Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý văn hóa quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.91 KB, 140 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
*******&******

ĐẶNG THỊ THANH HOA

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN
NGHỆ THUẬT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số
: 60310642

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐĂNG NGHỊ

HÀ NỘI - 2013


2

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1


DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

3

MỞ ĐẦU

4

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

12

BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT

1.1. Quản lý Nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật

12

1.1.1. Quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về văn hóa

12

1.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật

16

1.1.3. Nội dung quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật

23


1.2. Vai trò của quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

25

1.2.1. Phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn

25

1.2.2. Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân

26

1.2.3. Nghệ thuật biểu diễn đóng vai trị ổn định chính trị, tăng

27

trưởng kinh tế và mở rộng hội nhập quốc tế
1.3. Khái quát về hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Hà Nội

28

1.3.1. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn

28

1.3.2. Các hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội

30

Tiểu kết


34

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ

36

THUẬT TẠI HÀ NỘI NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

2.1. Cơ chế quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội

36

2.1.1. Sự phân cấp quản lý về NTBD và hoạt động BDNT

36

2.1.2. Vị trí, chức năng của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Hà

40

Nội trong quản lý hoạt động BDNT
2.1.3. Cơ cấu, tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Phịng Quản lý

42

Nghệ thuật
2.2. Thực trạng cơng tác quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên
địa bàn Hà Nội


45


3

2.2.1. Xây dựng, ban hành văn bản pháp quy

46

2.2.2. Tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý BDNT

47

2.3. Đánh giá tình hình quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên

59

địa bàn Hà Nội hiện nay
2.3.1. Những thành tựu

59

2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại

63

Tiểu kết

75


Chương 3: GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT

77

TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Xu thế phát triển của ngành nghệ thuật biểu diễn tại Hà Nội

77

trong bối toàn cầu hóa
3.1.1. Ảnh hưởng của tồn cầu hóa đối với NTBD trong nước và

77

Hà Nội
3.1.2. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước

80

3.1.3. Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn của Hà Nội đến

84

năm 2020
3.2. Giải pháp quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật

86

3.2.1. Về vấn đề nhận thức


86

3.2.2. Về cơ chế, chính sách

95

3.2.3. Về nguồn lực

104

3.3. Một số khuyến nghị

108

3.3.1. Với Nhà nước và Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch

108

3.3.2. Với các cấp lãnh đạo của thành phố và Sở Văn hóa, Thể

109

thao & Du lịch Hà Nội
Tiểu kết

110

KẾT LUẬN


111

TÀI LIỆU THAM KHẢO

114

PHỤ LỤC

121


4

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BCHTW: Ban chấp hành Trung ương
BDNT: Biểu diễn nghệ thuật
CNH-HĐH: Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
ĐTHVN: Đài Truyền hình Việt Nam
HCV: Huy chương vàng
HCB: Huy chương bạc
NSND: Nghệ sĩ nhân dân
NTBD: Nghệ thuật biểu diễn
ODA: Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức
QPPL: Quy phạm pháp luật
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
Tp. Hà Nội: Thành phố Hà Nội
Tp. Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

VHTT&DL: Văn hóa, Thể thao và du lịch


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi bước lên vũ đài chính trị, Đảng ta đã nhìn thấy vai trị quan
trọng của văn hóa nghệ thuật. Từ bản Đề cương văn hóa năm 1943, văn hóa
nghệ thuật bắt đầu được định hướng theo phương châm khoa học - dân tộc đại chúng. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với nền văn hóa
Việt Nam. Bởi sau một quá trình phát triển tự phát, thì từ thời điểm đó, nền
văn hóa Việt Nam có ý thức và được định hướng một cách rõ ràng. Định
hướng ấy trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong những văn kiện của Đảng về
văn hóa, văn nghệ. Tất nhiên cũng phải thấy rằng, định hướng đó ở từng giai
đoạn luôn được chỉnh lưu câu từ cho phù hợp từng hoàn cảnh lịch sử của
nước nhà.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trị
quan trọng của văn hóa: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội”[21, tr.55]. Và, đặc biệt
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (BCHTW khóa VIII), Đảng chỉ rõ mục
tiêu "nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”. Có thể nói, những quan điểm này thực sự đã nhìn nhận đúng
vai trị của văn hóa, văn nghệ đối với việc phát triển của đất nước trong bối
cảnh hiện nay.
Thời kỳ đổi mới, với chính sách mở cửa, sự giao lưu hợp tác với các
nước trong khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng, nền văn hóa, văn nghệ
Việt Nam cũng khởi sắc trên mọi lĩnh vực, mọi phương diện. Đây là điều kiện
vơ cùng thuận lợi để chúng ta có thể tiếp xúc một cách chủ động, tự giác với
tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời cũng là cơ hội để giới thiệu với bạn bè
thế giới những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc. Có thể thấy

rằng, trong xu thế mở cửa mang tính tồn cầu hóa hiện nay, văn hóa Việt


6

Nam khơng cịn thụ động, khép kín, một chiều như trước, mà ngày càng trở
nên cởi mở, phóng khống hơn. Theo đó thị hiếu, nhu cầu thưởng thức văn
hố nghệ thuật của mọi tầng lớp nhân dân càng trở nên cần thiết và đa dạng
hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng đang phải đối diện với nhiều
thách thức như sự chệch hướng trong phát triển văn hóa, tính thương mại hóa
của nhiều hoạt động văn hóa, sự suy thoái trong lối sống, đạo đức xã hội ở
một bộ phận không nhỏ đặc biệt là lớp trẻ… Những điều đó dẫn đến nhiều
nguy cơ làm biến dạng mục tiêu, đường hướng, nguyên tắc và chuẩn mực
trong định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (BCHTW khóa VIII) đã đề ra. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời
vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, để làm giàu thêm bản sắc văn hóa
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Đó là bài tốn khó, địi hỏi các cấp quản lý
đưa ra lời giải sao cho vừa có tính thực tiễn, vừa có tính chiến lược lâu dài.
Là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, nơi hội tụ mọi tinh hoa văn
hóa, thời kỳ đổi mới, Hà Nội cũng là một trong những địa phương có sự chuyển
biến mau lẹ nhất. Q trình tồn cầu hóa, hội nhập giao lưu văn hóa hiện nay, Hà
Nội đã và đang đón nhận nhiều luồng văn hóa mới với cả hai chiều tác động tích
cực và tiêu cực. Trong lĩnh vực hoạt động biểu diễn nghệ thuật, bên cạnh những
loại hình nghệ thuật truyền thống, người Hà Nội hôm nay đang dần thích ứng và
có nhu cầu thưởng thức những loại hình nghệ thuật mới từ bên ngoài du nhập
vào. Các trào lưu văn hóa, các trường phái nghệ thuật biểu diễn mới, rồi sự thay
đổi trong cách thức trình diễn tác phẩm nghệ thuật đến nhiều chương trình ca
múa nhạc tổng hợp... đang hiện hữu ngày một nhiều ở không gian Hà Nội. Có
thể nói, sự tồn tại đan xen các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống và

hiện đại đã tạo nên bức tranh văn hóa đa diện nhiều sắc, nhưng cũng khơng kém
phần phức tạp, gây nhiều khó khăn, trở ngại cho các nhà quản lý. Bởi lẽ, trong


7

nền kinh tế thị trường đã có khơng ít những nghệ sĩ chạy theo thị hiếu, lợi dụng
nghệ thuật để kinh doanh bất chấp giá trị nghệ thuật đích thực, nhiều tác phẩm ra
đời một cách xô bồ, hỗn loạn…
Trong bối cảnh chung đó, vai trị của quản lý Nhà nước với các hoạt
động văn hóa trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Có thể thấy rằng, quan điểm
chỉ đạo, đường hướng, mục tiêu chiến lược, sự phân tầng trong công tác quản
lý trong thời gian qua đã phát huy tối đa vai trò của Nhà nước đối với các hoạt
động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội. Quản lý Nhà nước với sự phân
tầng trong các cấp quản lý (từ Trung ương đến địa phương với sự tham gia
của các ban ngành) đã góp phần quan trọng trong việc định hướng giao lưu
văn hóa quốc tế cũng như phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn, đáp ứng tốt
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân… Tuy nhiên, bên cạnh đó, cơng tác
quản lý cũng gặp khơng ít khó khăn, trở ngại trong việc điều tra, khảo sát tình
hình thực tế, xử phạt chưa kịp thời, nghiêm minh, việc kiểm sốt các chương
trình biểu diễn nghệ thuật, quản lý nguồn nhân lực chưa được thỏa đáng. Đặc
biệt là việc phân cấp quản lý chưa rõ ràng, còn chồng chéo, các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về biểu diễn nghệ thuật chưa đầy đủ, đồng bộ… tạo
nên những hạn chế, rào cản không nhỏ. Điều đó địi hỏi phải có một cái nhìn
tồn diện, khách quan, với sự phân tích, đánh giá sát thực, cụ thể đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý với hoạt động biểu diễn
nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
Những vấn đề trình bày ở trên, đã gợi mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài
Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội làm luận văn
của mình.

2.Tình hình nghiên cứu
Có thể thấy rằng, hoạt động biểu diễn nghệ thuật ra đời từ lâu, với mục
đích là đáp ứng nhu cầu tâm linh cũng như nhu cầu thưởng thức của con


8

người. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nó luôn tồn tại và phát triển
cùng với bước tiến của dân tộc. Trong thời đại ngày nay, hoạt động biểu diễn
nghệ thuật ngày càng gắn bó, trở thành một trong những nhu cầu cần thiết đối
với mọi tầng lớp xã hội. Chính vì vậy, trong nhiều năm trở gần đây, có khá
nhiều cơng trình nghiên cứu, đánh giá về những tác động của các loại hình
nghệ thuật biểu diễn tới đời sống con người cũng như thực trạng công tác
quản lý đối với hoạt động này.
Riêng với tác giả Nguyễn Viết Chức, qua nhiều năm tìm hiểu, khảo sát
về các loại hình biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội, ơng đã cơng bố một
loạt cơng trình nghiên cứu:
Xã hội hóa các dịch vụ văn hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, thực
trạng và giải pháp (Báo cáo tổng quan, 2002, mã số 01X - 12/02 - 2001 - 2):
cơng trình đề cập đến thực trạng quản lý nhà nước đối với một số loại hình
nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đi sâu khảo
sát một số loại hình dịch vụ văn hóa trong khơng gian biểu diễn hẹp (phịng
trà ca nhạc, vũ trường, tổ chức biểu diễn nghệ thuật thời trang, dịch vụ ăn hỏi
và tổ chức lễ cưới, dịch vụ tang lễ…) mà chưa đề cập tới những hoạt động
biểu diễn nghệ thuật ở những không gian rộng hơn.
Bảo tồn và chấn hưng nghệ thuật biểu diễn cổ truyền Thăng Long - Hà
Nội (Báo cáo tổng quan, 2003, mã số 01X - 12/02 - 2002 - 1): trong cơng
trình này tác giả đã khảo sát 17 bộ môn nghệ thuật biểu diễn của Thăng Long
- Hà Nội (chủ yếu là loại hình nghệ thuật biểu diễn cổ truyền) với định hướng
nghiên cứu: đánh giá mức độ “tồn lưu” của các loại hình nghệ thuật này trong

bối cảnh xã hội hiện đại, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục bảo
tồn và phát triển các loại hình biểu diễn nghệ thuật trong tương lai.
Nghiên cứu giải pháp phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật tiêu biểu
Thăng Long - Hà Nội trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế (Báo cáo


9

tổng quan, 2006, mã số 01X - 12/01 - 2003 - 2): cơng trình đề cập đến một số
hoạt động nghệ thuật biểu diễn của Thăng Long - Hà Nội. Trên cơ sở xác định
những giá trị văn hóa nghệ thuật tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội, tác giả
đi tới xây dựng một số giải pháp nhằm gìn giữ, phát huy những giá trị đó
trong q trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Qua các cơng trình nghiên cứu nêu trên, cho thấy tác giả Nguyễn Viết
Chức đã có một cái nhìn khá tồn diện và sâu sắc về sự phát triển của các loại
hình nghệ thuật biểu diễn, đồng thời đưa ra những định hướng và giải pháp
nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đó trong bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên tác giả lại chưa đi sâu khảo sát tổng thể về thực trạng công tác
quản lý từ các cấp, ban, ngành.
Bên cạnh các cơng trình của Nguyễn Viết Chức, cịn có khá nhiều
nghiên cứu, khảo sát về thực trạng hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên nhiều
khía cạnh khác nhau, chẳng hạn:
Giao lưu văn hóa quốc tế về văn hố nghệ thuật ở thành phố Hồ Chí
Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay (Luận văn cao học - Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005) của Nguyễn Thị Kim Liên, đề cập đến một số
loại hình nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh như: ca múa nhạc, sân khấu
truyền thống, sân khấu kịch nói…trong q trình giao lưu và hội nhập văn
hóa quốc tế.
Nghệ thuật biểu diễn của thủ đô Hà Nội, thực trạng và giải pháp (Luận
văn cao học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2009) của Bùi Thúy

Bình đã đi sâu, khảo sát, tìm hiểu về thực trạng, xu hướng phát triển của các
loại hình nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn Hà Nội trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao lưu quốc tế.
Nhìn nhận từ cơng tác quản lý, cũng có khá nhiều nghiên cứu mạnh dạn
đi sâu vào thực trạng quản lý của các cấp, ban, ngành từ trung ương đến địa
phương, như:


10

Công tác quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật của Cục Nghệ thuật
biểu diễn (Khóa luận tốt nghiệp 2005, trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2005)
của sinh viên Phạm Phương Thùy. Qua quá trình khảo sát thực tiễn, phân tích,
đánh giá cơng tác quản lý của Cục Nghệ thuật biểu diễn, tác giả đã đưa ra
những nhận xét khá nghiêm túc về cả mặt tích cực và tiêu cực, hướng tới
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động biểu diễn nghệ
thuật của Cục Nghệ thuật biểu diễn.
Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca múa nhạc dân tộc ở các đơn
vị nghệ thuật chuyên nghiệp quân đội, (Luận văn cao học - Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội, 2001) của học viên Nguyễn Thị Tuyết Mai đã đi sâu tìm
hiểu về cơng tác quản lý BDNT ca múa nhạc dân tộc ở các đơn vị nghệ thuật
chuyên nghiệp quân đội. Từ cách nhìn nhận tính đặc thù, khái quát thực trạng
và đưa ra những giải pháp quản lý nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ âm nhạc
dân tộc đối với lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu mà chúng tơi vừa điểm ở trên,
dẫu có đề cập ít hoặc nhiều đến cơng tác quản lý hoạt động biểu diễn nghệ
thuật trên địa bàn Hà Nội ở các phương diện khác nhau, nhưng đến nay, chưa
có cơng trình nghiên cứu nào mang tính tồn diện về thực trạng của cơng tác
này. Dẫu vậy, các cơng trình nghiên cứu trên vẫn là cơ sở gợi mở, cung cấp
một số luận cứ, luận chứng để giúp chúng tôi thực hiện đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, khảo sát về thực trạng công tác quản lý hoạt động
biểu diễn nghệ thuật: nội dung, hình thức các chương trình biểu diễn nghệ thuật,
hoạt động tuyên truyền quảng cáo, phát hành, kinh doanh băng đĩa… Trên cơ sở
đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động biểu
diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội .


11

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các cơng trình nghiên cứu, khảo sát về thực trạng quản lý
hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội… để có cái nhìn tổng
quan về tình hình nghiên cứu.
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động biểu diễn nghệ
thuật, vai trò của quản lý Nhà nước đối với hoạt động biểu diễn nghệ thuật
trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác quản lý nghệ thuật biểu diễn
ở Hà Nội: vấn đề quản lý nội dung, hình thức các chương trình biểu diễn
nghệ thuật, quản lý các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, hoạt động phát
hành, kinh doanh băng đĩa, quản lý đội ngũ diễn viên, nghệ sĩ …
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động
biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật của các cấp, ban,
ngành trên địa bàn Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội số lượng diễn viên (chuyên nghiệp và

không chuyên nghiệp) của các loại hình nghệ thuật khá đơng đảo. Mặt khác,
Hà Nội là nơi có nhiều đơn vị, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, bên cạnh là các
đơn vị nghệ thuật của lực lượng vũ trang cùng các ban ngành khác (Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam…). Tuy nhiên, trong luận
văn này chúng tôi chỉ giới hạn việc nghiên cứu, khảo sát công tác quản lý
hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở một số đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp và


12

hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội (ví dụ điển
hình từ năm 2008 đến năm 2012)
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối văn hóa của Đảng trong thời kỳ
đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu văn bản thơng qua sự phân tích, tổng hợp, xử lý thông tin.
- Điều tra xã hội học, thông qua tham dự, phỏng vấn sâu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài sẽ là cơng trình nghiên cứu tồn diện về thực trạng công tác quản
lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội (lấy ví dụ điển hình từ
2008 đến 2012).
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động
biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Hy vọng luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các học viên
khi nghiên cứu chuyên ngành Quản lý văn hóa.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm

3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động biểu diễn
nghệ thuật
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại
Hà Nội những năm gần đây
Chương 3: Giải pháp cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa
bàn Hà Nội thời gian tới


13

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
1.1. Quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
1.1.1. Quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về văn hóa
Trong diễn trình lịch sử, con người dần tiến hóa đến hồn thiện cả về
hình dáng, tâm sinh lý và đời sống xã hội. Đời sống xã hội ấy bao gồm nhiều
phương diện, nhu cầu, địi hỏi cần có nhiều lĩnh vực hoạt động của con người
như: kinh tế, chính trị, khoa học, văn hóa, giáo dục... Mọi hoạt động này, đều
được đặt dưới sự chỉ huy của cơ chế quản lý xã hội nhất định. Đó là nguồn
gốc ra đời của quản lý nhà nước.
1.1.1.1. Quản lý nhà nước
Sự xuất hiện của quản lý nhà nước được khẳng định là song hành cùng
sự xuất hiện của nhà nước. Nó xuất hiện để đảm nhiệm trọng trách quản lý
các công việc của nhà nước. Nội hàm của quản lý nhà nước sẽ thay đổi phụ
thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia
qua các giai đoạn lịch sử.
Nước ta trong diễn trình phát triển cũng khơng nằm ngoài quy luật
chung của thế giới. Ở nước ta, về quyền lực nhà nước mang tính thống nhất,

trong đó có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương chịu trách nhiệm quản
lý các ngành, các lĩnh vực, các vùng, các thành phần khác nhau trong cả nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương gồm: hội đồng nhân dân, cơ
quan hành chính địa phương là cơ quan chấp hành hiến pháp, luật, các văn


14

bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của hội đồng nhân dân; chịu trách
nhiệm quản lý về mọi mặt đối với các lĩnh vực hoạt động ở địa phương dưới sự
điều hành thống nhất của Chính phủ. Quản lý hành chính bao gồm hoạt động
quản lý của bộ máy hành pháp, khơng phải là tồn bộ bộ máy nhà nước.
Quản lý nhà nước chính là cơng việc do các cơ quan trong hệ thống
hành chính từ Trung ương đến địa phương tiến hành trên cơ sở của Hiến
pháp, các đạo luật, nghị quyết…, nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước để điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trong quá trình vận hành xã
hội và hành vi của cơng dân, nhằm duy trì trật tự an ninh và phát triển kinh tế
- xã hội.
Quản lý nhà nước là phương thức tác động liên tục có tổ chức, có định
hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt chính trị, văn hóa, xã
hội, kinh tế… bằng một hệ thống luật lệ, chính sách, nguyên tắc, phương pháp
và biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản
lý. Đối tượng quản lý có thể ở quy mơ lớn nhỏ khác nhau như: toàn cầu, khu
vực, quốc gia, ngành, đơn vị, con người hay sự vật cụ thể. Quản lý sẽ thể hiện
việc tổ chức, điều hành tập hợp nhân lực, cơng cụ, phương tiện, tài chính…và
phối hợp các yếu tố đó để thực hiện mục tiêu định trước.
Chủ thể quản lý muốn kết hợp được các hoạt động của đối tượng theo
một định hướng quản lý đặt ra, nhất định phải tạo ra được “quyền uy” để buộc

đối tượng phải tuân thủ theo. Trên cơ sở đó để tác động, điều khiển, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt được
mục tiêu đã đề ra. Quản lý phải dựa trên cơ sở sao cho người bị quản lý ln
có thái độ tự nguyện tuân theo, vận động hết năng lực trí tuệ để sáng tạo phục
vụ lợi ích bản thân và cho xã hội.
Trình độ quản lý xã hội, nhất định phải đánh dấu sự phát triển của xã
hội đó theo từng giai đoạn. Nó thể hiện sự hồn thiện dần của hệ thống tổ
chức bộ máy, hệ thống thể chế và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý.


15

Từ những nội dung trên và xem xét quản lý với tư cách là một hoạt động,
có thể định nghĩa:
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành
vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện nhằm thỏa mãn nhu
cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội
[39, tr.7].
1.1.1.2. Quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa chính là một dạng quản lý xã hội đặc thù
và mang tính tất yếu. Trong xã hội, hoạt động văn hóa là dạng hoạt động có
tính tổng thể quan trọng, và lẽ tất yếu cần phải có sự tham gia quản lý của nhà
nước. Bản chất của hoạt động văn hóa, ngồi ý nghĩa là hoạt động tư tưởng
mang tính sáng tạo, thì nó cịn là hoạt động kinh tế. Vì vậy quản lý văn hóa là
hoạt động xã hội mang tính đặc thù, được thực hiện bằng hệ thống luật pháp
và chính sách ln hướng tới sự phát triển văn hóa. Cách thức quản lý văn
hóa phụ thuộc vào truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia, nhằm đáp ứng
đúng yêu cầu, mục tiêu đã đề ra trong tiến trình phát tiển.

Sở dĩ nói quản lý nhà nước về văn hóa mang tính tất yếu, có tính đặc
thù là vì: Thứ nhất, hoạt động văn hóa là hoạt động sáng tạo, mang giá trị lưu
truyền từ đời này sang đời khác. Đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật,
người nghệ sĩ thông qua những tác phẩm nghệ thuật đã làm đẹp thêm cho
cuộc sống, cho con người và dân tộc; Thứ hai, hoạt động văn hóa cịn bao
gồm các hoạt động tư tưởng, có khả năng ảnh hưởng (cả tích cực và tiêu cực)
đối với xã hội; Thứ ba, hoạt động văn hóa cịn là hoạt động kinh tế tạo nguồn
lực kinh tế trực tiếp để phát triển kinh tế xã hội. Do hoạt động văn hóa có tính
đa dạng, nên quản lý văn hóa mang tính đặc thù trong lãnh đạo, quản lý văn


16

hóa khơng chỉ thể hiện ở từng lĩnh vực cụ thể của đời sống mà cịn thể hiện ở
cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa ở các cấp từ trung ương tới địa phương.
Quản lý nhà nước về văn hóa thể hiện quyền lực của nhà nước trong
quá trình xây dựng, phát triển sự nghiệp văn hóa cũng như đảm bảo mục tiêu
chung của nhà nước. Quản lý về văn hóa cịn là sự định hướng, tạo điều kiện,
tổ chức, điều hành nhằm giúp văn hóa phát triển theo chiều hướng có ích cho
con người. Trong q trình quản lý về văn hóa, nhà nước ta ln qn triệt
tinh thần: văn hóa thuộc về nhân dân, mọi người đều có quyền hưởng thụ văn
hóa và có nghĩa vụ đóng góp bảo vệ văn hóa dân tộc. Việc quản lý văn hóa
ngồi việc thực hiện bằng bộ máy quản lý nhà nước thì phải khuyến khích các
hình thức tự quản của nhân dân.
Trong nội dung của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW (khóa
VIII), Đảng ta đã nêu rõ mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện để văn hóa trở thành nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Song song với phát triển văn hóa phải quan tâm tới việc xây dựng con người
Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, trong một mơi

trường văn hóa lành mạnh.
Đảng ta đã nhìn nhận đúng đắn về vai trị của văn hóa đối với sự phát
triển kinh tế xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể qua nội dung văn kiện của
Đảng trong các kỳ đại hội. Thơng qua đó, chúng ta thấy rõ vai trị của quản lý
văn hóa trong việc tạo điều kiện cho văn hóa phát triển hài hịa trong mối
quan hệ với kinh tế, chính trị, xã hội. Xét từ bản chất thì văn hóa có tính giai
cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Vậy nên, làm thế nào để giải quyết tốt mối
quan hệ trên, đó là trách nhiệm của nhà nước và toàn xã hội.
Trong bối cảnh nước ta đang chuyển đổi nền kinh tế, văn hóa phải giữ
vai trị là động lực và là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội nhằm khắc


17

phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường. Con người sống và lao động
tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội, điều đó quyết định sự phát triển
của kinh tế xã hội. Con người là nhân tố quyết định tới sự suy vong hoặc
hưng thịnh của một dân tộc. Nói đến con người là nói đến văn hóa bởi con
người là sản phẩm của văn hóa. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra văn hóa,
vừa là người hưởng thụ văn hóa. Hoạt động văn hóa là một hoạt động phức
tạp của con người diễn ra trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do vậy
quản lý nhà nước về văn hóa là quản lý tổng thể các hoạt động văn hóa đó, để
thực hiện chức năng nhiệm vụ vì mục tiêu xây dựng và phát triển sự nghiệp
văn hóa. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật là một trong số các hoạt động văn
hóa đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng để trở thành một lĩnh
vực phát triển bền vững theo đúng mục tiêu xây dựng, phát triển sự nghiệp
văn hóa của dân tộc. Đó là một phần cơng việc giúp văn hóa tham gia vào sự
lựa chọn con đường phát triển lâu dài của đất nước.
1.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
1.1.2.1. Khái niệm nghệ thuật biểu diễn

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, nghệ thuật được hiểu theo
nhiều nghĩa:
Nghệ thuật là sự sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa vật thể hoặc phi
vật thể, trong đó chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, thẩm mỹ. Những giá trị ấy
đem lại sự rung động cảm xúc, tâm tư, tình cảm cho con người.
Nghệ thuật là cái hay, cái đẹp để con người chiêm nghiệm qua các giác
quan, từ đó thể hiện sự ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng, kỹ năng trên mức
bình thường đối với một tác phẩm nghệ thuật hay một nghệ sĩ cụ thể nào đó.
Khi được gọi là nghệ thuật có nghĩa là một nghề nghiệp nào đó được
thực hiện ở mức hồn hảo với trình độ điêu luyện, thậm chí siêu việt. (Chẳng


18

hạn như nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật diễn thuyết, nghệ thuật viết báo…).
Theo nghĩa này nghệ thuật được hiểu là một tài đặc biệt nào đó.
Hiểu theo nghĩa rộng, nghệ thuật là những kỹ xảo, kỹ năng, sự tinh tế
về tài nghệ, là phương thức, phương pháp giàu sức sáng tạo của con người
trong hoạt động ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo nghĩa hẹp, nghệ
thuật là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo ra cái đẹp bằng hình tượng sinh động
cụ thể và gợi cảm, biểu hiện một cách tinh tế các quan niệm thẩm mỹ của con
người trong đời sống xã hội.
Căn cứ vào đặc trưng và cách thức phản ánh, người ta chia nghệ thuật
thành 7 loại hình cơ bản đó là: kiến trúc, mỹ thuật, văn chương, âm nhạc, sân
khấu, điện ảnh, múa. Tuy nhiên, sự phân loại ở trên chỉ có tính tương đối, vì
khơng có một loại hình nghệ thuật nào là mang tính thuần nhất.
Về sân khấu, đây là một trong những loại hình nghệ thuật ra đời từ rất
sớm, có vai trị tiên phong cho các loại hình nghệ thuật biểu diễn. Sân khấu là
loại hình nghệ thuật tổng hợp bởi trong một tác phẩm sân khấu có văn chương,
hội họa, điêu khắc, kiếu trúc, âm nhạc, múa… Khi đề cập tới sân khấu không thể

không bàn đến nghệ thuật biểu diễn và diễn xuất của diễn viên.
Ở nước ta, khái niệm về nghệ thuật biểu diễn xuất hiện đã lâu, tuy
nhiên vẫn chưa được đồng nhất về nội hàm của nó. Tác giả Đỗ Thị Hương
cho rằng:
Khái niệm nghệ thuật diễn xuất hay nghệ thuật trình diễn, nghệ thuật
biểu diễn… được dùng để chỉ một nghệ thuật vốn tồn tại bằng phương
thức “diễn” trên sàn diễn bởi con người (perfpromence). Trong nghiên
cứu văn hóa nghệ thuật, cách tiếp cận performance nghĩa là nghiên
cứu một hành động, một sự kiện, một thể loại hay hình thức từ mọi
góc độ để thấy đối tượng thực thi ra sao, bằng cách thức nào, trong bối
cảnh nào, ai là người thực hiện, ai là người tham gia [8, tr.14].


19

Khái niệm NTBD được quan niệm gần nghĩa với khái niệm nghệ thuật
diễn xuất hay nghệ thuật trình diễn. Nghệ thuật diễn xuất sân khấu với nghĩa
hẹp chỉ nghệ thuật diễn của người diễn viên trên sân khấu nhằm khắc họa
nhân vật trong kịch bản bằng hành động sân khấu. Hành động sân khấu hàm
chứa trong nó khơng chỉ là hành động thể hiện nhân vật trong vở diễn mà cả
khả năng, cách thức, sự phản ứng… thông qua hành động.
Nhà nghiên cứu Đình Quang cho rằng:
Nghệ thuật sân khấu là nghệ thuật tổng hợp và tập thể với nhiều nghệ
thuật hợp lại, nhưng nghệ thuật biểu diễn của diễn viên ln đóng vai
trị chủ yếu, vai trị trung tâm chi phối tất cả các yếu tố nghệ thuật
khác. Có đầy đủ mọi thứ như kịch bản, sân khấu, đạo cụ… mà khơng
có diễn viên thì đêm diễn khơng thể thành hình được [48, tr.6 -7].
Theo nhà nghiên cứu Trần Trí Trắc: “Nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện
sáng tạo của nghệ sĩ trước khán giả, là tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình
cảm đến với tình cảm và trở thành một bảo tàng sống của dân tộc”[61, tr.24].

Như vậy, nghệ thuật biểu diễn là hoạt động nghệ thuật gắn liền với vai trò
của người diễn viên. Người diễn viên đóng vai trị trung tâm chi phối các yếu tố
nghệ thuật khác. Thơng qua q trình sáng tạo từ lúc nghiên cứu tác phẩm, đến
khi đặt mình trong hồn cảnh mà hành động, đó là một q trình hóa thân của
người biểu diễn dùng tâm hồn, cơ thể mình, hoạt động trong vai kịch, hay thể
hiện một ca khúc, một bản nhạc... Tuy nhiên, không phải chỉ cần diễn xuất của
người biểu diễn là có thể ra đời một cơng trình nghệ thuật, mà cịn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như kịch bản, không gian diễn xuất và cơng chúng.
Rõ ràng là có những mâu thuẫn trong định nghĩa về nghệ thuật biểu diễn,
vì xét về bản chất thì phương tiện để người nghệ sĩ sáng tạo ra là bản thân họ và
nhân vật sáng tạo ra cũng nằm trong đó. Cịn các phương tiện vật chất như sân


20

khấu, rạp xiếc, rạp múa rối, rạp chiếu phim… chỉ là khơng gian để người nghệ sĩ
trình diễn. Dẫu vậy, vẫn có thể thống nhất khái niệm nghệ thuật biểu diễn như
sau: là nghệ thuật tổng hợp có q trình sáng tạo và thưởng thức song song tồn
tại, trong đó diễn xuất của người diễn viên đóng vai trị trung tâm.
Khi xem xét một cơng trình nghệ thuật người ta thường chú ý tới các
yếu tố: chủ thể (sáng tạo ra tác phẩm), khách thể (hiện thực cuộc sống), vật
liệu (phương tiện nghệ thuật). Tất cả hợp nhất và cùng tồn tại trong một con
người. Cũng trong con người đó, phần nào thuộc về chủ thể, phương tiện hay
tác phẩm thật khó mà rạch rịi được.
Qua các quan niệm cho ta sự hiểu biết về NTBD để từ đó nhận định thấy
bản chất, chức năng của nó nhằm tìm ra hướng quản lý đúng đắn nhất phù hợp
nhất để đưa NTBD phát triển. Là một bộ phận của văn hóa nghệ thuật, nghệ
thuật biểu diễn cũng có đặc trưng riêng. Đây là một bộ phận nhạy cảm của văn
hóa tinh thần, là sự biểu hiện tinh tế nhất của văn hóa thẩm mỹ. Nó được hình
thành và có sức tác động lớn tới tâm hồn, trí tuệ con người xã hội. Nghệ thuật

biểu diễn chịu sự quy định của đời sống kinh tế, chính tị, xã hội đồng thời có tính
độc lập riêng. Do vậy, nó có thể tạo ra những tác động tích cực hay tiêu cực đối
với đời sống xã hội. Vì có sức tác động lớn về tâm hồn, trí tuệ nên NTBD đảm
đương nhiều chức năng: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giải trí… đối với cơng
chúng thưởng thức nghệ thuật. Chính vì vậy, NTBD chính là tấm gương phản
chiếu đời sống xã hội, là ngọn đuốc soi đường, định hướng con người sống đẹp,
biết nhìn vào hiện thực để tự hồn thiện mình. NTBD cũng là con dao hai lưỡi,
kẻ xấu có thể lợi dụng để làm lung lạc ý chí của cơng chúng bằng những tác
phẩm có nội dung thiếu lành mạnh, đi ngược lại giá trị nhân văn của toàn nhân
loại và thuần phong mỹ tục của đất nước.
1.1.2.2. Quan niệm về quản lý NTBD
Xét về mặt cấu trúc, nghệ thuật biểu diễn bao gồm các thành tố:Đội ngũ
nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật bao gồm: tác giả kịch bản, nhà biên


21

kịch, đạo diễn, diễn viên, nhạc công, họa sĩ thiết kế sân khấu, nghệ sĩ hóa
trang, nhân viên ánh sáng… Họ chính là người vừa sáng tạo, vừa là người đưa
tác phẩm nghệ thuật tới công chúng, giúp công chúng nhận biết cái hay cái
đẹp, cái xấu trong nghệ thuật và trong cuộc sống.
Tác phẩm nghệ thuật là bức thông điệp do người nghệ sĩ gửi tới xã hội,
tất nhiên nó khơng phải là hình ảnh thụ động về thế giới mà là một tấm gương
phản chiếu hiện thực đời sống xã hội mang tính điển hình và khái qt cao.
Người nghệ sĩ là chủ thể thẩm mỹ chuyển đổi đối tượng thẩm mỹ vào trong
tác phẩm của mình và từ đó biến thành đối tượng thẩm mỹ cao hơn, tập trung
hơn trước công chúng nghệ thuật. Đối tượng thẩm mỹ và giá trị sáng tạo của
người nghệ sĩ là hai yếu tố cấu thành nên một tác phẩm nghệ thuật có giá trị.
Cơng chúng là những người đánh giá và thưởng thức nghệ thuật. Cơng
chúng đóng vai trị rất quan trọng trong đời sống văn hóa nghệ thuật. Ngoại

trừ nhu cầu kiếm sống và khát khao muốn khẳng định tên tuổi của mình, thì
nhu cầu giải phóng trăn trở trước những vấn đề của cuộc sống và việc chia sẻ
những trăn trở ấy là quan trọng nhất. Trong quá trình sáng tạo, thì hai lý do
quan trọng đó có sức mạnh ngang nhau, bởi bất kể tác phẩm nghệ thuật nào
cũng là con đẻ của nghệ sĩ nhưng sinh mệnh của nó lại phụ thuộc vào nhận
thức và đánh giá của công chúng. Nhưng, không phải vậy mà bất kỳ tác phẩm
nghệ thuật nào cứ có lực lượng cơng chúng đơng đảo sẽ trở thành tác phẩm có
giá trị. Ví dụ điển hình là trong thời gian gần đây, trong một số chương trình
biểu diễn ca nhạc, ca sĩ, tác phẩm âm nhạc do cơng chúng bình chọn đơng đảo
lại chưa được các nhà chuyên môn đánh giá cao về nghệ thuật.
Các cơ quan sản xuất, bảo quản, nhân bản, phổ biến tác phẩm có vai trị
đưa tác phẩm nghệ thuật đến với công chúng. Hệ thống các nhà hát, cung văn
hóa, cơ quan xuất bản, cơ quan truyền thơng đại chúng như đài phát thanh,
truyền hình, báo chí…, đóng vai trị cầu nối giữa tác phẩm nghệ thuật tới


22

công chúng. Hiện nay các phương tiện truyền thông đại chúng rất hiện đại đã
đáp ứng nhu cầu phổ biến tác phẩm nghệ thuật đến với cơng chúng nhanh
chóng hơn. Tuy nhiên, vì chạy theo lợi nhuận mà các tác phẩm nghệ thuật
chuyển tải tới công chúng trở nên kém giá trị do công nghệ quảng cáo tinh vi.
Để nhận biết được giá trị đích thực của những tác phẩm đó, địi hỏi cơng
chúng phải có trình độ thẩm mỹ nhất định.
Các cơ quan quản lý lãnh đạo thuộc bộ máy quản lý nhà nước về NTBD
được thành lập để đảm bảo cho sự hình thành và phát triển của các yếu tố kể
trên. Ngồi ra, cần phải có lực lượng các nhà nghiên cứu lý luận và phê bình
nghệ thuật cùng các tổ chức của họ với nhiệm vụ hướng dẫn sự phát triển
sáng tạo nghệ thuật, hình thành dư luận xã hội góp phần giáo dục và phát triển
thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn cho công chúng.

Trên cơ sở cấu trúc của NTBD, có thể khái quát khái niệm NTBD như
sau: Quản lý nghệ thuật biểu diễn là một q trình tác động có định hướng, có
tổ chức của bộ máy quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn tới đội ngũ
nghệ sĩ, công chúng và các cơ quan sản xuất, bảo quản, nhân bản, phổ biến
tác phẩm để nghệ thuật biểu diễn phát triển tới mục tiêu đã định.
Công tác quản lý này thể hiện cách nhìn nhận về tri thức bản lĩnh, tầm
nhìn và phương pháp quản lý của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Đó là
sự định hướng sáng tạo cho các nghệ sĩ nhằm đưa sự sáng tạo vào khuôn khổ
hành lang pháp lý, hành lang chính trị hợp lý để đem lại niềm tin và động lực
sáng tạo của người nghệ sĩ.
1.1.2.3. Quan niệm về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Dựa vào các khái niệm về nghệ thuật biểu diễn thì thấy, các tác giả nhấn
mạnh vào vai trị của người nghệ sĩ. Như vậy, có thể nói: việc đưa ý tưởng
của tác giả đến với công chúng phải thơng qua người nghệ sĩ với những hình


23

thức chuyển tải khác nhau. Việc hóa thân vào nhân vật của các nghệ sĩ tạo
nên sự sống động, sức sống bất hủ của một tác phẩm nghệ thuật - đó chính là
hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Ngồi ra, Quy chế HDBDNT và tổ chức biểu
diễn nghệ thuật chuyên nghiệp ban hành theo quyết định số 47/2004/QĐ BVHTT ngày 2/7/2004 của BVHTT nêu rõ tại Điều 4, Chương II:
Biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là hoạt
động đưa chương trình, tiết mục, vở diễn đến với cơng chúng qua
sự trình diễn của diễn viên chun nghiệp, thể hiện hình tượng
nghệ thuật phản ánh cuộc sống thông qua tác phẩm sân khấu, ca
nhạc nhằm giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, nâng
cao dân trí, thẩm mỹ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh
thần của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc [10, tr.3].

Từ việc nhận định về hoạt động biểu diễn nghệ thuật và ý nghĩa của nó
đối với đời sống xã hội, nhà nước phải có những phương cách quản lý nhằm
đẩy mạnh hiệu quả quản lý hoạt động BDNT nói riêng và NTBD nói chung.
1.1.2.4. Quan niệm về quản lý biểu diễn nghệ thuật
Một xã hội có đời sống vật chất đầy đủ, đời sống văn hóa tinh thần
phong phú, lành mạnh là mục tiêu tốt đẹp mà nhà nước ta ln hướng tới.
Trong đó, các hoạt động văn hóa ln phải được quan tâm bằng định hướng
và chính sách quản lý nhằm nâng cao hiệu quả vì mục tiêu đó. Hoạt động
BDNT là một trong những lĩnh vực nhạy cảm của đời sống văn hóa ở nước ta
hiện nay. Trong thời gian qua, quản lý BDNT đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi
các nhà quản lý phải nghiên cứu sâu sắc để cho ra những phương sách thích
hợp đối với đối tượng này.
Từ góc độ điều khiển học thì quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
một q trình của cơng việc quản lý nói chung bao gồm những biện pháp,


24

phương pháp, phương tiện quản lý được chủ thể quản lý sử dụng tác động lên
khách thể quản lý, để hướng tới mục tiêu nhất định.
Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật chính là áp dụng các chính sách
của nhà nước đối với đối tượng quản lý cụ thể lên các loại hình nghệ thuật
biểu diễn. Đây là một quá trình tổng hợp quản lý của nhà nước nhằm tác động
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để điều chỉnh, hoàn thiện hoạt
động biểu diễn nghệ thuật, nhằm mục tiêu phát triển nghệ thuật biểu diễn
thông qua những nhiệm vụ và mục đích cụ thể.
1.1.3. Nội dung quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm sự nghiệp phát triển văn hóa nói
chung và ngành biểu diễn nghệ thuật nói riêng. Nội dung quản lý hoạt động
biểu diễn nghệ thuật được thể hiện rõ qua Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5

BCHTW Đảng (khóa VIII):
Phát huy vai trị thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội
phê bình vǎn học, nghệ thuật. Bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với
nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của vǎn nghệ
sĩ, các nhà vǎn hóa. Nâng cao chất lượng, phát huy tác dụng của
nghiên cứu, lý luận.
Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối
vǎn nghệ của Đảng
Không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức
nghệ thuật của cơng chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh
niên, thiếu niên, nhi đồng. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia
tích cực sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ ngày càng nhiều
tác phẩm vǎn nghệ có giá trị trong nước và ngồi nước
Chǎm sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận
lợi cho vǎn nghệ sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp vǎn nghệ sĩ
trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả [4, tr. 205- 206].


25

Chúng ta thấy, chính sách văn hóa sẽ đóng vai trị định hướng cơng tác
quản lý can thiệp cụ thể đối với hoạt động văn hóa nhằm thực hiện mục tiêu
xây dựng nền văn hóa đã được đề ra trong đường lối, quan điểm của Đảng.
Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, Nhà nước đưa ra những chính sách về biểu diễn nghệ thuật
như: Ban hành chính sách đối với doanh nghiệp tổ chức BDNT; chính sách
chi phí quản lý hành chính, tiền lương, xây dựng tiết mục, bồi dưỡng thanh
sắc, bồi dưỡng biểu diễn, phụ cấp độc hại…; một số văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động BDNT; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa nói
chung, trong đó có ngành NTBD nói riêng. Ngành NTBD được xây dựng

trong mối tương quan và tương ứng với bộ máy lãnh đạo văn hóa, tư tưởng
của Đảng và bộ máy lập pháp của Quốc hội. Bộ máy này được xây dựng với
hệ thống khép kín từ Trung ương đến địa phương.
Đối với ngành NTBD, Chính phủ giao cho Bộ VHTT&DL nhiệm vụ
quản lý nhà nước về hoạt động BDNT chuyên nghiệp trên phạm vi toàn quốc.
Cục Nghệ thuật biểu diễn là cơ quan chịu trách nhiệm trước Bộ thực hiện
nhiệm vụ này. Sở VHTT&DL các tỉnh, thành phố có chức năng tham mưu
giúp UBND quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật chun nghiệp ở địa
phương mình. Ngồi ra, hệ thống các lực lượng đặc biệt như an ninh, quân
đội, tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội… có Cục Văn hóa tư tưởng mang tính
tương thích để tham gia quản lý lĩnh vực này.
Thứ hai, Nhà nước có cơ chế tài chính thể hiện qua việc đầu tư nguồn
ngân sách dành cho hoạt động của ngành văn hóa thơng tin gồm hai loại: ngân
sách nhà nước và ngân sách ngồi nhà nước thơng qua tăng thu các dịch vụ
văn hóa, đóng góp của các tổ chức, vốn ODA…
Thứ ba, Nhà nước tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng: hiện nay đơn vị
NTBD chuyên nghiệp đều có nhà và đất do nhà nước cấp, với các trang thiết
bị cần thiết để hoạt động nghề nghiệp.


×