Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý văn hóa quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện cát hải, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 146 trang )

1

Bộ VĂN HOá, THể THAO Và DU LịCH

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO

TRƯờNG ĐạI HọC VĂN HOá Hà NộI

********

Hoàng quang huy

quản lý di tích lịch sử văn hóa
ở huyện cát hải, thành phố hải phòng

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
MÃ số: 60310642

LUậN VĂN THạC Sĩ QUảN Lý VĂN HóA

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bùi Hoài Sơn

Hà Nội, 2015


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Hồi Sơn. Những nội dung trình bày trong
luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa


từng được ai cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết
quả nghiên cứu của người khác, tơi đều trích dẫn rõ ràng. Tơi hồn tồn
chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày …. tháng…năm 2015
Tác giả

Hoàng Quang Huy


3

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ...............................................................................................................1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..........................................................................5
MỞ ĐẦU..................................................................................................................6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA
HUYỆN CÁT HẢI ..................................................................................................16

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa ...................................16
1.1.1. Một số khái niệm ...............................................................................16
1.1.2. Cơ sở pháp lý về công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa ................25
1.2. Hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải ...............................33
1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ..........................................................33
1.2.2. Lịch sử hình thành .............................................................................35
1.2.3. Truyền thống lịch sử, văn hóa ...........................................................39
1.2.4. Đặc điểm kinh tế - xã hội...................................................................48
1.2.5. Khái quát về số lượng và loại hình di tích .........................................50
1.2.6. Tình hình phân loại và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ...................60
1.2.7. Hiện trạng và tình trạng bảo quản di tích lịch sử văn hóa .................62

1.2.8. Giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải ............66
Tiểu kết Chương 1 .........................................................................................69
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA Ở HUYỆN
CÁT HẢI ....................................................................................................... 71

2.1. Hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý di tích lịch sử văn hóa huyện
Cát Hải .................................................................................................... 71
2.1.1. Hệ thống tổ chức ...............................................................................71
2.1.2. Cơ chế quản lý nhà nước ...................................................................73
2.2. Thực trạng quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải .............75
2.2.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch
sử văn hóa trên địa bàn huyện .....................................................................75
2.2.2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ di tích lịch sử
văn hóa .........................................................................................................76


4

2.2.3. Tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ nhằm giữ gìn và phát huy
giá trị di tích lịch sử văn hóa........................................................................78
2.2.4. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật xử lý vi phạm di tích ...91
2.2.5. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên mơn về quản lý di
tích lịch sử văn hóa ......................................................................................93
2.2.6. Khen thưởng, kỷ luật .........................................................................94
2.3. Nhận xét, đánh giá về quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện
Cát Hải ............................................................................................. 95
2.3.1. Ưu điểm .............................................................................................95
2.3.2. Hạn chế ..............................................................................................96
Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................103
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA HUYỆN CÁT HẢI ................................104

3.1. Phương hướng, nhiệm vụ quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện
Cát Hải .................................................................................................. 104
3.1.1. Quan điểm........................................................................................104
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ ..........................................................................105
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử văn hóa ở
huyện Cát Hải...............................................................................................106
3.2.1. Nhóm giải pháp về chính sách.........................................................106
3.2.2. Nhóm giải pháp về tăng cường cơng tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ................................114
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di tích ...120
Tiểu kết Chương 3 .......................................................................................122
KẾT LUẬN ..........................................................................................................123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................126
PHỤ LỤC ............................................................................................................131


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BVHTT&DL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch


BQL

Ban quản lý

CP

Chính phủ

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CT

Chỉ thị

DLTC

Danh lam thắng cảnh

LSVH

Lịch sử - Văn hố

Nxb

Nhà Xuất bản

TTg


Thủ tướng

TP HP

Thành phố Hải Phịng

UNESCO
UBND

Tổ chức Văn hóa Khoa học và Giáo dục
Liên hợp quốc
Ủy ban nhân dân

VHTT

Văn hố - Thơng tin

VH,TT&DL

Văn hố, Thể thao và Du lịch


6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Di tích lịch sử văn hóa là một bộ phận của di sản văn hóa, là
những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng, minh chứng về lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, giúp con người hiểu rõ cội nguồn

dân tộc và truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hóa của đất nước và do đó có
tác động ngược trở lại tới việc hình thành nhân cách con người hiện đại. Để
các thế hệ có thể hiểu và tiếp cận được với di tích các di tích lịch sử văn hóa
thì việc gìn giữ di sản là vơ cùng cần thiết. Vì vậy, ngay từ khi ra đời cho đến
nay, Nhà nước ta luôn coi di tích lịch sử văn hóa là một bộ phận quan trọng
cấu thành của văn hóa Việt Nam, do đó đã ban hành nhiều chủ trương, đường
lối về xây dựng nền văn hóa của đất nước như: Đảng Cộng sản Việt Nam đã
ban hành “Đề cương văn hóa” năm 1943; ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 65, trong đó nhấn mạnh đến việc bảo tồn cổ tích là
việc làm cần thiết của Nhà nước Việt Nam và quy định: “Nhà nước chi ngân
sách cho việc bảo vệ tu sửa di tích”…
Trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, Đảng và Nhà nước
vẫn luôn đánh giá vai trị và tầm quan trọng của cơng tác quản lý di tích lịch
sử văn hóa, tiếp tục đề ra những chính sách, biện pháp cụ thể thích ứng với
từng thời kỳ của đất nước nhằm tăng cường hiệu lực của công tác quản lý.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, tại Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về văn hóa, xác
định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó nhiệm vụ thứ 4 là bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa. Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ này như sau: “Di
sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc


7

dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi
trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa
cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.
Để nâng cao hơn nữa vai trị của cơng tác quản lý di sản văn hóa nói
chung cũng như di tích LSVH nói riêng, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đã thơng qua Luật di sản văn hóa (2001) và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật di sản văn hóa (2009). Việc ban hành luật di sản đã
đánh dấu những mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về di sản văn hóa, phản ánh bước chuyển rõ rệt, tích cực về
nhận thức và quyết tâm của toàn xã hội trên hành trình bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa dân tộc, đảm bảo phù hợp thực tiễn phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, tạo nên tính khả thi cao của pháp luật trong đời sống.
1.2. Là một huyện đảo nơi cửa biển của thành phố Hải Phịng có bề dày
truyền thống lịch sử văn hóa, huyện Cát Hải mang trong mình những di sản
văn hóa quý giá do các thế hệ cha ông để lại đến ngày nay. Tính đến tháng 12
năm 2014, huyện Cát Hải có 110 di tích, gồm các loại hình như lịch sử văn
hóa, danh lam - thắng cảnh, cách mạng - kháng chiến, di tích danh nhân, di
chỉ khảo cổ học. Đến tháng 12/2014 đã có 11 di tích được xếp hạng, trong đó
04 di tích quốc gia (01 di tích quốc gia đặc biệt), 07 di tích cấp thành phố.
Hiện cịn 89 di tích khác đang được các cơ quan quản lý, các nhà nghiên cứu
lập hồ sơ đăng ký bảo vệ, đề nghị xếp hạng. Đảo Cát Bà cịn là một trong
những nơi có hệ thống di tích khảo cổ học - nguồn tư liệu khoa học về những
cư dân đầu tiên cư trú vùng biển đảo Đông Bắc nước ta cịn lại cho đến nay.
Nhìn chung di tích lịch sử văn hóa ở huyện đảo Cát Hải, Hải Phịng
mang nhiều nét tương đồng với di tích lịch sử vùng đồng bằng Bắc Bộ như
các di tích đình, chùa, miếu, đền... song cịn có nhiều đặc trưng cơ bản tồn tại


8

trong đời sống văn hóa dân gian khác với di sản văn hóa vùng đất liền, đồng
bằng, lục địa mà các địa phương khác khơng có. Riêng loại hình di tích Quốc
gia đặc biệt quần đảo Cát Bà cịn có Vườn Quốc gia (15.000 ha) và Khu dự
trữ sinh quyển thế giới Cát Bà (23.000 ha) do UNESCO công nhận năm 2004
có tiêu chí và giá trị độc đáo khác với di sản vịnh Hạ Long hiện cũng đang

được Ủy ban nhân dân huyện và thành phố đề nghị công nhận di sản thiên
nhiên thế giới theo các tiêu chí danh lam - thắng cảnh, giá trị đặc trưng về địa
chất, địa mạo, phạm vi, diện tích, đa dạng sinh học, hệ động thực vật …
1.3. Trong thời gian qua, với nhiều lý do khác nhau, các di tích lịch sử
văn hóa ở huyện Cát Hải đã và đang chịu nhiều tác động bởi các nguyên nhân
về tự nhiên như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bão lụt. Những tác động về
xã hội như: hậu quả của những năm tháng chiến tranh bảo vệ biển đảo; di dân
tự do; sự gia tăng khai thác di tích lịch sử - văn hóa - danh thắng cho các hoạt
động du lịch hiện nay nhưng thiếu sự định hướng của cơ quan quản lý nhà
nước; nhận thức của con người về giá trị của di tích vẫn chưa đầy đủ… Những
điều đó đã tác động làm cho di tích ngày một xuống cấp nghiêm trọng và trở
thành vấn đề thời sự cấp thiết hiện nay.
Vì những lý do trên, với mong muốn tìm hiểu giá trị của di tích hiện có,
qua đó hiểu sâu hơn giá trị lịch sử, văn hóa của vùng biển đảo huyện Cát Hải
và vai trị của cơng tác quản lý di sản văn hóa dân tộc nói chung, di tích lịch
sử văn hóa trên địa bàn Huyện Cát Hải, tôi đã chọn đề tài “Quản lý di tích
lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng’’ làm luận văn tốt
nghiệp Cao học chuyên ngành Quản lý văn hóa.
2. Tình hình nghiên cứu
Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện Cát Hải đã trở thành đối
tượng được quan tâm, tìm hiểu nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.


9

2.1. Nhóm khóa luận, luận văn tốt nghiệp viết về một số di tích lịch sử
văn hóa ở huyện Cát Hải.
Từ năm 1991 đến nay, tìm hiểu nguồn tài liệu khóa luận, luận văn của
sinh viên ngành Bảo tàng nay là Di sản, trường Đại học Văn hóa Hà Nội cũng
chưa có nghiên cứu nào được đề cập vấn đề quản lý di tích lịch sử văn hóa

trên địa bàn huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Năm 1999, sinh viên Lê Thanh Tùng, trường Đại học Văn hóa Hà Nội
đã làm khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Phân tích tiềm năng và thực trạng phát
triển du lịch đảo Cát Bà”. Khóa luận tập trung chủ yếu phân tích tiềm năng tài
nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên thiên nhiên (sinh thái, danh lam thắng
cảnh) để phục vụ khai thác phát triển du lịch trong phạm vi đảo Cát Bà mà
chưa đi sâu vào phân tích thực trạng có hệ thống các di tích LSVH của huyện
Cát Hải từ góc độ quản lý .
Năm 2010, sinh viên Vũ Thị Thanh Hằng, trường Đại học Văn hóa Hà
Nội đã làm luận văn tốt nghiệp với đề tài “Thực trạng phát triển du lịch cộng
đồng trên đảo Cát Bà, thành phố Hải Phịng’’. Luận văn đi sâu vào khai thác
mơ hình du lịch cộng đồng địa phương và đề cập di tích lịch sử văn hóa trong
phạm vi của một số xã trên đảo Cát Bà từ góc độ tài nguyên du lịch nhân văn,
song luận văn cũng chưa có sự nghiên cứu đánh giá đầy đủ hệ thống di tích
lịch sử văn hóa huyện Cát Hải từ góc độ quản lý nhà nước.
Tác giả Hoàng Thị Thu Thủy với đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học
chuyên ngành Quản lý văn hóa: “Quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện đảo
Cát Hải, thành phố Hải Phòng’’ bảo vệ năm 2011. Luận văn cũng mới tập
trung vào hoạt động quản lý nhà nước ở huyện như cơ cấu tổ chức, hoạt động
của phịng Văn hóa thể thao du lịch huyện và cấp xã, việc ban hành văn bản
quản lý hành chính nhà nước áp dụng các quy phạm pháp luật, chính sách về
văn hóa, nghệ thuật, thơng tin, thể thao, du lịch từ đó đã đề ra một số giải


10

pháp đối với quản lý nhà nước mà chưa đi sâu vào nghiên cứu có hệ thống các
vấn đề quản lý di tích LSVH ở huyện Cát Hải.
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về di tích lịch sử văn hóa huyện
Cát Hải.

Trong cuốn “Địa chí Hải Phịng” (1990), tập 1, do Nhà xuất bản Hải
Phòng ấn hành, Hội đồng lịch sử Hải Phòng biên soạn, đã nghiên cứu về địa lí,
điều kiện tự nhiên, con người, các giai đoạn lịch sử, sự hình thành các xã, thị
trấn, thay đổi địa danh địa giới hành chính và phát triển kính tế, văn hóa, xã hội
đến năm 1991 của huyện Cát Hải, thành phố Hải Phịng, tuy nhiên trong cơng
trình mới đề cập đến một số di tích tiêu biểu như khảo cổ học, lễ hội mà chưa
có nghiên cứu hệ thống các di tích lịch sử văn hóa. Cơng trình này hiện nay
đang được Hội đồng lịch sử Hải Phòng đề nghị tiếp tục nghiên cứu bổ sung.
Tìm hiểu trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Cát Hải” do huyện ủy
huyện Cát Hải biên soạn (Nhà xuất bản Hải Phòng, 1997), phần giới thiệu
cũng mới điểm qua một số nét di tích khảo cổ học Cái Bèo, sự thay đổi địa
danh, địa giới hành chính, điều kiện tự nhiên, xã hội và con người, các phần
nội dung tập trung chủ yếu vào các sự kiện lịch sử thành lập đảng bộ huyện
Cát Hải trải qua các thời kỳ trước, trong và sau kháng chiến chống thực dân
Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, việc xây dựng phát triển huyện đảo trong
thời kỳ đổi mới đến năm 1997 mà chưa có đề cập nghiên cứu sâu vấn đề quản
lý di sản văn hóa, di tích LSVH.
Cuốn “Một số di sản văn hóa tiêu biểu của Hải Phịng’’(2001) của
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Hải Phịng có nêu một số di tích lịch
sử ở huyện Cát Hải nhưng chưa đầy đủ. Đây là cơng trình được tổ chức sưu
tầm, khảo cứu tư liệu điền dã, tập hợp và biên tập về di tích lịch sử, văn hóa
dân gian rộng khắp Hải Phịng, nhằm giữ gìn và phát huy những truyền thống
tốt đẹp của thành phố Hải Phòng mà chưa xuất phát từ góc độ quản lý.


11

Trong tập “Kỷ yếu 10 năm Thông tin khoa học xã hội và Nhân văn Hải
Phòng - Một số bài viết chọn lọc” của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
Hải Phòng (Nhà xuất bản Hải Phòng, 2012) có tập hợp một số bài viết về tiền sử

huyện Cát Hải, Hải Phòng như di chỉ Cái Bèo, văn hóa Hạ Long do các nhà
nghiên cứu về cổ sử Viện khảo cổ đã viết đăng trên chuyên mục nghiên cứu.
Cuốn”Di chỉ khảo cổ học Cái Bèo, đảo Cát Bà” do PGS.TS Nguyễn
Khắc Sử làm chủ biên (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2009) là cơng trình đi
sâu nghiên cứu khoa học về văn hóa Cái Bèo, huyện Cát Hải. Cơng trình đã
phản ánh đầy đủ và tồn diện giá trị văn hóa - lịch sử cư dân cư trú ven biển có
niên đại sớm nhất Việt Nam giai đoạn cổ sử cách ngày nay 7000 năm trên đảo
Cát Bà. Tuy không nghiên cứu về hệ thống các di tích lịch sử văn hóa của
huyện Cát Hải song cơng trình khoa học đã minh chứng về một trong các giá trị
di tích lịch sử văn hóa nổi bật của huyện Cát Hải, qua đó có những khuyến cáo
để bảo vệ cấp thiết đối với loại hình di tích này.
Năm 2014 Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hải
Phịng cũng có đề tài nghiên cứu “Điều tra khảo sát đánh giá thực trạng và đề
xuất một số giải pháp chủ yếu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa biển
đảo huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng”. Kết quả nghiên cứu đã tổng hợp
đánh giá được thực trạng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, bao gồm các
loại hình di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội. Tuy đề tài khơng đánh giá từ góc
độ quản lý song số liệu di tích lịch sử văn hóa cũng phản ánh trùng khớp với
số liệu thực tế. Đây là số liệu được tổng hợp sẽ góp phần vào việc nghiên cứu
di tích lịch sử văn hóa từ góc độ chun ngành quản lý của để tài.
Ngồi ra cịn có các báo kết quả nghiên cứu khoa học và hàng nghìn
hiện vật lưu giữ của Bảo tàng Hải Phòng kết hợp với Viện Khảo cổ học Việt
Nam về hệ thống các di chỉ khảo cổ học đã được khai quật trên đảo Cát Bà
huyện Cát Hải như di chỉ Bãi Bến, di chỉ Cát Đồn, Cái Bèo, qua 5 lần khai
quật từ năm 1973 đến 2007.


12

Bên cạnh đó cịn có các hồ sơ lưu trữ nghiên cứu khoa học của các di

tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng: di tích cấp quốc gia đặc biệt quần đảo Cát
Bà (2013); di tích quốc gia di chỉ Cái Bèo đảo Cát Bà, di tích Bác Hồ về thăm
làng cá Cát Bà năm 1959; di tích lịch sử cách mạng - kháng chiến Đình Trân
Châu, miếu Quan Đội (vị trí địa lý, lịch sử hình thành, sơ đồ di tích, kiến trúc
giá trị văn hóa, lịch sử…). Hồ sơ kiểm kê khoa học các cổ vật di vật của 03 di
tích đã xếp hạng thành phố năm 2004 lưu tại phòng VHTTTT&DL, Bảo tàng
thành phố Hải Phòng.
Các cơng trình nêu trên chủ yếu tập trung từ khía cạnh khai thác tài
nguyên du lịch, nghiên cứu khoa học cổ sử và một phần trong công tác quản
lý nhà nước về di sản văn hóa nói chung ở địa bàn huyện Cát Hải. Mặc dù
chưa xuất phát đầy đủ từ góc độ quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa
nhưng các cơng trình, đề tài cũng đã đề cập đến một số vấn đề khai thác giá
trị của tài nguyên du lịch, trong đó có di tích. Những vấn đề đặt ra ở đây rất
cần thiết cho các nhà quản lý trong viêc xác định giá trị của đối tượng, thực
trạng của các đối tượng quản lý, để từ đó có những giải pháp cho hoạt động
quản lý di tích LSVH có hiệu quả cao hơn. Tuy vậy, cho tới nay vẫn chưa có
cơng trình nghiên cứu nào đề cập tồn diện về cơng tác quản lý di tích lịch sử
văn hóa trên địa bàn huyện Cát Hải.
Trong quá trình triển khai đề tài “Quản lý di tích lịch sử văn hóa ở
huyện Cát Hải, thành phố Hải Phịng”, tơi đã trân trọng tiếp thu, kế thừa tư
liệu của các tác giả đi trước, trên cơ sở đó vận dụng một cách hợp lý để giải
quyết những mục tiêu cơ bản đặt ra của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của cơng tác quản lý di
tích lịch sử văn hóa trong giai đoạn hiện nay, luận văn đi sâu khảo sát phân tích,


13


đánh giá những kết quả đạt được cũng như một số hạn chế trong cơng tác quản
lý di tích lịch sử văn hóa tại địa bàn huyện Cát Hải, thành phố Hải Phịng từ năm
2010 đến nay.
Thơng qua việc nghiên cứu, phân tích, luận văn sẽ đề xuất một số giải
pháp cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa
huyện Cát Hải trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Trình bày những vấn đề cơ bản về cơ sở khoa học và pháp lý trong
công tác quản lý di sản văn hóa nói chung và quản lý di tích LSVH nói riêng.
Tìm hiểu khái quát lịch sử hình thành và hệ thống di tích LSVH của
huyện Cát Hải.
Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng cơng tác quản lý Di tích LSVH
của huyện Cát Hải từ năm 2010 đến nay.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý di
tích LSVH của huyện Cát Hải trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu khảo sát, nghiên cứu về cơng tác quản lý Di tích LSVH
tại địa bàn huyện Cát Hải, Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến nay.
- Phạm vi không gian: Luận văn tập trung chủ yếu nghiên cứu tình hình
quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải.


14

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng; duy
vật lịch sử; các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về quản lý di sản văn hóa dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: quản lý văn hóa, bảo tàng học, xã
hội học, lịch sử ;
Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp;
Phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát, điền dã: Phân tích tài liệu do
các tác giả đã thực hiện thông qua việc đi trực tiếp cơ sở di tích lịch sử văn hóa
để điều tra khảo sát thực tế về thực trạng công tác quản lý của địa phương;
Phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lý, chuyên gia thuộc lĩnh vực di sản văn hóa.
6. Đóng góp của luận văn
Đánh giá thực trạng cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải.
Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý di
tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu về thực trạng cũng như các nhóm giải pháp mà
Luận văn đưa ra là một trong những cơ sở khoa học giúp các cấp lãnh đạo của
Ủy ban nhân dân, phịng Văn hóa, Thơng tin, Thể thao và Du lịch huyện trong
việc đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa ở
huyện Cát Hải.
Đồng thời đây là tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các quận, huyện lân
cận có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng xem xét, vận dụng vào quá trình đổi
mới cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa địa phương mình.


15

7. Bố cục của luận văn
Đề tài nghiên cứu “Quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải,
thành phố Hải Phịng’’ ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và

phụ lục, nội dung luận văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về di tích lịch sử văn hóa ở
huyện Cát Hải
Chương 2: Thực trạng quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Cát Hải.


16

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA
HUYỆN CÁT HẢI

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về di sản văn hóa
Cơng ước về việc bảo vệ di sản văn hố và tự nhiên của Tổ chức Văn
hóa Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) năm 1972, định nghĩa
di sản văn hóa và tự nhiên:
* Di sản văn hố là:
Các di tích: các cơng trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội hoạ hoành
tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn bản, các hang động
và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ
thuật hay khoa học; Các quần thể: các nhóm cơng trình xây dựng đứng một
mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ
thuật hay khoa học, do kiến trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể
hoá của chúng vào cảnh quan; Các thắng cảnh: các cơng trình của con người
hoặc những cơng trình của con người kết hợp với các cơng trình của tự nhiên,
cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt

về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
* Di sản tự nhiên là:
Các di tích tự nhiên được tạo thành bởi những cấu trúc hình thể và sinh
vật học hoặc bởi các nhóm cấu trúc như vậy, có một giá trị đặc biệt về phương
diện thẩm mỹ hoặc khoa học; Các cấu trúc địa chất học và địa lý tự nhiên và các
khu vực có ranh giới đã được xác định là nơi cư trú của các giống động vật và
thực vật có nguy cơ bị tiêu diệt, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện khoa


17

học bảo tồn; Các cảnh vật tự nhiên hoặc các khu vực tự nhiên có ranh giới đã
được xác định cụ thể, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện khoa học, bảo
tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên.
Theo Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001 của Quốc
Hội Khóa X Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, di sản văn hoá Việt
Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận
của di sản văn hoá nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của nhân dân ta. Di sản văn hoá quy định tại Luật này bao gồm di
sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hố,
khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao
gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền
miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ
công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về
trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hố,

khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hố, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ln gắn bó hữu cơ với nhau.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý di sản
“Quản lý” là một khái niệm rộng và mang tính bao trùm tất cả mọi mặt
của đời sống xã hội. Về nội dung, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt,
nhiều quan điểm khác nhau:


18

“Quản lý” trong từ Hán Việt được ghép giữa từ “quản” và từ “lý”.
“Quản” là sự trơng coi, chăm sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định. “Lý” là
sự sửa sang, sắp xếp, làm cho nó phát triển. Vậy “quản lý” là trơng coi, chăm
sóc, sửa sang làm cho nó phát triển.
Theo quan điểm điều khiển học: Quản lý là chức năng của những hệ có
tổ chức, với bản chất khác nhau: sinh học, xã hội học, kỹ thuật... nó bảo tồn
cấu trúc các hệ, duy trì chế độ hoạt động. Quản lý là một tác động hợp quy
luật khách quan, làm cho hệ vận động vận hành và phát triển [20, tr.16].
Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Quản lý là phương thức tác động
có chủ định của chủ thể quản lý lên hệ thống, bao gồm hệ các quy tắc, các
ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm
duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ thống đạt tới mục tiêu [20, tr.14].
Khái niệm “quản lý” được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan niệm
theo các cách tiếp cận khác nhau.
Theo Các Mác: “Quản lý” được phát sinh từ lao động, không tách rời với
lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt động lao động: “Bất kỳ lao
động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến hành trên quy mô
tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung... Một nhạc cơng tự điều

khiển mình nhưng một dàn nhạc cần phải có nhạc trưởng” [29, tr.28].
Như vậy, quản lý xã hội không phải là sản phẩm của sự phân chia
quyền lực, mà là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm liên kết và phối
hợp hoạt động chung của con người.
Còn Fredrick Winslow Taylor (1856-1915) khẳng định:”Quản lý là biết
được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng
họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và rẻ nhất [18, tr.9].


19

Ở Việt Nam, có một số khái niệm về “quản lý” như sau:
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Quản lý là trơng coi, giữ gìn theo những
u cầu nhất định. Là tổ chức và điều hành các hoạt động theo những yêu cầu
nhất định”[14, tr.1353].
Trong giáo trình Quản lý hành chính Nhà nước của Học viện hành chính
quốc gia chỉ rõ: ”Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật,
đạt tới mục đích đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý”[18, tr.8].
Theo tác giả Nguyễn Văn Bình: “Quản lý là một nghệ thuật đạt được
mục tiêu đã đề ra thông qua điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy
hoạt động của những người khác” [18, tr.17].
Tóm lại, các quan niệm trên đây, tuy mỗi quan niệm nhấn mạnh mặt này
hay mặt khác nhưng đều có điểm chung thống nhất xác định: “Quản lý” là quá
trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý, thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong
điều kiện môi trường biến động để hệ thống ổn định, phát triển, đạt được những
mục tiêu đã định.
Chúng ta thấy rằng, bản chất của quản lý và hoạt động quản lý bắt
nguồn tự sự phân công, hợp tác lao động. Quản lý là một hoạt động khách

quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý
diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Trình
độ xã hội càng cao, yêu cầu quản lý càng lớn và vai trò của quản lý càng tăng.
- Hoạt động quản lý có các thành phần sau: Chủ thể quản lý, đối tượng
quản lý, mục tiêu quản lý.
Chủ thể quản lý: Luôn là con người hoặc tổ chức, tạo ra các tác động
quản lý tác động đến đối tượng quản lý bằng các công cụ với những phương
pháp thích hợp theo những nguyên tắc nhất định.


20

Đối tượng quản lý: Tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản lý.
Tùy theo từng loại đối tượng khác nhau để chia ra thành các dạng quản lý
khác nhau.
Mục tiêu quản lý: Là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất
định, do chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện
các động tác quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý thích hợp.
Qua các khái niệm và cơ sở khoa học về quản lý, có thể rút ra quan điểm
riêng cho đề tài: Quản lý di sản văn hóa là việc chủ thể quản lý áp dụng các
biện pháp cần thiết để định hướng đối tượng di sản văn hóa theo một định
hướng nhất định.
Theo Luật Di sản văn hóa, quản lý di sản là cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện các chủ trương chính sách và pháp luật để tác động và điều
chỉnh định hướng di sản văn hóa theo mục tiêu đã định. Quản lý di sản có ý
nghĩa và nội hàm rộng hơn quản lý di tích lịch sử văn hóa. Nhà nước thống
nhất quản lý di sản văn hố thuộc sở hữu tồn dân, cơng nhận và bảo vệ các
hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các
hình thức sở hữu khác về di sản văn hoá theo quy định của pháp luật. Theo đó,
quyền sở hữu, quyền tác giả đối với di sản văn hoá được xác định theo quy

định của Luật Di sản, Bộ Luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có
liên quan. Mọi di sản văn hố ở trong lịng đất thuộc đất liền, hải đảo, ở vùng
nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu tồn dân. Di sản văn hố phát
hiện được mà không xác định được chủ sở hữu, thu được trong q trình thăm
dị, khai quật khảo cổ đều thuộc sở hữu tồn dân. Mọi di sản văn hố trên lãnh
thổ Việt Nam, có xuất xứ ở trong nước hoặc từ nước ngồi, thuộc các hình thức
sở hữu, đều được bảo vệ và phát huy giá trị. Di sản văn hố của Việt Nam ở
nước ngồi được bảo hộ theo tập quán quốc tế và theo quy định của các điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.


21

Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá nhằm
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngồi đóng
góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hố. Nhà nước bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu di sản văn hoá. Chủ sở hữu di sản văn
hố có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Nhà nước đầu tư
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học
và công nghệ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân (sau đây gọi là tổ chức)
và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hố.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hoá.
Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về di sản văn hoá. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hố theo phân
cơng của Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hố

Thể thao và Du lịch để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn
hoá.Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình
thực hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hố ở địa phương theo phân cấp
của Chính phủ. Hội đồng di sản văn hoá quốc gia là hội đồng tư vấn của Thủ
tướng Chính phủ về di sản văn hố. Thủ tướng Chính phủ quy định tổ chức và
hoạt động của Hội đồng di sản văn hoá quốc gia.
1.1.1.3. Khái niệm về di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa là một thành tố quan trọng cấu thành di sản văn
hóa, là tài sản vơ giá của mỗi quốc gia. Gọi là di tích lịch sử văn hóa bởi vì


22

chúng được tạo ra từ con người (tập thể hoặc cá nhân), là kết quả của hoạt
động sáng tạo lịch sử, văn hoá của con người, bao gồm cả văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần.
Nhiều nước trên thế giới đều đặt chung cho di tích lịch sử văn hóa là
dấu tích, vết tích cịn lại. Mỗi nước trên thế giới đều đưa ra những khái niệm,
quy định về di tích lịch sử văn hóa của dân tộc mình. Trong điều I của hiến
chương Vernice - Italia quy định “Di tích lịch sử văn hóa bao gồm những
cơng trình xây dựng đơn lẻ, những khu di tích ở đơ thị hay nông thôn là
bằng chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hố có ý
nghĩa hay là một biến cố về lịch sử” [16, tr.12].
Ở Việt Nam cũng có nhiều khái niệm quy định về di tích lịch sử văn hóa.
Thơng thường nhất theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: “Di tích là
các loại dấu vết của quá khứ, là đối tượng nghiên cứu của khảo cổ học, sử
học... Di tích là di sản văn hoá - lịch sử được pháp luật bảo vệ, không ai được
tuỳ tiện dịch chuyển, thay đổi, phá huỷ” [61, tr.667].
Pháp lệnh số 14-LCT/HĐNN của Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 31/3/1984 về bảo vệ và sử dụng di tích

lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh quy định rõ: “Di tích lịch sử là những
cơng trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử,
khoa học, nghệ thuật cũng như có giá trị văn hố khác hoặc có liên quan đến
những sự kiện lịch sử, q trình phát triển văn hố, xã hội” [40, tr.3].
Luật Di sản văn hoá do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ban hành năm 2001 và sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hố năm 2009
quy định: “Di tích lịch sử văn hóa là những cơng trình xây dựng, địa điểm và
các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có giá trị lịch
sử, văn hố, khoa học” [27, tr.7].


23

Di tích lịch sử văn hóa phải có 1 trong 4 tiêu chí cụ thể sau:
Cơng trình, địa điểm xây dựng gắn với sự kiện tiêu biểu trong quá trình
dựng nước và giữ nước; Cơng trình, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu
của các thời kỳ cách mạng kháng chiến; Địa điểm có giá trị tiêu biểu về mặt
khảo cổ; Quần thể các cơng trình kiến trúc hoặc cơng trình kiến trúc đơn lẻ
có giá trị tiêu biểu về mặt kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn
lịch sử [27, tr.42].
Có nhiều khái niệm khác nhau về di tích lịch sử văn hóa, nhưng các khái
niệm đó đều có chung một nội dung đó là: di tích lịch sử văn hóa là những
khơng gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình
của lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử để lại.
Như vậy, di tích lịch sử văn hóa có đặc điểm là mang giá trị về mặt
hiện vật, vật chất; Ẩn chứa nhiều giá trị tinh thần, nhân văn; Góp phần vào
việc giáo dục lịng tự tơn dân tộc, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống; Có
ý nghĩa tích cực về mặt kinh tế.
Di tích lịch sử văn hóa được phân chia thành các loại như: di tích khảo
cổ, di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh.

1.1.1.4. Khái niệm quản lý di tích lịch sử văn hóa
Qua các khái niệm quản lý về di tích LSVH ta thấy rằng: di sản văn hóa
trong đó di tích LSVH là đối tượng đặc biệt, quan trọng, cần được gìn giữ, bảo
quản và phát huy tác dụng theo chiều hướng tích cực qua sự định hướng, tạo
điều kiện tổ chức điều hành các hoạt động bảo vệ để lưu truyền và giáo dục
truyền thống cho thế hệ sau.
Cơng tác quản lý di sản văn hóa khơng chỉ đơn thuần là quản lý những
giá trị hiện hữu, mà điều quan trọng hơn chính là vai trị của quản lý là làm


24

“sống dậy” các giá trị văn hóa phi vật thể thơng qua các giá trị văn hóa vật
thể, góp phần làm phong phú kho tàng di sản văn hóa dân tộc, xây dựng nền
văn hóa dân tộc khoa học và đại chúng.
Di tích lịch sử văn hóa là một bộ phận quan trọng cấu thành di sản văn
hóa, chính vì vậy việc quản lý di tích LSVH cũng cần tiến hành theo nội dung
quản lý nhà nước về di sản văn hóa được đề cập trong Luật Di sản văn hóa do
Quốc hội nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2001, sửa
đổi, bổ sung một số điều năm 2009. Nội dung quản lý Nhà nước về di sản văn
hóa bao gồm:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược quy hoạch, chính sách cho
sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di
sản văn hoá;
3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hoá: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hoá;
4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hoá;
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá

trị di sản văn hoá;
6. Tổ chức chỉ đạo, khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hoá;
8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá [27, tr. 61-62].


25

Những nội dung quản lý đó được cụ thể hóa trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý về di tích lịch sử văn hóa: tổ chức nghiên cứu, thống
kê, phân loại, xếp hạng, lập dự án trùng tu, tôn tạo và phát huy tác dụng,
thanh tra xử lý vi phạm liên quan đến di tích.
Như vậy, nội dung về quản lý di tích lịch sử văn hóa có phạm vi rất
rộng, cần phải có phương thức quản lý thích hợp và được điều chỉnh theo
từng thời điểm mới có thể thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về di sản
văn hóa nói chung, di tích lịch sử văn hóa nói riêng.
1.1.2. Cơ sở pháp lý về cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa
Văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế
giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Trải qua thời gian, các thế hệ cha ông
đi trước đã để lại cho chúng ta một kho tàng di sản văn hóa vơ cùng q giá
và nó đã được vật chất hóa, cơ đọng lại ở các di tích LSVH với nhiều giá trị.
Để con cháu đời sau có thể hiểu và tiếp cận được thì trước hết việc gìn giữ
chúng là vơ cùng cần thiết và khơng gì khác hơn là phải bảo vệ chúng bằng
pháp luật.
Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng và Nhà nước ln coi văn hóa là
một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng và đã ban hành nhiều chủ

chương, đường lối về xây dựng nền văn hóa của đất nước.
Vì vậy, từ năm 1943 - khi chưa giành được chính quyền từ tay đế quốc,
phong kiến - Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành “Đề cương văn hóa”, xác
định tính chất “dân tộc, khoa học, đại chúng” của nền văn hóa Việt Nam. Quan
điểm này được đề cập trong cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng. Trong
các văn kiện đại hội III, IV, V, Đảng xác định cách mạng tư tưởng văn hóa là


×