Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Xây dựng đời sồng văn hóa ở cơ sở của quận ngô quyền, hải phòng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.53 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HĨA - THƠNG
TIN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
***********

LÊ NHƯ HẢI

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA Ở CƠ SỞ
CỦA QUẬN NGƠ QUYỀN, HẢI PHỊNG
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CƠNG
NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
Chun ngành : Văn hoá học
Mã số
: 60 31 70

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS NGUYỄN QUỐC PHẨM

Hà Nội - 2006


MỤC LỤC
***
Trang
Mở đầu



4

Chương 1: Mấy vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở

13

1.1. Các khái niệm

13

1.1.1. Khái niệm "Văn hóa"

13

1.1.2. Khái niệm "Đời sống văn hóa"

16

1.1.3. Khái niệm "Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở"

19

1.2. Q trình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của nước ta

26

Chương 2: Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của 34
quận Ngơ Quyền trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1. Vài nét về quận Ngơ Quyền


34

2.1.1. Vị trí địa lý

34

2.1.2. Dân số và nguồn lao động

35

2.1.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội

37

2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận Ngơ 38
Quyền từ năm 1998 đến nay
38
2.2.1. Việc triển khai xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
2.2.2. Các kết quả đã đạt được

43

2.2.3. Những hạn chế, bất cập trong xây dựng đời sống văn 63
hóa ở cơ sở của quận Ngơ Quyền
Chương 3: Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa ở 72
cơ sở của quận Ngơ Quyền hiện nay
3.1. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về vai trị của xây dựng đời 72
sống văn hóa ở cơ sở hiện nay
3.2. Một số nhóm giải pháp cho công tác xây dựng đời sống văn 77



hóa ở cơ sở của quận Ngơ Quyền hiện nay
3.2.1. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức tư tưởng và tăng 77
cường sự phối, kết hợp giữa các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ
chức xã hội và nhân dân
3.2.2. Nhóm giải pháp xác định các nhiệm vụ trọng tâm của 80
cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
3.2.3 Nhóm giải pháp về chỉ đạo thực hiện

88

Kết luận

93

Danh mục tài liệu tham khảo

96

Chú thích

101

Phụ lục


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BCĐ


Ban chỉ đạo

CLB

Câu lạc bộ

CNH, HĐH
GD - ĐT
HĐND

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Giáo dục và Đào tạo
Hội đồng nhân dân

TDTT

Thể dục thể thao

THCS

Trung học cơ sở

UBMTTQ
UBND
VHTT
VHTT - TT

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Uỷ ban nhân dân

Văn hóa Thơng tin
Văn hóa Thơng tin và Thể thao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn
Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI
của Đảng, vai trị văn hóa được nhìn nhận một cách biện chứng và tích cực.
Hội nghị Trung ương lần thứ V - Khoá VIII khẳng định văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, là nền tảng tinh thần của xã
hội. Trên cơ sở xác định vị trí, vai trị trọng yếu của văn hóa trong đời sống
chính trị - xã hội, kinh tế của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước
đưa ra các giải pháp để xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Trên nền của
các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, các địa phương đã
vận dụng để đưa ra các giải pháp xây dựng đời sống văn hóa phù hợp với
các đặc điểm, điều kiện về mọi mặt của mình. Từ đó tạo nên phong trào
xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở.
Các giải pháp, q trình thực hiện cùng các kết quả của việc xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở mang những đặc điểm và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố nổi bật nhất là địa bàn sinh sống của các cộng đồng dân cư (địa bàn
ở nông thôn khác với ở thành phố, ở miền núi khác với ở đồng bằng, hải
đảo) và thành phần xã hội, nghề nghiệp của các cộng đồng cư dân. Ngay
đối với địa bàn thành phố cũng đã có sự khác nhau giữa những vùng đã trở
thành đô thị từ lâu đời (như các quận cũ của nội thành Hải Phòng, Hà Nội)
với những vùng vốn là các làng quê vừa mới được chuyển thành các
phường, quận trong một vài năm gần đây. Đối với mỗi vùng đô thị, việc
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở cũng có sự khác biệt giữa những cộng
đồng cư dân tập trung là cơng nhân hay trí thức hoặc người làm nghề kinh
doanh, hoặc những khu dân cư "hỗn hợp"... Nghiên cứu việc xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, rút ra những bài học kinh nghiệm, chỉ đạo việc xây

dựng đời sống văn hóa được hồn thiện hơn, để văn hóa thực sự là một
động lực cho sự phát triển bền vững ở các cộng đồng dân cư; đồng thời đề


xuất các giải pháp nhằm cụ thể hóa đường lối, các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vẫn
đang là vấn đề bức xúc hiện nay.
Quận Ngô Quyền là một trong 4 quận cũ của thành phố Hải Phòng,
tiếp giáp với nhiều quận, có hệ thống đường sắt chạy qua, có cảng biển,
nhiều nhà máy, xí nghiệp, vài năm nay có nhiều dự án đầu tư phát triển đơ
thị được triển khai, trong đó có Dự án phát triển Khu đơ thị Sơng Cấm
2000 - 2020. Vì thế, quận Ngơ Quyền có vị trí quan trọng về chính trị, kinh
tế, xã hội đối với thành phố Hải Phòng.
Trong những năm qua, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, cùng với
những thành tích trong việc phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất,
quận Ngơ Quyền đã tích cực triển khai các hoạt động xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở tại các phường, các cộng đồng dân cư và đã đạt được
những kết quả đáng phấn khởi, tương xứng với việc phát triển kinh tế, xây
dựng hệ thống chính trị. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở cũng bộc lộ nhiều mặt bất cập, những thiết sót, khuyết
điểm, ảnh hưởng đến các mặt kinh tế - xã hội. Mặt khác, trong những năm
gần đây, các mặt trái của xã hội nhất là các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại
dâm, cờ bạc đang có xu hướng gia tăng trên địa bàn quận. Điều đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó ngun nhân từ những bất cập của cơng tác xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của một quận đơng dân, thành phần cư dân
đa dạng.
Vì vậy cần thiết phải có một cơng trình nghiên cứu chun sâu về
thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận Ngô Quyền trong
thời gian qua, đánh giá một cách nghiêm túc những mặt được và chưa được
của công việc này, chỉ ra những nguyên nhân của chúng, trên cơ sở đó, rút

ra những bài học kinh nghiệm, tạo cơ sở khoa học cho cấp uỷ, chính quyền
và ngành Văn hóa của quận đề ra các giải pháp và chỉ đạo việc xây dựng
đời sống văn hóa trong các cộng đồng dân cư, làm cho văn hóa thật sự có
tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.


Quận Ngô Quyền, một quận nội thành của thành phố Hải Phịng. Diện tích 11km2, bao gồm 13
phường, có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Nơi được đánh giá là điểm sáng giàu
truyền thống văn hóa của thành phố Hải Phịng. Tuy vậy, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa theo tinh
thần Nghị quyết số 32 - NQ/TW về “Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phịng trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” đang là vấn đề cấp thiết đặt ra. Ngơ Quyền là quận có dân cư đơng, 17 vạn dân
trong đó có 45% ở độ tuổi lao động, nhiều trường học, đường sắt chạy suốt địa bàn, nhiều nhà máy và
doanh nghiệp, có cảng biển, nhiều dự án đầu tư phát triển đơ thị, trong đó có dự án lớn của thành phố
phát triển khu đô thị ven sông Cấm từ năm 2000 - 2020. Cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội còn nhiều bất
cập, những mặt trái của xã hội xuất hiện nhiều, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; tệ mại dâm và bn
lậu với khách nước ngồi ở Cảng, tệ sử dụng, buôn bán ma tuý dẫn đến nhiễm HIV có chiều hướng gia
tăng, những vấn đề bức xúc trong giải phóng mặt bằng, đời sống văn hố của cơng nhân lao động trong
khu dân cư chưa được tổ chức tốt. Đây là những bài tốn khó, nan giải địi hỏi phải có sự đầu tư, nghiên
cứu và quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn quận là
vấn đề cấp thiết hiện nay.
Từ những lý do trên, tơi chọn vấn đề “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận Ngơ Quyền,
Hải Phịng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao
học.

2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
"Văn hóa" là một đề tài lớn nên từ rất lâu đã được các thế hệ học giả
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại đây, trong
trào lưu của công cuộc đổi mới, vai trị của văn hóa được nhìn nhận một
cách tích cực, đã có hàng loạt tác phẩm đề cập đến văn hóa ít nhiều liên
quan đến đề tài Luận văn cao học này dưới các góc độ khác nhau.

2.1. Các tác phẩm bàn về vai trị của văn hóa với sự nghiệp "cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị hóa"
* Các tác phẩm bàn về vai trị của văn hóa với sự nghiệp CNH, HĐH
và đơ thị hóa
Đây là những tác phẩm được xuất bản trong thời kỳ nước ta đẩy mạnh
sự nghiệp CNH, HĐH như: Thực trạng văn hóa trong q trình đơ thị hóa
ở Việt Nam hiện nay của Phạm Duy Đức (1998), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. Phát huy bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại (2003), Xã hội
hóa trong hoạt động văn hóa (1996), Xã hội hóa và sự nghiệp phát triển
văn hóa (1997) đều của Lê Như Hoa, Nxb VHTT và cuốn Văn hóa dân
gian và sự phát triển của văn hóa đơ thị (2004) của Hội văn nghệ dân gian


Việt Nam, Hà Nội. Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố của văn hóa
trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ CNH, HĐH đất nước của Nguyễn
Văn Bính (2003), Luận án Tiến sỹ Lịch sử, Viện VHTT, Hà Nội.
* Các tác phẩm đề cập đến vai trò của văn hóa trong điều kiện
cơng nghiệp hóa
Nổi bật là các tác phẩm Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam
hiện nay, vốn là tập hợp các bài tham luận tại Hội thảo khoa học do Uỷ ban
quốc gia về thập kỷ Quốc tế phát triển Văn hóa, Uỷ ban quốc gia UNESCO
của Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Phương pháp luận về vai
trò của văn hóa trong phát triển của các nhà khoa học thuộc Viện Khoa
học xã hội (1993), Hà Nội, Văn hóa và đổi mới của Phạm Văn Đồng
(1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nhiều tác phẩm của các nhà văn
hóa học như Một số vấn đề lý luận văn hóa trong thời kỳ đổi mới của
Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 1998), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng văn hóa ở nước ta của Huỳnh Khái Vinh (1999), Nxb VHTT, Hà
Nội, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện
nay của Hồng Vinh (1999), Viện Văn hóa và Nxb VHTT, Hà Nội.

2.2. Các tác phẩm bàn đến xây dựng đời sống văn hóa cơ sở nói
chung và đời sống văn hóa cơ sở đơ thị nói riêng
Từ năm 1985, Nguyễn Văn Hy đã công bố cuốn sách mỏng Mấy vấn
đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay, Nxb Văn hóa, Hà Nội, trong
đó bàn đến việc xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng văn hóa cơ sở, đời
sống văn hóa và mơ hình thiết chế văn hóa.
Năm 1991, trước việc thay đổi mơ hình hoạt động của đời sống văn
hóa ở cơ sở do sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội. Vụ văn hóa
quần chúng Bộ VHTT và Viện Văn hóa phối hợp biên soạn cuốn sách Đời
sống văn hóa ở cơ sở - thực trạng và những vấn đề cần giải quyết, Nxb
VHTT, Hà Nội.


Năm 1993, Sở VHTT - TT tỉnh Hà Bắc xuất bản cuốn Xây dựng làng
văn hóa ở Hà Bắc đề cập đến tiêu chí của một (làng văn hóa), chỉ ra thực
trạng xây dựng làng văn hóa ở tỉnh và đưa các giải pháp khắc phục. Các tác
giả bàn đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Cùng mang một nội
dung của vấn đề trên còn có cuốn Một số vấn đề xây dựng làng, ấp văn hóa
hiện nay của Trần Hữu Tịng (1997), Nxb VHTT, Hà Nội.
Bộ VHTT (1998) xuất bản cuốn Một số giá trị văn hóa truyền thống
đối với đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn hiện nay đề cập đến sự hiện
diện và vai trò của các yếu tố văn hóa truyền thống đối với đời sống văn
hóa ở nơng thôn trong điều kiện CNH, HĐH. Nguyễn Văn Hy và các tác
giả cũng có cuốn Quản lý hoạt động văn hóa (1998), Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
2.3. Các tác phẩm bàn đến xây dựng đời sống văn hóa đơ thị
Từ năm 1983, tác giả Hà Xuân Trường trong sách Sự nghiệp văn hóa
dưới ánh sáng của Đại hội V đã có phần viết bàn về việc xây dựng nền văn
hóa mới ở thành thị và nông thôn.
Các nhà nghiên cứu ở Viện Xã hội học trong tác phẩm Tìm hiểu mơn

học xã hội đô thị do Trinh Duy Luân (chủ biên, 1996), Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, cũng có phần bàn về văn hóa và lối sống đơ thị.
Tác giả Thanh Lê (1999), trong Văn hóa và lối sống - Hành trang vào
thế kỷ 21, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội, có phần viết về văn hóa đơ thị
dưới góc nhìn lịch sử và triết học.
Đề tài cấp Bộ “Văn hóa trong q trình đơ thị hóa ở nước ta hiện
nay” do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện năm 1997.
Đây là cơng trình đầu tiên bàn một cách có hệ thống lý luận về văn hóa đơ
thị trong q trình đơ thị hóa ở Việt Nam. Từ việc đề cập đến bản chất dân
tộc của một đô thị, các tác giả đã bàn đến việc phát huy nhân tố văn hóa xã


hội trong q trình đơ thị hóa, vai trị của giáo dục, của văn hóa trong q
trình đơ thị hóa, vai trị của các hoạt động giải trí của cư dân đô thị ở nước
ta hiện nay và tương lai, những vấn đề phản văn hóa ở đơ thị hiện nay, âm
nhạc với đời sống đô thị ở Việt Nam …
Cuốn sách của tác giả Lê Như Hoa (Chủ biên, 1996), Lối sống đô thị miền
Trung - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb VHTT, Hà Nội, có lẽ là tác phẩm
đầu tiên đề cập đến lối sống đơ thị - một trong những khía cạnh nổi bật nhất của
văn hóa tại một vùng đơ thị cụ thể giàu tiềm năng phát triển công nghiệp. Từ
việc khẳng định xây dựng lối sống đô thị đang diễn ra phổ biến ở các địa
phương trong cả nước ta. Tác giả đề cập đến việc nhận dạng đô thị, lối sống đô
thị thời mở cửa, ảnh hưởng của thông tin đại chúng đối với lối sống đô thị ở
nước ta hiện nay. Tiếp đó, năm 2000, tác giả cơng bố cuốn Quản lý văn hóa đơ
thị trong điều kiện CNH, HĐH đất nước, Nxb VHTT, Hà Nội. Trong tác phẩm
này, sau khi bàn đến vai trị của văn hóa với sự phát triển của đơ thị, quản lý
văn hóa đơ thị trong điều kiện CNH, HĐH, tác giả đưa ra các giải pháp và hình
thức quản lý văn hóa đơ thị.
Năm 1999, tại thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra Hội thảo về xây
dựng đời sống văn hóa ở khu vực đô thị. Các báo cáo của Hội thảo chú

trọng bàn đến thực trạng của đời sống văn hóa cơ sở của các cụm dân cư
đô thị và các giải pháp khắc phục được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo.
Năm 2004, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam xuất bản cuốn Văn hóa
dân gian và sự phát triển của văn hóa đơ thị. Đây là tập hợp các bài viết tại
cuộc Hội thảo cùng tên bàn về vai trò của văn hóa dân gian trong q trình
hình thành và phát triển của văn hóa đơ thị. Một số Luận văn Cao học văn
hóa được bảo vệ tại khoa sau đại học trường Đại học Văn hóa Hà Nội cũng
bước đầu bàn về vấn đề này ở một phạm vi khu vực như: Luận văn của
Nguyễn Văn Quyết (2000), Xây dựng đời sống văn hóa khu cư dân cơng
nghiệp Biên Hồ thời kỳ 2000 - 2020 và của Đặng Văn Xuyên (2002), Xây


dựng đời sống văn hóa cơ sở trong cơng nhân lao động ở vùng than Quảng
Ninh. Luận văn của Nguyễn Văn Bính (1997), Phương pháp tổ chức hoạt
động ở cung văn hóa, nhà văn hóa lao động trong giai đoạn hiện nay.
Luận án Tiến sỹ Lịch sử của Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử
với tư cách là thành tố của văn hóa trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ
CNH, HĐH, Viện VHTT, Hà Nội.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một Luận văn nào nghiên cứu sâu về
vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tại một quận của thành phố Hải
Phòng, tức một vùng đô thị cụ thể. Đây cũng là lý do để tôi chọn vấn đề
này làm Luận văn tốt nghiệp ở bậc Cao học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
- Từ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của Quận Ngơ
Quyền thành phố Hải Phòng, đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng,
hiệu quả đời sống văn hóa trên địa bàn quận trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ vị trí, tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa

đối với phát triển kinh tế - xã hội ở quận Ngơ Quyền.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở của quận Ngơ Quyền trong thời kỳ đổi mới, tìm ra nguyên nhân, những
nhân tố ảnh hưởng tích cực, tiêu cực tới đời sống văn hóa ở quận Ngô
Quyền.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các mặt hoạt động liên quan
đến xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận Ngô Quyền.


- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá
thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận Ngơ Quyền - Hải
Phòng trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về văn hóa.
- Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
logic và lịch sử, đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của Luận văn
Luận văn hệ thống hóa và làm rõ thêm một số khía cạnh về đời sống văn
hóa ở cơ sở của nước ta hiện nay nói chung từ nghiên cứu thực tế xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận Ngơ Quyền - Hải Phịng trong
q trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Kết quả của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cơng tác quản
lý văn hóa, cơng tác nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa ở nước ta hiện
nay nói chung và Hải Phịng nói riêng.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ

lục, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Mấy vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của quận
Ngơ Quyền trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 3: Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
của quận Ngơ Quyền hiện nay.


Chương 1
MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ

1.1. CÁC KHÁI NIỆM

1.1.1. Khái niệm “Văn hố”
Đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa về “Văn hóa”. Dựa trên những
hồn cảnh, quan niệm khác nhau số lượng định nghĩa vẫn không ngừng
tăng lên. Cũng chưa một ai thống kê đầy đủ những ý kiến tranh luận, các
cuộc thảo luận về khái niệm này.
Khái niệm “Văn hóa” trong Luận văn này được dùng theo Lời phát
biểu của Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO F.Mayơ (Federico Mayor) vào
năm 1988, nhân ngày lễ phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hóa:
Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo
trong quá khứ và trong hiện tại, qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi
dân tộc”. Với ý nghĩa đó văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt
động nào của con người, trong hoạt động sản xuất vật chất,
hoạt động sản xuất tinh thần, trong giao tiếp ứng xử xã hội hay
thái độ quan hệ với thiên nhiên [46, tr.42].

Như vậy, có thể hiểu văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra, nhằm mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của
lồi người. Văn hóa bao gồm 5 thành tố cơ bản: biểu tượng, ngôn ngữ, hệ
giá trị, chuẩn mực văn hóa và cơng nghệ của văn hóa. Văn hóa có 5 chức
năng chính: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, dự báo và giải trí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nhà
văn hóa lỗi lạc cho rằng:


Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công việc cho sinh hoạt hàng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa [24, tr.431].
Như vậy, Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm mục đích
thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Quan niệm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh hồn tồn trùng hợp với
nhìn nhận về văn hóa của tổ chức UNEPSCO.
Gần đây, khái niệm “văn hóa” được gắn với các khái niệm “động
lực” và “phát triển”. Văn kiện các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1998 luôn nhấn mạnh đến việc
quán triệt sâu sắc hơn nữa ở tất cả các cấp, các ngành và trong toàn xã hội
về vai trò động lực của các yếu tố văn hóa - xã hội đối với sự phát triển
nhanh bền vững của đất nước. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 (khóa IX,
tháng 01 - 2004) khẳng định :
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Trước đây, nói đến
nền tảng được hiểu là yếu tố vật chất, hay nói cách khác là
nền tảng kinh tế, mà chúng ta chưa ý thức được các giá trị văn

hóa tạo nên nền tảng vững chắc cho xã hội. Đó là các giá trị
làm người - nguồn sức mạnh của toàn dân tộc được tạo nên
bởi nền tảng tinh thần [9, tr.297].
Khi nói đến sự phát triển mà chỉ xét đến sự tăng trưởng kinh tế, coi
kinh tế là điều kiện duy nhất, cịn xem văn hóa chỉ là hàng thứ yếu trong sự
phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế bằng bất cứ giá nào


là biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ về vai trị của văn hóa trong phát triển.
Nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển trong những năm
80 của thế kỷ XX đã để lại hậu quả nghiêm trọng về sự bất bình đẳng, cách
biệt giữa giầu và nghèo ngày càng gia tăng, tài nguyên bị cạn kiệt, môi
trường bị ô nhiễm, sự tan rã của cơ cấu cộng đồng, các tệ nạn xã hội như
mại dâm, ma túy... tràn lan. Một số nước thuộc thế giới thứ ba tiến hành
CNH, HĐH đất nước thất bại do chỉ chú trọng, quan tâm đến tăng trưởng
kinh tế bằng mọi giá, mà xem thường hoặc coi nhẹ yếu tố văn hóa.
Trong khi đó, Nhật Bản và một số nước Đông Á đã định ra hướng đi
đúng, khi vừa tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật phương Tây,
đồng thời chú trọng phát triển văn hóa trên cơ sở vẫn giữ vững và phát huy
nền văn hóa dân tộc mình. Đó là một bài học q giá để chúng ta nhận thức
đúng đắn, khoa học về sự phát triển. Bài học tất yếu là phải coi trọng sự
phát triển hài hồ giữa phát triển kinh tế và văn hóa, muốn phát triển bền
vững thì phải đặt vai trị của văn hóa trong phát triển.
Xuất phát từ nhận thức đó, UNESCO đã khẳng định vai trị của văn
hố trong sự phát triển kinh tế - xã hội như sau:
“Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách
rời mơi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm
trọng cả kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy
yếu nhiều” [25, tr.285].
Tóm lại, muốn phát triển bền vững phải xem văn hóa là động lực, là

mục tiêu, và cũng là hệ giá trị góp phần điều tiết sự phát triển kinh tế - xã
hội.


1.1. 2. Khái niệm “Đời sống văn hóa”
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống
xã hội là một phức thể các hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng
các nhu cầu tinh thần dựa trên một cơ sở vật chất. Nhu cầu vật chất được
đáp ứng làm cho con người tồn tại là một sinh vật, còn nhu cầu tinh thần
giúp cho con người tồn tại như một nhân cách văn hóa. Từ hai nhu cầu cơ
bản trên hình thành nhu cầu văn hóa.
Nhu cầu văn hóa là biểu hiện nhu cầu tinh thần, nhưng nó khơng
đồng nhất với nhu cầu tinh thần. Nhiều người quan niệm, chỉ có bộ phận
nhu cầu tinh thần hướng tới các giá trị cao cả và sự đáp ứng nhu cầu này
góp phần phát triển con người theo hướng nhân bản hóa thì mới được xem
là nhu cầu văn hóa. Nhu cầu văn hóa khơng thể là cái nhất thành bất biến,
mà có tính chất năng động và phát triển. Vì thế, sự đáp ứng nhu cầu cũng
phải năng động và thường xuyên đổi mới chất lượng. Các hoạt động nhằm
vào sự đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người thì gọi là hoạt động văn
hóa.
Hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động xã hội. Nếu diễn
đạt bằng thuật ngữ kinh tế học thì đó là q trình sản xuất (sáng tạo), bảo
quản, phân phối và tiêu thụ các sản phẩm văn hóa do quá khứ để lại và của
đương thời tạo ra. Sản phẩm văn hóa bao gồm sản phẩm hữu hình và sản
phẩm vơ hình, ngày nay được gọi là văn hố vật thể và văn hóa phi vật thể.
Các sản phẩm này được tiêu dùng trong công chúng thơng qua các thiết chế
văn hóa như: trung tâm văn hóa, rạp hát, trường học, thư viện, nhà xuất bản
v.v.
Sản phẩm văn hóa vơ hình thuộc loại sản phẩm khơng có hình thể,
tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi nhận trong ký ức xã hội, chẳng hạn như

các huyền thoại, các lễ hội, tín ngưỡng dân gian, các nhân thần có cơng
dựng nước và giữ nước; các giá trị văn hóa tinh thần như: chủ nghĩa u
nước, lịng nhân ái cao cả, ý thức cộng đồng và đức tính cần cù trong lao


động... Đó là sản phẩm văn hóa của lịch sử dân tộc, nó như một chất keo
vơ hình, liên kết thành viên của cộng đồng tộc người, dân tộc, quốc gia
thành khối vững chắc.
Sản phẩm văn hóa hữu hình thuộc loại sản phẩm tồn tại dưới dạng
vật thể như: tranh, tượng, mỹ nghệ phẩm, kiến trúc, tác phẩm văn hóa, di
tích lịch sử, danh lam thắng cảnh...
Ngồi ra, cịn phải kể đến con người là chủ thể sáng tạo ra thế giới sản
phẩm văn hóa. Các sản phẩm ấy phối, kết hợp với mạng lưới hoạt động văn
hóa của con người hình thành nên mơi trường văn hóa. Mơi trường văn hóa
đó là thiên nhiên thứ hai, là vườn ươm tạo nên nhân cách văn hóa. Con
người vừa là chủ thể , lại vừa là sản phẩm của chính họ. Phẩm chất văn hóa
thể hiện ở trình độ ứng xử của con người đối với thiên nhiên, đối với xã hội
và đối với bản thân.
Như vậy, nói đến đời sống văn hóa là nói đến các hoạt động sống của
con người, hoạt động đó là mang tính sáng tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất, tinh thần của bản thân mình theo hướng nhân văn. Có thể hình dung
đời sống văn hóa là một lĩnh vực thuộc đời sống xã hội, trong đó diễn ra
q trình sáng tạo, bảo quản, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa
(cả sản phẩm của quá khứ để lại và những sản phẩm mới được sáng tạo).
Hay nói cách khác, nó thuộc đời sống xã hội, trong đó diễn ra các họat
động văn hố [5, tr.246].
Con người là chủ thể thơng qua các hoạt động sáng tạo ra các sản
phẩm văn hóa, cũng là chủ thể tiêu dùng các sản phẩm đó và bảo quản
truyền bá văn hóa. Con người là một dạng sản phẩm văn hố cao cấp, bởi
chính hoạt động văn hóa đã làm hồn thiện bản chất người.

Đời sống văn hóa gồm 4 yếu tố:


- Những yếu tố văn hóa vật thể gồm các thiết chế văn hóa, các tác
phẩm và vật phẩm văn hóa, các phương tiện thơng tin đại chúng và truyền
bá văn hóa, văn hóa văn nghệ dân gian, các trường học, các nhóm văn
hóa...
- Những yếu tố cảnh quan văn hóa (tự nhiên hoặc do con người tạo
ra) hiện diện ở mỗi cộng đồng: di tích lịch sử văn hóa, phong cảnh, cơng
viên, tượng đài...
- Những yếu tố văn hóa cá nhân ở mỗi cộng đồng: trình độ học vấn,
nhu cầu, sở thích và thị hiếu văn hóa, định hướng giá trị, phong cách sinh
hoạt, xử lý thời gian nhàn rỗi, văn hóa ứng xử, nếp sống văn hóa, lễ hội...
- Những yếu tố văn hóa của “các tế bào trong cộng đồng”: gia đình, tổ,
nhóm nghề nghiệp, nhóm học tập...
Bất kỳ cộng đồng nào cũng có mơi trường văn hóa nhỏ và mơi trường
văn hóa lớn. Mơi trường văn hóa nhỏ như: gia đình, tổ nhóm... là mơi
trường gần gũi nhất, tác động sâu sắc đến mỗi cá nhân. Với ý nghĩa đó,
trong nhóm gia đình - nhà trường - xã hội thì gia đình được đặt ở vị trí số
một trong tồn bộ q trình giáo dục để hình thành nhân cách con
người. Mơi trường văn hóa nhỏ không biệt lập mà là một bộ phận cấu
thành trong mơi trường văn hóa lớn.
Đời sống văn hóa, với tính chất đời sống của mơi trường văn hóa,
được hiểu bằng sự hoạt động của nó trong tồn bộ đời sống xã hội.
Sau đây là một số dạng của hoạt động văn hóa:
- Hoạt động sáng tác và biểu diễn văn nghệ, ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào đời sống.
- Hoạt động khai trí - giáo dục nhằm nâng cao kiến thức cho mọi
người: dạy học, diễn giảng, toạ đàm, thư viện, thông tin.



- Hoạt động lưu giữ sản phẩm văn hóa: bảo tàng, lưu trữ, triển
lãm, sưu tập.
- Hoạt động tiêu dùng sản phẩm văn hóa: đọc sách báo, nghe âm
nhạc, xem nghệ thuật, phim ảnh, triển lãm, bảo tàng, tham quan, du lịch...
- Hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, xây dựng phong tục, nếp sống
gia đình văn hóa.
- Hoạt động TDTT, vui chơi giải trí trong thời gian rỗi.
Tóm lại, đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội; bao
gồm các yếu tố tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa, vật thể, các thiết chế văn
hóa của nó), cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng
văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống văn hóa bao gồm
các hình thức sinh hoạt văn hóa hiện thực và cả các hình thức sinh hoạt văn
hóa tâm linh. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay cần chú ý đến
các yếu tố này.
1. 1. 3. Khái niệm “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”
Khái niệm “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” liên quan trước hết
đến khái niệm “Đơn vị cơ sở”.
Khái niệm "Cơ sở" hàm chứa nhiều nghĩa, nhưng nó được dùng ít
nhất trên ba phương diện:
- Cơ sở được quan niệm như những gì căn bản, làm nền, làm gốc, làm
căn cứ chính cho một lĩnh vực hoạt động, hay một tri thức nào đó. Thí dụ:
Cơ sở lý luận, Cơ sở văn hóa, Cơ sở vật chất ...
- Cơ sở được quan niệm như một địa điểm, địa chỉ, tụ điểm, trung
tâm... diễn ra một loại hình hoạt động nào đó về chính trị, kinh tế, văn hóa -


xã hội như: Cơ sở hoạt động cách mạng, Cơ sở dạy nghề, Cơ sở đào tạo,
Cơ sở văn hóa, Cơ sở y tế...
- Cơ sở được quan niệm như một địa bàn, một đơn vị hành chính, một

tổ chức... có cơ cấu hồn chỉnh ở cấp cuối cùng của một hệ thống.
Thí dụ, trong hệ thống chính trị có Đảng bộ cơ sở, Đồn cơ sở, Cơng
đồn cơ sở hay đơn vị hành chính cấp cơ sở...
Ở nước ta, bộ máy tổ chức quản lý nói chung đều tổ chức theo 4 cấp:
Trung ương - Tỉnh (Thành phố) - Quận (Huyện) và Xã (Phường, Thị trấn).
Trong trường hợp đang bàn, từ “Cơ sở” gắn với ý nghĩa thứ ba, cơ sở
được quan niệm là những địa bàn cơ sở hay đơn vị cơ sở. Lâu nay, ngành
VHTT thường tập trung chú ý nhiều đến việc xây dựng đời sống văn hóa
trên địa bàn cơ sở (theo phân cấp hành chính), cho nên, lý luận phương
pháp cơng tác cũng chỉ mới nói đến việc xây dựng đời sống văn hóa theo
địa bàn.
Trong quá trình tiến hành xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, ở nước ta
đã xuất hiện hai quan niệm về địa bàn cơ sở:
- Cơ sở là khái niệm chỉ đơn vị hành chính (Xã, Phường, Thị trấn), các
cơ quan nhà nước như bệnh viện, trường học, hoặc các doanh nghiệp...
- Cơ sở là đơn vị dân cư từ xã, phường xuống các làng, bản, ấp, buôn
hoặc các bộ phận cấu thành ở bên dưới (xóm, tổ dân phố…).
Nhìn ở góc độ quản lý hành chính Nhà nước thì xã, phường là cấp
hành chính nhỏ nhất. Tại đây có Ban văn hóa xã, phường, cũng là cấp cuối
cùng về quản lý Nhà nước của ngành VHTT. Trong trường hợp này, nội
dung xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở gần như đồng nghĩa với nội dung


xây dựng và phát triển các mặt hoạt động VHTT xã, phường và các đơn vị
tương đương.
Sau này, từ thực tiễn cịn cho thấy địa bàn thơn, làng, bản, ấp, khối
phố cũng là đối tượng cần quan tâm để xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Có nhiều lý do khách quan để giải thích, nhưng quan niệm như vậy là phù
hợp với thực tế.
Thôn, làng, bản, ấp … là những cộng đồng dân cư được hình thành từ

lâu đời. Cộng đồng này sống quây quần, ổn định lâu dài và khơng dễ gì bị
chia cắt bởi việc thiết lập các đơn vị hành chính cũng như các biện pháp
hành chính. Họ gắn kết với nhau bằng nhiều mối quan hệ về địa vực (hay
quan hệ láng giềng), xã hội (quan hệ huyết thống, vị thế xã hội…) kinh tế
(nghề nghiệp) và văn hóa (các phong tục, tập quán, tín ngưỡng). Đây là nơi
lưu giữ các giá trị nền tảng của văn hóa truyền thống. Ở các đơ thị, khái
niệm “Đơn vị cơ sở” trên bình diện tổ chức các hoạt động văn hóa, bên
cạnh các cụm dân cư vốn từ các làng xã cổ truyền chuyển thành, còn có các
nhà máy, cơng trường, cơ quan, trường học, bệnh viện, các đơn vị lực
lượng vũ trang, công an nhân dân.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là tạo các điều kiện cần thiết để tổ
chức cho các tầng lớp cư dân tại các địa bàn cơ sở ở nơng thơn và thành thị
có thể chủ động tham gia các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ các sản
phẩm văn hóa của Nhà nước và của chính họ sáng tạo nên, tạo mơi trường
văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và khơng ngừng
được nâng cao, phù hợp với những điều kiện ở từng địa phương, cơ sở [51,
tr.127].
Trong điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, các hoạt động của
việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tại các đô thị tập trung vào một số mặt
sau:


* Hoạt động thư viện, đọc sách báo
Sách báo là nguồn tri thức vơ tận, khơng thể thiếu góp phần nâng
cao nhận thức của con người. Vì vậy, vai trị của thư viện, phịng đọc
chiếm một vị trí rất quan trọng trong hoạt động của xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở mà cơ quan văn hóa có trách nhiệm triển khai thu hút bạn đọc
thường xuyên tới thư viện. Để làm được điều đó, người hướng dẫn phải có
nghiệp vụ chun mơn, biết lựa chọn, giới thiệu các loại sách báo có tác
dụng thiết thực đến các mặt của đời sống như các hoạt động chính trị - xã

hội, sản xuất kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày, điều hết sức quan trọng là
nhu cầu sách báo đối với từng đối tượng bạn đọc, hướng dẫn và thu hút lớp
trẻ thanh niên, thiếu nhi đọc sách báo như là một thói quen, một nhu cầu
khơng thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày, là một mục tiêu phấn đấu của những
người làm cơng tác thư viện góp phần định hướng và hoàn thiện nhân cách cho
các chủ nhân tương lai của đất nước.
Tổ chức thư viện và vận động quần chúng đọc sách báo có mối quan
hệ hữu cơ với nhau. Duy trì và phát triển phong trào đọc sách báo là việc
làm hết sức quan trọng đòi hỏi những người làm công tác thư viện phải
phối, kết hợp chặt chẽ với việc xây dựng phong trào quần chúng đọc sách
báo ở cơ sở và ngược lại muốn có được phong trào đọc sách báo phải lấy
thư viện làm cơ sở để duy trì và phát triển.
*Hoạt động giáo dục truyền thống
Hoạt động này nhằm tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ, các
tầng lớp cư dân hiểu được và tự hào với truyền thống lịch sử văn hóa
và truyền thống cách mạng của cha ông, trân trọng những đóng góp và
hy sinh của các thế hệ trước, từ đó có ý thức trách nhiệm hơn về nghĩa
vụ của bản thân mình trong việc phát huy truyền thống cha ông trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Hoạt động giáo dục truyền thống rất đa dạng, gồm :
- Đi tham quan các bảo tàng (bảo tàng văn hóa, bảo tàng lịch sử và
bảo tàng cách mạng, hay bảo tàng tổng hợp, bảo tàng chuyên ngành), nhà
truyền thống, các di tích lịch sử văn hóa và cách mạng, các danh lam thắng
cảnh, tổ chức các “tour” về nguồn.
- Tổ chức các buổi nói chuyện về truyền thống, các cuộc thi tìm hiểu
truyền thống tại các địa phương, đơn vị dân cư…
- Góp phần thực hiện chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở, nhiều ngành và các đơn vị cơ sở đều có phịng truyền thống ở cơ quan.

Đó là một trong những tiêu chí để cơ quan, đơn vị được công nhận là cơ
quan, đơn vị có mơi trường văn hóa.
* Hoạt động văn nghệ quần chúng
Các hoạt động này thu hút đông đảo quần chúng trong từng cộng
đồng dân cư tham gia sáng tác, biểu diễn các loại hình văn nghệ (ca hát,
kịch, tiểu phẩm, múa, ngâm thơ …) để phục vụ yêu cầu thưởng thức văn
hóa tinh thần trong cộng đồng. Các hoạt động này thường được tổ chức
trong các kỳ hội diễn văn nghệ, các đêm liên hoan, tổng kết của cộng đồng,
hay các buổi giao lưu giữa các cộng đồng, đơn vị … Các thể loại như ca
nhạc, múa, các tiểu phẩm sân khấu phản ánh kịp thời sinh động chủ trương,
chính sách của Đảng, cuộc sống đa dạng của nhân dân địa phương, nêu
gương người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán những thói hư, tật xấu trong
cộng đồng xã hội...Các hoạt động văn nghệ quần chúng ngày càng phát
triển mạnh mẽ là diện mạo, là sức sống của một đơn vị văn hóa cơ sở và là
cái nơi hình thành nên các văn nghệ sỹ chuyên nghiệp tương lai cho đất
nước.
* Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa


Nếp sống là thói quen sinh hoạt của một cộng đồng người, là toàn bộ
những ứng xử của con người, biểu hiện trong mối quan hệ xã hội của con
người, quan hệ giữa con người với môi trường thiên nhiên. Các mối quan
hệ đó cịn được biểu hiện trong các quy ước của các thiết chế tổ chức dựa
trên các nguyên tắc về huyết thống, tuổi tác, địa vực, nghề nghiệp, vị thế xã
hội, tùy từng tộc người, nhóm cư dân. Các quy tắc ứng xử đó được từng
thành viên tuân thủ nghiêm túc, hay tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với lợi ích cá nhân và cộng đồng, vì sự ổn định và tiến bộ của xã hội.
Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa cịn thể hiện ở việc xây dựng
các quy tắc liên quan đến việc tổ chức các nghi thức mà quan trọng nhất là
lễ cưới, lễ tang, về tổ chức lễ hội truyền thống, các dịp kỷ niệm trong năm.

* Hoạt động TDTT, vui chơi giải trí
Các hoạt động TDTT, vui chơi giải trí ở cơ sở có sức hấp dẫn đối với
đơng đảo quần chúng thuộc mọi lứa tuổi. Chúng có tác dụng giải trí lớn,
làm tan biến đi những căng thẳng sau những ngày làm việc, học tập mệt
nhọc, góp phấn tăng cường sức khỏe cho các thành viên trong cộng đồng
cư dân. tác động tích cực đến lao động sản xuất, góp phần tăng cường sự
đồn kết trọng cộng đồng cũng như giữa các cộng đồng cư dân, góp phần
giữ vững an ninh chính trị và đẩy lùi các tệ nạn xã hội trên từng địa bàn.
Các hoạt động đó còn là nơi ươm trồng các tài năng cung cấp nguồn nhân
tài thể thao thành tích cao cho tuyến trên. Vì vậy, tổ chức các hoạt động
TDTT, vui chơi giải trí là việc làm hết sức cần thiết, thường xuyên của các
cộng đồng cư dân mà vai trò, nhiệm vụ thuộc về các phòng VHTT - TT ở
cơ sở.
*Hoạt động thông tin, tuyên truyền và cổ động
Công tác thông tin, tuyên truyền và cổ động có nhiệm vụ thực hiện
phổ biến rộng rãi các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các


quyết định của cơ quan lãnh đạo địa phương xuống các cộng đồng dân cư,
đồng thời nêu gương người tốt, việc tốt, phê phán các thói hư, tật xấu góp
phần tạo dựng nếp sống văn hóa, văn minh ở từng địa bàn.
Trong cơng tác thơng tin, cổ động thì các cơ quan ngôn luận của
Đảng và Nhà nước là các cơ quan phát thanh, truyền hình và báo chí của
địa phương là cầu nối phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các tổ
đội thông tin cổ động cũng là một hình thức tổ chức sinh hoạt đem tiếng
nói của Đảng, Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân ở địa bàn
xa xôi, hẻo lánh.
Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa, thời đại của cơng nghệ thông
tin, nhận thức của con người phụ thuộc rất nhiều các yếu tố thông tin được
đăng tải trên các phương tiện truyền thông hiện đại. Đây là vấn đề nhạy

cảm mà các thế lực thù địch thường lợi dụng để tun truyền chống phá
cách mạng. Vì vậy, cơng tác thơng tin, tuyên truyền, cổ động ở địa phương,
nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng có trình độ dân trí thấp, vùng có những
phức tạp về thành phần dân cư, về xã hội, tơn giáo… có vai trị rất quan
trọng trong việc sàng lọc, định hướng tư tưởng, giúp cho mọi người lựa
chọn và tiếp nhận thông tin một cách đúng đắn nhờ đó mà xây dựng được
một đời sống văn hóa lành mạnh trên phạm vi cơ sở.
*Hoạt động của các CLB
CLB được tổ chức tại các đơn vị dân cư cả ở đô thị và nông thôn,
các cơ quan văn hóa, giáo dục hoặc các đơn vị quân đội, cơng an; các đồn
thể quần chúng, như Đồn thanh niên, Cơng đồn, Hội Liên hiệp Phụ nữ..
CLB là một tổ chức xã hội tập hợp nhau theo nguyên tắc tự nguyện, gồm
những người cùng chung sở thích, thực hiện các hoạt động thuộc các lĩnh
vực chính trị - xã hội, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, thể
thao và các hoạt động nghỉ ngơi giải trí khác. Thơng qua đó, nhằm tạo một


×