tác phẩm của mình. Một điểm nữa khá quan trọng, song lại có thể là lỗ hổng lớn nhất trong tất cả các bài bàn luận về thơ là dư âm. Dư âm là cảm quan người đọc có được sau.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> khi đọc một cụm từ, một câu thơ, một đoạn thơ, hay một bài thơ. Tuy nguồn gốc của dư âm là ở bản thân cấu kết của các từ, cách sử dụng từ, của âm thanh và hình ảnh do các từ tạo ra, song kết quả của dư âm còn do ảnh hưởng của tâm trạng người đọc, cảm quan của người đọc, hay nói cách khác, khả năng cảm nhận của người đọc. Sở dĩ dư âm là một lỗ hổng lớn là vì tính khó bao trùm được của bất cứ một bàn luận nào về khía cạnh này. Có thể nói dư âm là kết xuất của cảm quan của người viết thơ cộng với cảm quan của người đọc thơ. Tạo được dư âm như mình mong muốn là cái thần của người làm thơ. Nó cũng tương tự như cảm quan của người nghe âm nhạc, sau khi nghe một đoạn nhạc. Tính mỹ thuật và âm hưởng của bài thơ, của đoạn nhạc là cái làm cho người ta nhớ và mến trọng. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà thơ dùng ngoại cảnh để nói nội tình hơn là phân tích tình cảm nội tâm, tức là đi gián tiếp hay hơn là đi trực tiếp, hay lấy cái chung để nói cái riêng tư hay hơn là lấy cái riêng tư để nói cái riêng tư. Dư âm còn có thể là cái hương vị của bài thơ, từ đó người đọc cảm nhận được phong thái, cái hay cái đẹp trong tâm tư của nhà thơ. Nếu tôi nói hoa thơm thì người đọc chưa chắc đã cảm thấy hoa thơm, nhưng nếu tôi nói thoảng đưa trong không gian thì người đọc thấy cái gì nhè nhẹ, hình dung được cái hương bay. Hay nói cách khác, người làm thơ không diễn tả những gì hiển hiện trước mặt, không nói những gì hiển nhiên vốn có, bằng ngôn ngữ cửa miệng, đầu lưỡi, tức là thứ ngôn ngữ vẫn dùng thường ngày, song dùng một cách khác, gián tiếp chỉ đến điều mình muốn nói. Một trong những ví dụ là cách dùng hình ảnh cái bàn với những cái ghế trống rỗng trong vở nhạc kịch "Những người khốn khổ", phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Victor Hugo. There's a grief that can't be spoken. There's a pain goes on and on. Empty chairs at empty tables Now my friends are dead and gone. ... Phantom faces at the window. Phantom shadows on the floor. Empty chairs at empty tables Where my friends will meet no more. Tạm dịch: Có những nỗi thương tiếc không bật được thành lời..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Có những nỗi đau lê gót chẳng dừng. Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không Những người bạn của tôi giờ đã chết và không còn nữa. ... Ảo ảnh của những gương mặt ngoài cửa sổ. Những bóng ma trên sàn nhà. Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không Nơi những người bạn của tôi không còn gặp nhau được nữa. Nếu cộng những câu trên với bản nhạc hát chúng thành bài hát thì dư âm là những giọt nước mắt trào ra. Như vậy việc dùng hình ảnh gián tiếp để nói cái nỗi đau ở trong lòng có tác động mạnh hơn, có sức truyền cảm lớn hơn, hơn là chỉ đơn giản nói "những người bạn của tôi chết cả rồi". Làm thơ là một việc khó và không phải ai cũng có thể làm được. Nhiều khi người ta cho rằng khả năng làm thơ là một thiên phú, trời cho và thường gây cảm xúc thán phục nếu ai đó có khả năng "xuất khẩu thành thơ". Đương nhiên khi làm thơ, người làm thơ phải có hiểu biết và một trí tuệ nhất định, song kể cả khi dùng trí tuệ thì trí tuệ của người làm thơ cũng bị cảm xúc của tình cảm chủ quan chi phối. . . Thơ là thể loại văn học lấy cảm xúc, lấy trí tuệ súc tích được diễn đạt theo hình thức có vần điệu hoặc tự do (không vần điệu). Trong việc sáng tác các thể loại văn học thì nhà thơ là người cần thiên phú nhất, cho nên ít khi do học mà làm được thơ hay, dù nếu đã làm được thơ hay và cũng được học thì vẫn tốt hơn. Thơ tồn tại như một loại thể văn học, còn "chất Thơ" hay "chất Thi ca" thì tồn tại ở nhiều loại hình, loại thể văn nghệ và trong thiên nhiên nói chung. Ví dụ một phong cảnh đẹp, một không khí môi trường gợi cảm xúc thi ca - như mùa thu vàng, chiều đông tuyết nhẹ rơi lãng đãng, khi tiễn hay đón gặp lại người thân sau nhiều năm xa vắng... làm cho tâm hồn tràn lên cảm xúc trữ tình, khiến ta như muốn ca lên, hát lên để biểu lộ một cái gì đó dạt dào hay xao xuyến.. Nói tóm lại thi ca là tất cả những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối của cảm xúc rung động đa dạng của con người. Khi nào bạn còn những rung động đó, nghĩa là tâm hồn bạn còn chất thi ca, còn khiến bạn sống có ý nghĩa hơn trên cõi đời này. Thơ, ngoài đặc điểm đó, lại là một nghệ thuật tuân theo các tính chất riêng của thể loại này - trong đó yếu tố trời cho làm.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> thơ là số một. Những tính chất riêng của thể loại thơ là một vấn đề lớn, mà muốn hiểu nó chúng ta cần tham khảo từ nhiều nguồn như các giáo trình văn học, cũng như các nguồn khác. [sửa] Phân tích [sửa] Âm [4] Bài chi tiết: Tiếng Việt Âm (sound) do sự nhóm họp của một hoặc nhiều nguyên âm tạo nên. Những âm gần giống nhau, không kể các phụ âm đứng trước hay đứng sau hay sự tác động của các dấu gây sự trầm bổng của âm, tạo nên vần trong thơ. Chẳng hạn, âm đơn: à, ca, cha, đá, lá, ta âm kép: biên, chiêm, chuyên, xuyên Bảng phân các loại âm sau đây được trích từ Hệ thống thanh trong tiếng Việt (Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm): Loại thanh. Bằng. Trắc. Tên các thanh. Dấu chỉ thanh. Chua thêm. phù bình thanh không có dấu trầm thượng thanh dấu huyền phù thương thanh trầm thương thanh phù khứ thanh trầm khứ thanh. ngã (~) hỏi (?) sắc (') nặng (.). phù nhập thanh trầm nhập thanh. sắc (') nặng (.). riêng cho các tiếng đằng sau có phụ âm ch, p, và t.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ. [sửa] Vần Vần (rhyme) là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ. Có hai loại vần:  . vần bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — ba, bà vần trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — bả, bã, bá, bạ. Chữ "đấy", "cấy" cùng phát ra một âm "ây" song đều thuộc trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" và thuộc bình thanh. Vần thể còn được quan niệm là vần giàu hay nghèo: . . Vần giàu (hay còn gọi là Vần Chính): những chữ có cùng âm và thanh o Thanh bằng: Phương, sương, cường, trường o Thanh trắc: Thánh, cảnh, lãnh, ánh Vần nghèo (hay còn gọi là Vần Thông): đồng thanh nhưng với âm tương tự o Thanh bằng: Minh, khanh, huỳnh, hoành o Thanh trắc: Mến, lẽn, quyện, hển. Ví dụ hai câu dùng Vần Chính: Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông[5] Cưỡng vận Khi hai vần là Vần Thông với nhau mà thôi. Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san Lạc vận Khi hai vần không thuộc Vần Chính hay Vần Thông. Người về chiếc bóng năm canh Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Trong thơ Việt, có hai cách gieo vần . Gieo vần ở giữa câu (Yêu Vận hay "vần lưng"): Chữ cuối của câu trên vần với một chữ nằm bên trong câu dưới như trong thể thơ lục bát, chữ cuối câu có sáu chữ vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ sau đó. Chẳng hạn Nguyễn Du truyện Kiều (1(6)-2(6)) (2(8)-3(6)) (3(8)-4(6)) (4(8)-..): Người về chiếc bóng năm canh Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi Vầng trăng ai xẻ làm đôi? Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. . Gieo vần ở cuối câu (Cước Vận hay "vần chân"): Các chữ ở cuối câu vần với nhau. Vần tiếp các cặp trắc bằng xen kẽ tiếp nhau. Chẳng hạn Xuân Diệu trong Tương Tư Chiều (2,3) (4,5) (6,7): 1. Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm, 2. Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em. 3. Không gì buồn bằng những buổi chiều êm, 4. Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối. 5. Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối; 6. Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành; 7. Mây theo chim về dãy núi xa xanh 8. Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ. 9. Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ. Vần tréo Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ ba và chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư. Chẳng hạn Anh Thơ trong bài Tiếng chim tu hú (1,3) (2,4): 1. Nắng hè đỏ hoa gạo 2. Nước sông Thương trôi nhanh 3. Trên đường đê bước rảo 4. Gió nam giỡn lá cành.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Nhiều khi chỉ cần chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư mà thôi. Chẳng hạn Quang Dũng trong bài Đôi bờ (2,4): 1. Xa quá rồi em người mỗi ngả 2. Bên này đất nước nhớ thương nhau 3. Em đi áo mỏng buông hờn tủi 4. Dòng lệ thơ ngây có dạt dào? Vần ôm Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ tư và chữ cuối câu hai vần với câu thứ ba. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược lại. Chẳng hạn Nguyên Sa trong Áo lụa Hà Đông (1,4) (2,3): 1. Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát 2. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông 3. Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng 4. Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng Vần ba tiếng Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu một, câu hai và câu thứ tư vần với nhau. Câu ba khác vần. Chẳng hạn Thâm Tâm trong Tống Biệt Hành (1,2,3). 1. Đưa người ta không đưa qua sông 2. Sao có tiếng sóng ở trong lòng? 3. Bóng chiều không thắm không vàng vọt 4. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? Cách gieo vần dùng chữ cuối cùng của câu cũng xuất hiện trong các bài thơ của châu Âu, chẳng hạn như hai câu trích trong bài On His Being Arrived to the Age of Twenty-three của nhà thơ người Anh John Milton (tiếng Anh): That I to manhood am arrived so near, And inward ripeness doth much less appear, Hay tạm dịch là: Tuổi thành xuân đến quá nhanh Đã nào một chút trưởng thành trong tôi Ở đây âm "ia" (của near và appear) được dùng để làm vần nối hai câu thơ. [sửa] Điệu [6].

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Điệu (rhythm), hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được chọn và nhịp điệu ngắt câu. Nhạc trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần, tiết tấu và từ. Thơ lục bát, ca dao là một thể loại giàu nhạc tính. . . . Âm hưởng của vần: (a)- Vần bằng thường gây cảm giác nhẹ nhàng, mềm mại. Gió mơn man sợi nắng mành Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài Dương gian hé rạng hình hài Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi[7] (b) - Vần trắc thường gây cảm giác mạnh mẽ, động đậy, tỉnh thức. Gió mơn man sợi nắng mành Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài Dương gian hé rạng hình hài Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi Tiết tấu của câu: Tiết tấu là nói đến cái nhịp, cái điệu của câu thơ. dựa vào chỗ ngắt đoạn, tức chỗ chia câu thành từng vế, mỗi vế có nghĩa trọn vẹn. Đó là nhịp dài (--), khi ngâm người ta ngừng lại ngân nga lâu một chút. Ngoài ra, trong mỗi vế, khi ngâm tùy theo hứng, người ta cũng có thể ngừng lại ngân nga ngắn hơn ở những chỗ vế chia thành từng bộ phận, đó là nhịp ngắn (-). Dương gian (-) hé rạng (-) hình hài (--) Trời (-) se sẽ lạnh (-), đất ngai (--) ngái mùi(--) Nhịp trong thơ: tạo nên do sự phân định của câu và của từ, tương tự khi viết cho dấu phẩy, khi đọc ngưng hơi. Nhịp (4/4) - (2/2/2/2) Em ngồi cành trúc (--) em tựa cành mai (--) Đông đào (-) tây liễu (-) biết ai (-) bạn cùng (--) Nhịp (2/2/2) - (2/2/2/2) Trời mưa (-) ướt bụi (-) ướt bờ (-) Ướt cây (-) ướt lá (--) ai ngờ (-) ướt em (--) Nhịp (2/4) - (2/2/2/2) Yêu mình (--) chẳng lấy được mình (--) Tựa mai (-) mai ngã (--) tựa đình (-) đình xiêu (--) Nhịp (2/4) - (4/4) Đố ai (-) quét sạch lá rừng (--) Để ta khuyên gió (--) gió đừng rung cây (--).

<span class='text_page_counter'>(14)</span> . Nhịp (2/4) - (2/4/2) Hỡi cô (-) tát nước bên đàng (--) Sao cô (-) múc ánh trăng vàng (--) đổ đi (--) Nhịp (4/2) - (2/4/2) Trách người quân tử (-) bạc tình (--) Chơi hoa (--) rồi lại bẻ cành (--) bán rao (--) Nhịp (3/2/2) - (4/3/2) Đạo vợ chồng (-) thăm thẳm (-) giếng sâu (--) Ngày sau cũng gặp (--) mất đi đâu (-) mà phiền (--) Nhạc tính của từ: Theo ngữ học, mỗi từ đơn của ta thường là một âm tiết, khi phát lên nhẹ hay mạnh, trong hay đục là tùy theo vị trí phát âm của nó trong khẩu cung (kể từ môi đến cuống họng, kể cả độ mở của miệng). Một từ được phát lên tại vị trí nào trong khẩu cung là phải chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố tạo nên nó: nguyên âm, phụ âm đầu, phụ âm cuối và thanh. Vì thế từ nào có: 1. nguyên âm bổng như: i, ê, e 2. phụ âm vang như: m, n, nh, ng 3. thanh bổng như: không dấu, dấu sắc, dấu hỏi, thì từ được phát ra, âm sẽ cao, trong và nhẹ. Ngược lại, từ nào gặp phải : 1. nguyên âm trầm: u, ô, o, 2. phụ âm tắc: p, t, ch, c, và thanh trầm: dấu huyền, dấu ngã, dấu nặng thì từ phát ra âm sẽ đục và nặng. Sự trong đục của các từ ngắt nhịp trong câu, và nhất là của các từ dùng làm vần có ảnh hưởng nhiều nhất đến nhạc tính của thơ. Hôm qua (-) tát nước đầu đình (--) Bỏ quên cái áo (-) Trên cành hoa sen (--) Em được (--) thì cho anh xin (--) Hay là (-) em để làm tin (-) trong nhà. (--) Những từ ngắt nhịp và những từ dùng làm vần trong 4 câu thơ này hầu hết đều có những yếu tố tạo nên âm vang và trong, nên nhạc thơ nghe vui, diễn tả được tình cảm trong sáng, yêu đời của chàng trai ở đây. Nụ tầm xuân (-) nở ra xanh biếc. (--) Em đã có chồng (--) anh tiếc (-) lắm thay. (--) Âm “iếc” trong 2 từ “biếc” và “tiếc” lấy làm vần ở đây có 2 nguyên âm bổng (iê) vút cao với thanh sắc cũng thuộc loại thanh bổng nhưng.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> đã bị đứt hơi, tắc nghẽn bởi phụ âm cuối ‘c’, được mệnh danh là âm tắc, nên khi đọc lên nghe như tiếng nấc, nhạc thơ vì vậy chậm lại, nghe nghẹn ngào, tức tưởi. Như thế, vần “iếc” ở đây gieo rất đắt, đã cực tả được nỗi tiếc nuối đứt ruột của chàng trai khi trở lại chốn cũ, gặp lại người xưa, tình mình thì đang nồng, người mình yêu lại quá đẹp, nhưng than ôi muộn mất rồi, vì nay nàng đã là gái có chồng! Yêu ai tha thiết, thiết tha Áo em hai vạt trải ra chàng ngồi. Đôi khi để đảm bảo cho nhạc tính của câu ca dao (âm luật, âm vận), những âm tiết của từ kép có thể đảo ngược vị trí. Như câu ca dao trên hai âm tiết “tha thiết” được đảo thành “thiết tha” vì thể lục bát chỉ gieo vần bằng (tha, ra). Thơ hoặc ca dao hay sử dụng từ láy, nhờ sự lập lại toàn thể hay một số yếu tố của từ gốc mà từ láy khi phát âm, hai điểm phát âm sẽ trùng nhau (từ láy hoàn toàn) hay tiến sát gần nhau (từ láy không hoàn toàn) tạo thành một chuỗi hòa âm, giúp cho nhạc điệu của thơ vừa phong phú, vừa tăng uyển chuyển, nhịp nhàng. [sửa] Luật [8] Luật làm thơ (rule) : Vần bằng được ký hiệu bằng B, vần trắc được ký hiệu bằng T, vần không theo luật để trống. [sửa] Thơ lục bát Bài chi tiết: Thơ lục bát Câu số. Vần. 1. BBTTBB. 2. BBTTBBTB Chữ thứ. 1 2 3 4 5 6 7 8. Ông trời nổi lửa đằng đông Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Biệt lệ Tuy luật bằng trắc đã qui định như ở trên, nhưng những chữ thứ 1, thứ 3 và thứ 5 nếu không theo đúng luật thì cũng không sao. Cái biệt lệ ấy được gọi là "nhất, tam, ngũ bất luận", có nghĩa là chữ thứ 1, chữ thứ 3 và chữ thứ 5 không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật. Còn các chữ thứ 2, chữ thứ 4, và chữ thứ 6 bắt buộc phải theo đúng luật (phân minh), do câu "nhì, tứ, lục phân minh". Những ô để trống là những ô không theo luật. Câu số. Vần. 1. B. T. B. 2. B. T. B. Chữ thứ. B. 1 2 345 6 7 8. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Phá Luật Thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp người làm thơ thích phá luật ở chữ thứ hai câu 6, thay vì vần bằng thì lại đổi ra vần trắc; còn chữ thứ tư thì có khi đổi thành vần bằng thay vì vần trắc như thường lệ. Câu 6 cũng được ngắt ra làm hai vế. Chẳng hạn hai câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chữ "cốt" là một chữ thuộc vần trắc, song lại nằm ở vị trí của vần bằng: Câu số. Vần. 1. Mai cốt. 2. Mỗi người một vẻ Chữ. 1. 2. cách, tuyết tinh thần. 3. 4. mười phân vẹn mười 5. 6. 7. 8.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> thứ [sửa] Thơ song thất lục bát Bài chi tiết: Thơ song thất lục bát Song thất là hai câu bảy chữ nối theo hai câu lục bát. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã được Đoàn Thị Điểm diễn nôm lại bằng thể thơ này. Trong câu bảy chữ trên, chữ thứ ba là vần trắc, chữ thứ năm là vần bình, chữ thứ bảy là vần trắc; trong câu bảy chữ dưới, chữ thứ ba là vần bình, thứ năm là vần trắc, và chữ thứ bảy là vần bình. Hai câu lục bát tiếp sau thì theo luật thường lệ.. Câu số. Vần. 1. B. B. T. 2. B. T. B. 3. B. T. B. 4. B. T. B. Chữ thứ. B. 1 2 3 4 5 6 7 8. Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp lại về buồng cũ gối chăn Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh Chữ cuối cùng của câu có bảy chữ trên vần với chữ thứ năm của cây bảy chữ dưới, chữ cuối câu bảy chữ ở dưới vần với chữ cuối của câu sáu chữ trong hai câu lục bát tiếp theo, chữ cuối câu sáu chữ lục bát vần với chữ thứ sáu của câu có tám chữ, và chữ cuối của câu tám chữ lục bát vần với chữ thứ năm của câu bảy chữ tiếp theo. Tuy nhiên, chữ cuối câu.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> lục bát tám chữ cũng có thể vần với chữ thứ ba câu bảy chữ, biến đổi âm trong vần chữ này đổi sang vần bình. Do đó, chữ thứ ba trong câu bảy chữ trên có thể là trắc hay bằng.. Câu số. Vần. 1 2. B. B. T. T. B. 3. B. T. B. 4. B. T. B. Chữ thứ. B. 1 2 3 4 5 6 7 8. Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên Nhủ rồi tay lại trao liền Bước đi một bước lại vin áo chàng [sửa] Thơ bốn chữ Bài chi tiết: Thơ bốn chữ Nếu chữ thứ hai là vần bằng thì chữ thứ tư là vần trắc.. Câu số. Vần. 1. T. B. 2. B. T.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Chữ thứ. 1 2 3 4. Bão đến ầm ầm Như đoàn tàu hỏa[9] Ngược lại, nếu chữ thứ hai là vần trắc thì chữ thứ tư là vần bằng.. Câu số. Vần. 1. B. T. 2. T. B. Chữ thứ. 1 2 3 4. Chim ngoài cửa sổ Mổ tiếng võng kêu[10] Song nhiều bài thơ không theo luật ở trên. Bão đi thong thả Như con bò gầy [sửa] Thơ năm chữ Bài chi tiết: Thơ năm chữ Tương tự như luật của thơ bốn chữ ở trên, song cũng nhiều trường hợp không theo luật. Hôm nay đi chùa Hương Hoa cỏ mờ hơi sương Cùng thầy me em dậy Em vấn đầu soi gương[11].

<span class='text_page_counter'>(20)</span> [sửa] Thơ sáu chữ Bài chi tiết: Thơ sáu chữ Dùng chữ cuối cùng, với cách gieo vần như vần tréo hoặc vần ôm: Vần tréo Quê hương là gì hở mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hở mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều Đỗ Trung Quân - Quê Hương Vần ôm Xuân hồng có chàng tới hỏi: -- Em thơ, chị đẹp em đâu? -- Chị tôi tóc xõa ngang đầu Đi bắt bướm vàng ngoài nội Huyền Kiêu - Tình sầu [sửa] Thơ bảy chữ Bài chi tiết: Thơ bảy chữ Do ảnh hưởng của Thất ngôn tứ tuyệt trong thơ Đường, thơ bảy chữ hiện nay vẫn còn mang âm hưởng luật của nó. Có hai loại câu: Vần bằng Câu số. Vần. 1. B. T. BB. 2. T. B. T B. 3. T. B. T T.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 4. B Chữ thứ. T. BB. 1 2 3 4 5 6 7. Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông[12] Hay gần đây hơn: Em ở thành Sơn chạy giặc về Tôi từ chinh chiến cũng ra đi Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì Quang Dũng - Đôi Mắt Người Sơn Tây Vần trắc Câu số. Vần. 1. T. B. T B. 2. B. T. BB. 3. B. T. BT. 4. T. B. T B. Chữ thứ. 1 2 3 4 5 6 7. Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau: Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Phen này ông quyết đi buôn cối Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu[13] Hiện nay, thể thơ này được cải biên và nó chỉ còn là:. Câu số. Vần. 1. B. T. B. 2. T. B. T. Chữ thứ. 1 2 3 4 5 6 7. Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cảm ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi Tô Thùy Yên - Ta về [sửa] Thơ tám chữ Bài chi tiết: Thơ tám chữ Thể thơ này không có quy luật nhất định, có nghĩa là vần điệu tự do hơn. Thường thì nếu: . Câu cuối có vần trắc thì chữ thứ ba là vần trắc, thứ năm và sáu là vần bằng Vần T Chữ. BB. T. 1234 5 6 7 8.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> thứ . Câu cuối có vần bằng thì chữ thứ ba là vần bằng, chữ thứ năm và sáu là vần trắc. Vần B Chữ thứ. TT. B. 12 3 4 5 6 7 8. Nhưng nhiều lúc cũng không như thế. [sửa] Cách gieo vần Vần tiếp Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé, Tôi sẽ trách -- cố nhiên -- nhưng rất nhẹ; Nếu trót đi, em hãy gắng quay về, Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở. Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ, Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa... Hồ Dzếnh - Ngập Ngừng Vần tréo Trong ánh nắng hạt sương dần nhẹ bỗng Rồi tan vào thoáng đãng trời xanh Cánh hoa mỏng rập rờn với gió Có nhớ về hạt sương sớm long lanh? Hải Kỳ - Giấc mơ Vần ôm Đêm Trường Sơn. Lá với nước rầm rì Hơi đá lạnh nép mái nhà nghe ngóng Chúng tôi ngồi xòe tay trên lửa nóng Máu bàn tay mang hơi lửa vào tim.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Nguyễn Khoa Điềm - Bếp lửa rừng Muốn cho thơ tám chữ thêm âm điệu, một số nhà thơ thường gieo vần chữ thứ tám của câu trên với chữ thứ năm hay sáu của câu dưới: Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi Những hào hùng, uất hận gối lên nhau Cao Tần - Ta làm gì cho hết nửa đời sau? [sửa] Dạng (form) 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8.. thơ lục bát thơ song thất lục bát thơ bốn chữ thơ năm chữ thơ sáu chữ thơ bảy chữ thơ tám chữ thơ tự do. [sửa] Thơ Việt Nam [sửa] Ca dao[14] Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca. Ca dao vốn là một thuật ngữ HánViệt. Trong Văn học dân gian, tập II[15], Đinh Gia Khánh có chú thích: Trong Kinh thi, phần Ngụy Phong, bài Viên hữu có câu: "Tâm chi ưu hữu, ngã ca thả dao" - hay "Lòng ta buồn, ta ca và dao". Sách Mao truyện viết: "Khúc hợp nhạc viết ca, đô ca viết dao" - hay "Khúc hát có nhạc đệm theo lời gọi là ca, còn hát trơn thì gọi là dao". Trước đây người ta còn gọi ca dao là phong dao vì có những bài ca dao phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời đại. Ca dao có những câu bốn chữ, năm chữ, sáu tám hay bẩy sáu tám, đều có thể "ngâm được nguyên câu", không cần tiếng đệm như người ta ngâm thơ vậy. Chẳng hạn hai câu sáu tám:.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ Hay: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của con người. Tình yêu của người lao động biểu hiện trong ca dao về nhiều mặt: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất được, yêu lao động, yêu thiên nhiên. Ca dao còn là một biểu hiện tư tưởng đấu tranh trong cuộc sống xã hội, trong khi tiếp xúc với thiên nhiên. Chính vì thế, cao dao còn phản ánh đời sống tình cảm, đời sống vật chất của con người, ý thức lao động sản xuất v.v. trong tình hình xã hội, kinh tế, chính trị dưới thời đại lịch sử sinh sống. Chẳng hạn sự kiềm chế của tứ đức, tam tòng trong giới phụ nữ bật lên những câu than: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày Do số phận họ phần lớn là do người khác định đoạt mà không có quyền tự chủ, sự chua xót vắt nước thành những câu vừa hài vừa đau: Lấy chồng chẳng biết mặt chồng Đêm nằm mơ tưởng, nghĩ ông láng giềng Tình yêu nam nữ ở nông thôn là một thứ tình yêu liên quan đến ruộng đồng, đến xóm làng. Những câu như tự nhắc mình, hoặc nhắc người mình yêu: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao! Cuộc sống nặng nhọc, con trâu đi trước, cái cày đi sau cũng phản ánh trong ca dao: Trâu ơi, tao bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta Cày cấy vốn nghiệp nông gia,.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Ta đây trâu đấy, ai mà quản công... Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, giản dị và tươi tắn. Chúng giản dị như lời nói thường, nhẹ nhàng, gọng gàng, song không kém phần chải chuốt, đầy tính miêu tả những tình cảm sâu sắc. Một cảnh buồn: Sóng sầm sịch lưng chưng ngoài bể bắc, Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên... Hay nỗi nhớ bịn rin: Gió vàng hiu hắt đêm thanh Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về Mảnh trăng đã trót lời thề Làm chi để gánh nặng nề riêng ai! Một cô gái, trong chế độ tảo hôn, chưa vấn tóc gọn đã về nhà chồng, anh chồng dửng dưng coi vợ như một đứa trẻ. Nhưng khi cô ta vừa đến tuổi, thì tình hình khác hẳn: Lấy chồng tử thủa mười lăm Chồng chê tôi bé, chẳng nằm cùng tôi Đến năm mười tám, đôi mươi Tối nằm dưới đất, chồng lôi lên giường Một rằng thương, hai rằng thương Có bốn chân giường, gãy một, còn ba!... Ca dao còn được dùng như một hình thức truyền kinh nghiệm dễ nhớ, chẳng hạn kinh nghiệm nấu ăn: Con gà cục tác: lá chanh Con lợn ủn ỉn: mua hành cho tôi Con chó khóc đứng khóc ngồi: Bà ơi! đi chợ mua tôi đồng riềng. [sửa] Những thể ca dao cổ điển [sửa] Thể phú.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Phú có nghĩa là trình bày, diễn tả, chẳng hạn như nói về người, về việc hay vật gì thì trình bày, diễn tả cho người ta hình dung được người, việc, hay vật ấy. Chẳng hạn: Đường lên xứ Lạng bao xa Cách một trái núi với ba quãng đồng Ai ơi! đứng lại mà trông Kìa núi Thành Lạc, kìa sông Tam Cờ. Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ Bụng anh vẫn thẳng như tờ giấy phong... Hay chống đối với dâm ô, giã man của giai cấp phong kiến thống trị: Em là con gái đồng trinh Em đi bán rượu qua dinh ông nghè Ông nghè sai lính ra ve.. "Trăm lạy ông nghè, tôi đã có con!". - Có con thì mặc có con! Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan. [sửa] Thể tỉ Tỉ là so sánh. Ở thể này, câu ca không nói thẳng như ở thể Phú, song lại mượn cái khác để so sánh, ngụ ý hay gửi gắm một tâm sự gì. Chẳng hạn: Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây Như con chèo bẻo xa cây măng vòi Hay: Gối mền, gối chiếu không êm Gối lụa không mềm bằng gối tay em. Hoặc: Ăn thì ăn những miếng ngon Làm thì chọn việc cỏn con mà làm [sửa] Thể hứng.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn, thấy ngoại cảnh mà có hứng, muốn nói lên nỗi lòng mình, cảnh tình riêng của mình: Trên trời có đám mây vàng Bên sông nước chảy, có nàng quay tơ Nàng buồn nàng bỏ quay tơ, Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành... Hay: Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa, Sao cô mình lơ lửng mà chưa có chồng... [sửa] Lục bát Theo Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Can Mộng[16], người viết cuốn Ngạn ngữ phong dao, đã từng viết: Văn vần nước ta phôi thai từ ngạn ngữ, rồi đến phong dao thì thành điều, thành chương, có thể ngâm nga được. Văn lục bát, hay song thất sau này đều từ ở đấy cả. Lịch sử sưu tập và biên soạn tục ngữ, ca dao, và dân ca chỉ mới được bắt đầu từ khoảng hai trăm năm trở lại đây. Vào nửa cuối thế kỷ 18, Trần Danh Án (hiệu Liễu Am) đã sưu tập và biên soạn Quốc phong giải trào và Nam phong nữ ngạn thi. Các soạn giả trên đã ghi chép tục ngữ, ca dao bằng chữ nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với thơ Quốc Phong trong Kinh thi của Trung Quốc. Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện những sách chữ nôm sưu tập tục ngữ, ca dao[17]. Sang đầu thế kỷ 20, Việt Nam mới có những sách sưu tập những di sản này bằng chữ quốc ngữ[18]. Như vậy có thể nói, lục bát bắt nguồn từ trong tục ngữ và ca dao mà ra. Như trên đã nói, "lục" (sáu), "bát" (tám), hay còn gọi là thể thơ sáu tám (6, 8) ám chỉ đến độ dài của hai câu thơ: một câu gồm 6 chữ và một câu gồm 8 chữ. Câu sáu chữ đi trước và câu tám chữ theo sau. Vần rơi vào những chữ in đậm. Chẳng hạn trong truyện Kiều, lúc Sở Khanh rủ Kiều chạy trốn khỏi lầu xanh của mụ Tú Bà:.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Đêm thu khắc lậu canh tàn[19] Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương Lối mòn cỏ nhợt mùi sương [20] Lòng quê[21] đi một bước đường một đau. Thơ lục bát thường là nguồn cảm hứng thơ đầu tiên, gây ảnh hưởng nhiều cho những nhà thơ Việt Nam từ những ngày còn bé. Có thể qua những lời ru bằng ca dao, bằng các câu ca cửa miệng người lớn dùng. Chẳng hạn: Cái ngủ mày ngủ cho ngoan Để mẹ đi cấy đồng xa trưa về Bắt được con cá rô trê Thòng cổ mang về cho cái ngủ ăn Do nhạc tính mềm mại của lục bát, loại thơ này còn thấy được dùng trong các bài thơ như một phần chuyển giọng, từ gồ ghề sang mượt mà, êm ái như trong trạng thái than thở hay ca ngợi. Chẳng hạn trong bài thơ Tiếng Hát Sông Hương của Tố Hữu: Trên dòng Hương-giang Em buông mái chèo Trời trong veo Nước trong veo Em buông mái chèo Trên dòng Hương-giang Trăng lên trăng đứng trăng tàn Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng Hay Trần Đăng Khoa trong trường ca[22] Khúc hát người anh hùng Cô Bưởi lắng nghe tiếng gà rừng rực Thấy sức triệu người hồi sinh trong lồng ngực Và cô đi Bên đám cháy Chưa tàn Lửa hát rằng: Quê tôi - những cánh rừng hoang Chính trong cơn bão đại ngàn - tôi sinh Nuôi tôi trong bếp nhà gianh Ủ là một chấm - thổi thành biển khơi....

<span class='text_page_counter'>(30)</span> [sửa] Lục bát biến thể Biến thể trong thơ lục bát là những câu thơ bị đổi cách gieo vần. Xin xem thêm phần về luật thơ ở trên. [sửa] Thơ Đường Việt Nam Bài chi tiết: Thơ Đường Việt Nam Kết quả của lịch sử giao tiếp văn hóa phương bắc, đặc biệt là thời cực thịnh của thơ Trung Quốc là thể thơ phát triển thời nhà Đường, thơ Đường đã thâm nhập vào văn hóa Việt thành thơ Đường Việt Nam. Đầu tiên, thơ Đường Việt Nam được viết bằng chữ Hán, rồi dần được viết bằng chữ Hán Nôm và chữ thuần Việt. [sửa] Phong trào Thơ mới Bài chi tiết: Phong trào Thơ mới [sửa] Phong trào Thơ tự do Bài chi tiết: Thơ tự do Có lẽ bắt đầu từ bài thơ dịch của Nguyễn Văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi trên Trung Bắc Tân văn (1928) mà nguồn thơ mới khởi thảo: Ve sầu kêu ve ve Suốt mùa hè Đến kỳ gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối. Lối thơ không niêm, không luật, không hạn chế số chữ trong câu, không hạn chế số câu lại có vẻ thích ứng với đông đảo quần chúng hơn.[23] Lối thơ này đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Phục Hưng, như trong các tác phẩm của William Shakespeare. Chẳng hạn trong bi kịch Hamlet, khi chàng gọi mẹ mình vào, mời bà ngồi (Những câu tiếng Việt chỉ là phần dịch tạm thời): Queen. Have you forgot me?.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> (Ngươi quên ta là ai rồi chăng?) Ham. No, by the rood, not so: (Không, tôi thề bằng thánh giá, không phải vậy:)[24] You are the queen, your husband's brother's wife; (Bà là nữ hoàng, vợ người em nhà vua, chồng bà) And,--would it were not so!--you are my mother. (Mà dù có không phải thế đi chăng nữa, bà vẫn là mẹ của tôi) Queen. Nay, then, I'll set those to you that can speak. (Đúng, vậy ta sẽ chỉ phép những gì ngươi được nói.) Ham. Come, come, and sit you down; you shall not budge; (Lại đây, lại đây, và hãy ngồi xuống; bà hãy ngồi im, không nhúc nhích) You go not till I set you up a glass (Bà sẽ không được ra khỏi đây, cho đến khi nào tôi mời bà một cốc nước) Where you may see the inmost part of you. (Trong đó bà sẽ nhìn thấy đáy lòng của bà)[25] Có quan điểm cho rằng thơ tự do đặt tầm quan trọng về cách đọc thơ, hay sự bố trí theo chiều dọc của tờ giấy hơn, và nhịp điệu của thị giác mới là phần quan trọng. Chẳng hạn: Đến thời Phục hưng, thơ không vần tiếng Anh với kỹ thuật vắt dòng, phá bỏ cách đọc ngừng lại ở cuối dòng. Đọc từ dòng trên vắt xuống dòng dưới theo cú pháp văn phạm, rõ chữ, và câu liền lạc. Sau này, vào đầu thế kỷ 20, thơ tự do cũng theo cách đọc như thế. Nhưng giữa thơ không vần và thơ tự do vẫn có sự khác biệt khi đọc. Với loại thơ tự do dùng kỹ thuật dòng gãy, trình bày dòng ngắn dài, để tạo nhịp điệu thị giác trên mặt giấy, khi đọc lên, không đọc theo dòng mà theo câu, mục đích chỉ để nghe rõ âm thanh của từng chữ. Nhịp điệu thị giác mới là phần quan trọng, qua đó, người đọc lần theo tiến trình phân tích để tìm ra ý nghĩa bài thơ. Như vậy, để hiểu một.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> cách toàn vẹn bài thơ loại này, người đọc phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau, âm thanh của chữ, nhịp điệu của câu dòng và ý nghĩa trong tiến trình phân tích. Với loại thơ trình diễn, gần với sự ứng tác thì người nghe dễ bị lôi cuốn bởi khả năng trình diễn và cách đọc của người đọc thơ. Như vậy cách đọc của thơ tự do không thể hiểu theo nghĩa của thơ truyền thống, nhịp điệu thị giác và cách trình diễn quan trọng hơn phần âm thanh của tiếng nói.[26] Chữ tự dọ ở đây có thể hiểu là sự thoát thân khỏi sự kiềm chế của các luật thơ. Nhà thơ muốn chạy theo cảm hứng, theo tình cảm, lấy chữ để biểu tả nội tâm thay vì để cho con chữ, để cho những luật lệ bắt người ta bị kìm kẹp, bị chê trách, mà phải đổi chữ, đổi ý, biến bài thơ thành một đứa con quái thai của tình cảm của họ. Phan Khôi viết trong Phụ nữ Tân Văn - số 132: .. lâu nay mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói không được, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói ra lại bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ thật là dễ ức. Chẳng hạn như bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về: Năm vừa rồi Chàng cùng tôi Nơi vùng giác mộ Trong gian nhà cỏ Tôi quay tơ Chàng ngâm thơ Vườn sau oanh giục giã Nhìn ra hoa đua nở Dừng tay tôi kêu chàng... Này, này! Bạn! Xuân sang Chàng nhìn xuân mặt hớn hở Tôi nhìn chàng, long vồn vã... Rồi ngày lại ngày Sắc màu: phai.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Lá cành: rụng Ba gian: trống Xuân đi Chàng cũng đi Năm nay xuân còn trở lại Người xưa không thấy tới Xuân về.[27] Rồi sau này Hữu Thỉnh trong bài Thơ viết ở biển: Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ Biển vẫn cậy mình dài rộng thế Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím Sông chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Dù sóng đã làm anh Nghiêng ngả Vì em[28] Như vậy có thể nói, thơ tự do thiên về tính âm nhạc, tính hình tượng và nội dung tình cảm muốn truyền đạt hơn hình thức, thể loại của bài thơ. Thơ tự do như là thơ được thoát thân, thả cánh, bay cao như thể bay cao được, trải rộng như có thể bao trùm, không còn hạn chế, không còn gò bó, không còn giới hạn, và quan trọng nhất nó nói rằng, nếu bạn yêu thơ thì không ai không có thể làm thơ được. 1. ^ Kiều - Nguyễn Du (1765-1820) - Nhà xuất bản Thanh Niên - 1999 2. ^ Tác giả của bài thơ có cái tên hiệu là "may_trang_bay_ve". Xin được chia sẻ một cảm quan nhận được khi đọc mấy câu thơ này. Màn đêm buông im ả, giấc ngủ đến như một làn sương mỏng, lan toả khắp thành phố, tràn trên bến tàu. Có cánh cửa còn mở, hình như bị giấc ngủ thôi miên. Phong cảnh màu lam của ban đêm ngập chìm trong tiếng gió rầm rì, nhè nhẹ. Góc nhìn của tác giả như một ống máy quay phim, dần dần được nâng lên, kéo ra xa, cho phép người đọc nhìn thấy cảnh thành phố rộng hơn. Hình ảnh bỗng thôi thúc một âm thanh nhè.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> nhẹ của dàn violin, rất êm, rất xa vắng, rất thoáng. Cái cảm quan âm nhạc vốn không có trong bài bị hình ảnh lôi cuốn và thôi thúc nó trở thành hiện thực. Hình như cái vế thiếu ấy lại mạnh hơn cái trước mắt mà người đọc cảm nhận được trong câu thơ. Đây có thể còn là một tính chất âm nhạc trong thơ mà ít khi được khai thác. HDQ (08/07/2006) 3. ^ Tập thơ Mưa đèn cây - nhà xuất bản phụ nữ - 1987 4. ^ Thi luật 5. ^ Trích bài Cung Oán Ngâm Khúc - Nguyễn Gia Thiều (1741- 1798) Tuyển tập thơ Tình bạn, tình yêu thơ - Nhà xuất bản giáo dục 1987 6. ^ Trích trong bài của Trần Ngọc Ninh 7. ^ Bài thơ Vịnh buổi sớm - Tác giả có tên hiệu là thisson, bài được đăng ngày 08/02/2002, hồi 07:52 - Diễn đàn thi ca - TTVN Online 8. ^ Thi luật 9. ^ Trích trong bài Mặt bão - Thơ Trần Đăng Khoa - Tác phẩm chọn lọc dành cho thiếu nhi - Nhà xuất bản Kim Đồng, 1999 10.^ Trích trong bài Tiếng võng kêu - Thơ Trần Đăng Khoa - Tác phẩm chọn lọc dành cho thiếu nhi - Nhà xuất bản Kim Đồng, 1999 11.^ Trích trong bài Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) - Tập thơ Mưa đèn cây - nhà xuất bản phụ nữ - 1987 12.^ Trích bài Thương vợ - Trần Tế Xương (1871-1907) - Tuyển tập thơ Tình bạn, tình yêu thơ - Nhà xuất bản giáo dục 1987 13.^ Trích bài Chúc Tết - Trần Tế Xương (1871-1907)- Tuyển tập thơ Tình bạn, tình yêu thơ - Nhà xuất bản giáo dục 1987 14.^ Trích trong Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phan, nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội - 1997 15.^ Lịch sử văn học Việt Nam - Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diện Nhà xuât bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp - 1973 16.^ Nguyễn Can Mộng, (hiệu: Nông Sơn; 1880 - 1954), nhà thơ Việt Nam. Quê: phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình, đỗ Phó bảng (1916). Dạy học. Tác phẩm "Nông Sơn thi tập". Ông là tác giả bài "Văn tế cá sấu" thường được cho là của Hàn Thuyên (thế kỉ 14) đăng trên "Tứ dân văn uyển". 17.^ Bao gồm: Thanh Hóa quan phong sử của Vương Duy Trinh (hiệu Đạm Trai); An Nam phong thổ thoại của Trần Tất Văn (hiệu Thiên Bảo cư sĩ); Quốc Phong thi hợp thái của Nguyễn Đăng Tuyển (hiệu Tiên Phong và Mộng Liên Đình); Việt Nam phong sử của Nguyễn Văn Mại (tự Tiểu Cao); Đại Nam quốc túy của Ngô Giáp Đậu (hiệu Tam Thanh); Nam quốc phương ngôn tục ngữ (vô danh); vân vân..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> 18.^ Nam ngạn trích cẩm của Phạm Quang Sán (hiệu Ngạc Đình); Gương phong tục của Đoàn Duy Bình (đăng trong Đong Dương tạp chí); Việt Nam tổ quốc túy ngôn của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Trọng Thuật; Ngạn ngữ phong dao của Nguyễn Can Mộng; Tục ngữ phong dao của Nguyễn văn Ngọc; vân vân. 19.^ Khắc lậu: ám chỉ cái khắc ở trên đồng hồ treo mặt nước chảy đi từng giọt mà sứt xuống; canh tành là gần sáng. 20.^ Cảnh đêm mùa thu - Nhợt là cỏ có sương bám vào, mùi nhời nhợt, chẳng hạn: Lối mòn lướt mướt hơi sương 21.^ Lòng quê: Lòng riêng, nghĩ riêng trong bụng. 22.^ Trường ca là một tác phẩm dài bằng thơ có nội dung và ý nghĩa xã hội rộng lớn. - Đại từ điển tiếng Việt - Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội 1998 23.^ Trích trong Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 - Chim Việt Cành Nam 24.^ by the rood hay by the cross - một thành ngữ chửi thề vẫn dùng trước đây. [1] 25.^ Trích trong The complete works of William Shakespeare - do W. J. Craig, M.A. (William James Craig) (1843–1906) biên tập - Nhà xuất bản Magpie Books, chi nhánh của Robinson Publishing, 1993 26.^ Trích trong bài Thơ tân hình thức đọc của Khế Iêm 27.^ Trích trong bài Phong trào thơ mới 1930-1945 28.^ Trích trong Tuyển tập thơ Tình bạn, tình yêu thơ - Nhà xuất bản giáo dục 1987.

<span class='text_page_counter'>(36)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×