Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.26 KB, 42 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 9 A - Lời nói đầu : - Trong đời giáo viên day cho HS biết làm một bài văn hay là khó nhất . Với gần 10 năm đi dạy và bồi dưỡng HS giỏi tôi có rút ra một số kinh nghiệm để các bạn tham khảo . B – Trình tự dạy như sau : I – Bài thứ nhất : - Cách phân tích giá trị biểu cảm của từ : 1 – Sơ đồ cơ bản : Tiếng - từ -ngữ -câu - Tiếng có một lần phát âm . - Từ do một hay nhiều tiếng có nhĩa tạo thành . - Ngữ là nhiều từ tạo thành nhưng chưa diễn đạt ý trọn vẹn . - Câu là do nhiều từ +ngữ tạo thành diện đạt một ý trọn vẹn . 2 - Phương pháp : - Khi phân tích giá trị biểu cảm của từ chúng ta phải theo các bước sau : a - Đặt từ đó trong câu để xác định văn cảnh . b - Phần giải thích phải năm vững từ đó là đơn hay ghép hay từ láy bởi vì : - Từ đơn từ ghép trong câu văn câu thơ thườ có nghĩa đen và nghĩa bóng . - Từ láy có sắc thái tu từ âm và thanh . c- Giá trị biểu cảm : là khi đọc từ đó lên tạo hình ảnh gì trước mắt người đọc . ( Tạo hình} Gợi cảm là tình cảm của tác giả như thế nào , từ đó gây cảm xuc gì cho người đọc nói chung và bản thân em nói riêng . d- Thực hành : + Phân tích giá trị biểu cảm của từ đơn từ ghép : VD :Phân tích tư “nghiêng” trong câu thơ : nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng . trả lời:từ nghiêng là hình ảnh chiếc chày ngả về một phía theo nhịp của người giã gạo . còn từ nghiêng trong “giâc ngủ em nghiêng” có nghĩa đen là hình ảnh đứa bé nằm ngủ trên lưng mẹ đồng nghĩa với giấc ngủ không bình thường . + Giá trị biểu cảm :từ nghĩa đen và nghĩa bóng trên từ “nghiêng” đã tạo được một hình ảnh cụ thể sinh động về cuộc sống vất vả của người phụ nữ và trẻ em trong những năm chống Mỹ gợi cho tác giả và người đọc một tình cảm đau xót cho đòng bào vừa căm giận bọn cướp nước gây nên những cảnh khổ cực đó . +Phân tích giá trị biểu cam của từ láy :Khi phân tích ta cần xác định được các loại từ láy . có 3 loại : -từ láy thanh là từ tượng thanhbắt chước âm thanh sự vật tác động vào nhau . * ví dụ :giải thích và phân tích từ “ầm ầm” trong đoạn trích “kiều ở lầu Ngưng Bích” . Trước hết ta phải đặt từ trong văn cảnh sau đó giải.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> thích .Từ “ầm ầm” là bắt chước âm thanh tiếng sóng vỗ vào nhau ,vào bờ liên tiếp mạnh mẽ. Giá trị biểu cảm của nó :tạo nên được phong cảnh một vùng quanh năm có sóng vỗ . Những tiếng sóng đang vây quanh sự cô độc Nàng Kiều .Tiếng sóng như giằng xé níu kéo đe doạ báo trước bước đường dông tố của Nàng . - Từ láy nghĩa : là từ tượng hình có tác dụng làm tăng thêm nhấn mạnh giá trị từ gốc . - Vi dụ : giải thích và phân tích từ “lom khom” trong bài thơ Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan : Từ “Lom khom” là từ láy nghĩa nhằm tăng giá trị của từ khom . Từ đó tạo ra hình ảnh sinh động vài chú tiều nhỏ nhoi giữa không gian mênh mông chiều vắng . Gợi cho nhà thơ một nội niềm man mác trước cảnh chiều tà . Tìm người thấy người mà không thể trò chuyện được . Làm cho nỗi nhớ nhà lại càng trào dâng trong lòng thi sĩ . -Từ láy âm :cũng gọi là từ tượng hình ,nhưng có tác dụng làm tăng thêm giá trị ý nghĩa bằng cách điệp vần hoặc phụ âm đầu ví du: giải thích và phân tích từ “quạnh quẽ” trong bài thơ Bến đò xuân đầu trại” của Nguyễn Trãi . - Trước hêt ta đặt từ vào trong văn cảnh để giải thích và phân tích . Đây là từ láy âm có tác dụng làm tăng giá trị gợi cảm của phụ âm đầu .Từ tượng hình này tạo nên một hình ảnh rõ nét về một con đường dẫn đến bến đò ở thôn quê vắng vẻ,thưa thớt khách . Từ đó gợi nên một cảm giac yên bình ở nông thôn nước ta sau bao năm khói lửa . II – Bài thứ hai :Phân tích giá trị biểu cảm của phép tu từ . 1 – Phép so sánh (tu từ): a-Định nghĩa :Khi nói và viết người ta đưa sự vật này ra đẻ đối chiếu với vật khác cốt làm cốt làm cho sự vật đươc mô tả cụ thể hơn sinh động hơn ,có hình ảnh và gây cảm xúc nhiều hơn .Câu so sánh bao giờ cũng có dụng ý nghệ thuật ,có hai vế ,vế so sánh và vế được so sánh . giữa hai vế thường có từ so sánh :như ,tựa bằng , đồng … Ví dụ : Mặt trời xuống biển như hòn lửa A B b- Khi phân tích ta làm như sau : -cách viết :tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh đem sự vật “A” so sánh vơi sự vật “B” để làm cho sự vật “A” được mô tả cụ thể hơn sinh động hơn từ đó gây cảm xúc cho tác giả và người đọc . -Bài tập :Trong câu thơ sau tác giả đã sử dụng phép tu từ gì ,nêu giá trị biểu cản của phép tu từ đó ? Mặt trời xuống biển như hòn lửa (Huy Cận – Đoàn thuyền đánh cá) * cách làm : Cách so sánh của nhà thơ Huuy Cận khá độc đáo vì tác giả đem hình ảnh “mặt trơi xuống biển”so sánh với hình ảnh “Hòn lửa” tạo nên.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> buổi chiều trên biển thật cụ thể sinh động , đó là buổi chiều huy hoàng rực rỡ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp biển lúc hoàng hôn . từ đó thêm yêu quý đất nươc của chúng ta . 2- Phép ẩn dụ : a- Định nghĩa : Khi viết văn để cho sự biểu hiện đươc sâu sắc kín đáo ,người ta dùng những từ hay ngữ mà nghĩa đen đươc chuyển sang nghĩa bóng nhờ một sự so sánh ngầm . đó là cách thức ẩn dụ (ví ngầm) . Ví dụ : Thân em vừa tráng lại vừa tròn (Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương) -nghĩa đen :bánh trôi nước về màu sắc và hình dáng -Nghĩa bóng : Hình ảnh về vẻ đẹp người phụ nữ có làn da trắng và thân hình đầy đặn . b- Khi phân tích ta làm như sau :Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh (nghĩa đen) nhà thơ đã gợil cho người đọc hình dung được một hình ảnh khác thật sâu săc kín đáo đó là hình ảnh “Nghĩa bóng” từ đó gợi cảm xúc cho người đọc . c- Bài tập : Ví dụ : Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ ( Viễn Phương -Viếng lăng Bác) - Hãy xác định hình ảnh “mặt trời” nào là phép tu từ gọi tên phép tu từ đó ? - Phân tích giá trị biểu cảm ? cách viết :Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh “mặt trời”là một vầng thái dương “nghĩa đen” ,tác giả tạo ra một hình ảnh so sánh ngầm sâu sắc ,tế nhị làm cho người đoc suy nghĩ và hình dung ra được hình ảnh của Bác Hồ(nghĩa bóng) ,một con người rực rỡ và ấm áp như mặt trời dẫn dắt dân tộc ta trên con đường giành tự do và độc lập xây dựng tổ quốc công bằng dân chủ văn minh .từ đó tạo cho người đọc một tình cảm yêu mến khâm phục vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc chúng ta . 3- Phép nhân hoá : a- Định nghĩa : Khi viết và nói để cho sự vật thêm sinh động người ta gán cho chúng những suy nghĩ hành động , tình cảm như con người . Đó là phép nhân hoá . * Ví dụ : Con cá rô ơi chớ có buồn (Tố Hữu – Bác ơi) b- bài tập : khi phân tích giá trị biểu cám của phép nhân hoá ta viết như sau : -Cách sử dụng biện pháp nhân hoá của nhà thơ khá độc đáo vì tác giả đã ganhanhf động (tình cảm) của con người cho sự vật để miêu tả sinh động hình ảnh …từ đó gợi cảm xúc … -Thực hành : cho cau thơ sau : Sóng đã cài then đêm sập cửa ( Huy Cận – Đoàn thuyền đánh cá ).
<span class='text_page_counter'>(4)</span> -Tìm phép nhan hoá ? - phân tích giá trị biểu cảm của phép tu từ đó ? - Cahs phân tích : Cách sử dụng tu từ nhân hoá của tác giả thật độc đáo vì Huy Cận đã gán hành động “cài then” cuả con người cho sóng và hành động “sập cửa” cho đêm để miêu tả sinh động hình ảnh màn đêm lan dần trên biển gợi nên một cảm giác thoải mái về đêm khi vũ trụ nghỉ ngơi . 4 – Phép hoán dụ : (cơ bản giống phép ẩn dụ ). III –Bài thứ ba : Phân tích tính nhạc và tính hoạ trong thơ : 1- Tính hoạ là gi ? Trong thơ thường có những bức tranh được vẽ bằng ngôn ngữ Nóđược tạo bởi các biện pháp tu từ và các từ gợi tả . Các biên pháp tu từ về tư : so sánh , nhân hoá , ẩn dụ , hoán dụ ,tượng hình tượng thanh … Các biện pháp tu từ về câu điệp ngữ ,thậm xưng , đối lập tăng tiến ,câu hỏi tu từ … -Vì vậy khi phân tích phải cho ngươi đọc thấy được hình ảnh gì hiện ra trước mắt ngươi họ và cảm nhận được điều gì ? * ví dụ : Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điêm một vài bông hoa ( Truyện Kiều - Nguyễn Du ) - Ở đây tác giả đã đã sử dụng nghệ thuật đối lập đó là xanh và trắng , diện và điểm ( tận chân trời > <một vài bông ) tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp . - 2- Tính nhạc trong thơ là gì ? Nhạc trong thơ được cấu tạo bằng nhịp điệu tiết tấu và sự thay đổi thanh .thơ khác văn xuôi ,vè là ở tính nhạc . Nhà thơ Tản Đà đã từng nói : Đàn là đàn ,thơ là thơ Thơ có nhạc đàn có tơ . + Vậy vần ở đâu ? -Những nguyên âm hẹp thường biểu hiện tâm trạng buồn , u uất ,bế tắc ,khó nhọc ,tủi hổ… ( I, u , o … ) - Những nguyên âm rộng thường biểu hiện tâm trạng vui vẻ không gian bao la rộng mở cả xúc tự hào phấn khởi … (a ,ia , ưa …) *ví dụ : Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ (Tiếng thu - Lưu Trọng Lư ) - Thanh bằng thường biểu hiện tâm trạng buồn , không gian yên bình … Thanh trắc thường biểu hiện tâm trạng bế tăc , cùng quẩn … * vi du : Trời buồn làm gì trời rầu rầu Anh yêu em xong anh đi đâu Vắng tiếng gió suối thấy tiếng khóc Một bụng một dạ một nặng nhọc Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Nghĩ mãi gỡ mãi lỗi vẫn lỗi. ( Hoài tình - Thế Lữ ) + Nhịp điệu tiết tấu : -Nhịp điệu tiết tấu chính là nhạc của thơ nhờ sự lặp đi lặp lại cùng một chu kỳ về bằng - trắc ,về vần (nguyên âm và phụ âm ) .vì vậy nhiều bài thơ không có phép tu từ nào nhưng nhờ nhạc mà vân thơ trở nên xuất sắc . * ví dụ : Hôm qua đi chùa Hương Hoa cỏ mờ hơi sương Cùng thầy me thức dậy Em vấn đầu soi gương (Đi chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp ) Nhà thơ đã sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần “ương” đẻ tạo cho bài thơ có nhạc điệu .,có tiết tấu diễn tả cảnh thanh bình và tâm trạng vui tươi phấn chấn của cô gái mười lăm lần đầu đi chùa Hương . IV – Bài thứ tư : Rèn luyện kỹ năng phân tích đề : - Đối với học sinh khi làm bài phải tuyệt đối theo yêu cầu của đề ra . vì vậy đọc kỹ đề là một vấn đề vô cùng quan trọng . Phải hiểu đề nắm chắc đề và tiến hành trình tự theo các bước sau : 1- Đọc đề bài : Học sinh phải đọc thật kỹ đề để có một cái nhìn khái quát nhất . Chú ý không để sót một chữ nào một chi tiết nào . Tránh hiểu sai đề dẫn đến làm lac đề . Khi đọc xong phải gạch chân những từ ,những chỗ quan trọng . 2- Phân tích đề : Một đề ra cho học sinh là đặt học sinh trước một tình huống có vấn đề .Nghĩa là phát hiện ra được cái vấ đề càn được giải quyết nằm trong đề bài . Kết cấu một đề bài đầy đủ thường có hai bộ phận : a- Bộ phận thứ nhất : Đây là bộ phận chứa đựng những dữ kiện ,những điều nà đề bài cho biết trước .bộ phận này thường có những chi tiết sau : -Lời dẫn giải , giới thiệu hay xuất xứ của phần trích hay một nhận định . - phần đoạn trích hay nhận định . * như vậy trong phần này hoc sinh phải gạch chân những từ then chốt để xác định được : -Vấn đề cần phân tích ( có mấy ý chính ) . - Giới hạn của đề (số lượng ý chính mà mình đươc làm và phạm vi cho phép được lấy dẫn chứng . Bộ phậ thứ hai : Chứa đựng những điều mà đề bài yêu cầu thực hiện ,nghĩa là Cách giải quyết vấn đề Bộ phận này thường diễn đạt bẵng những câu cầu khiến : - Hãy phân tích ? Nêu suy nghĩ ?.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Cảm nhậm của em ? - ( Chú ý : dạng đề mở thì học sinh phỉ suy nghĩ kỹ để xách định được thể loại và ý để làm bài .) - * Như vậy trong phần này học sinh gạch chân những tư then chốt đẻ xác định thể loại của bài làm . b- Luyện tập : * -đề bài : Trong truyện Kiều nhà thơ Nguyễn Du có viết : Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng mệnh bạc cũng là lời chung . Bằng hiểu biết của em về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” ( Ngữ vă 9 tập 1 ) Hãy nêu cảm nghĩ ?. V –Bài thứ năm: Khái niệm về nội dung và nghệ thật trong tác phẩm Bất cứ tác phẩm nào cũng có hai mặt quan hệ chặt chẽ với nhau đó là nội dung và nghệ thuật . A- Nội dung là gì ? Nội là trong , dung là chứa ; Nội dung là cái chứa bên trong của tac phẩm . Đối với các tác phẩm tự sự nội dung là cốt truyện , là những vấn đề nào đó của xã hội nhân sinh .là bức tranh của cuộc đời thường là tình yêu đôi lứa trong học tâp ,lao động và chiến đấu .v.v…cùng với những diễn biến tâm lý , những tình tiết éo le , uẩn khúc của nhân vật chính diện cũng như phản diện . Chẳng hạn “Tắt đen” đề cập đến số phận người nông dân nghèo xơ xác trong xã hội thực dân nửa phong kiến bị cảnh sưu cao thuế nặng bóc lột và đánh đập dã man ,tù tội v.v…Truyện “Người con gái Nam Xương” kể về người phụ nữ xinh đẹp nết na thờ mẹ nuôi con khắc khoải chờ chồng . Nhưng lại bị ruồng rẫy chưởi mắng xua đuổi phải tìm đến cái chết để minh oan . Đằng sau những vấn đề được phản ánh đó là nội dung tư tưởng ,là sự phê phán xã hội ,là ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người , đó là niềm mơ ước vượt lên trên số phận v.v… Đối với các thể thơ : như miêu tả , tự sự , trữ tình , trào phúng . Nội dung thường là miêu tả cảnh trí thiên nhiên , cảnh sắc bốn mùa , gửi gắm tâm sự khi miêu tả : tả cảnh , tả cảnh ngụ tình , tả vật , tả người vói sắc đẹp , tài năng , chia ly , đưa tiễn ,cảnh gặp gỡ hẹn hò , tình đồng đội , đồng chí , tình yêu quê hương đất nước , tinh thần lạc quan trong chiế đấu và xây dựng . Chẳng hạn qua miêu tả tài sắc của chị em Thuý Kiều Nguyễn du đã gửi gắm tư tưởng định mệnh vào trong đó . Hay để thể hiện nỗi nhớ quê hương nhà thơ Hữu Loan đã mượn hình ảnh cô bạn học trò đẻ gửi vào trong đó : Nhớ những chiều xưa Tóc nàng buông xoã Hai đứa tôi học chung trường xã Trống tan rồi ôm sách vở cho nhau Dưới trời tầm tã Con đê dài mưa ướt cả đầu xanh ..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> B -Nghệ thuật là gì ? Là cách thức làm một việc gì theo một nguyên tắc ,khéo léo khêu gợi được cảm giác khiến người ta phải xúc cảm , rung động về cái hay cái đẹp của nó . Đẻ diễn đạt nội dung nhà văn ,nhà thơ tất yếu phải dùng nghệ thuật , là cái hình thức bên ngoài .Nghệ thuật gồm các vận đề sau : 1- từ ngữ : từ ngữ là yếu tố quan trọng cần thiết để xây dựng tác phẩm .Từ dùng trong tác phẩm , đã chọn lọc chưa hay dễ dại quá , giản dị tự nhiên hay cầu kỳ khó hiểu , dật vị trí đó có thích hơp hay không ? có sử dụng từ cổ , từ địa phương không ? Tìm hiểu đó là loại từ gì , gợi hình gợi cảm , gợi màu sắc , âm thanh , từ láy từ mạnh , tượng trưng , cụ thể v.v… 2- Biện pháp tu từ :Tìm trong tác phẩm sắp phân tích có những phép tu từ nào ? so sánh , nhân hoá , ẩn dụ , hoán dụ , nói quá , điệp từ điệp ngữ , đảo ngữ v.v… 3- Câu văn , lời văn , bố cục diễn đạt :Câu dài câu ngắn , câu xen kẽ , câu đặc biệt , caaucamr câu kể .Câu văn có đẽo gọt hay luộm thuộm . Có vận dụng các thành ngữ tục ngữ ,.. các dấu đi kèm biểu hiện nội dung hay hình thái , cách ngắt câu ngắt nhịp tạo nhạc cách bố cục v.v… 4- Thể loại : Văn xuôi , văn vàn ,miêu tả kể chuyện , chính luận . THơ tự sự hay trữ tình . thơ lục bát , song thất lục bát , thơ đường hay tự do v.v… 5- Giọng điệu , nhịp điệu : Vui hay buồn , tha thiết hùng hồn hay bi ai phận uất , đơn điệu hay phong phú ,lên bổng xuống trầm hay đều đều gây hưng phấn . Nhịp thơ khoan thai hay dồn dập , buông lơi hay hối hả . Nhip thơ 2/2 hay 2/4 , 3/3, 4/4 v.v… C – Quan hệ giữa nội dung và nghệ thuật : Nội dung và nghệ thuật luôn gắn bó mật thiết với nhau . Nội dung nào nghệ thuật ấy . Nội dung hay phần lớn là nhờ nghệ thuật vì nhờ nghệ thuật mà biểu hiện nội dung . Nội dung dung vui vẻ thì hình thức sinh động và ngược lại . * Ví dụ : Hì hà , hì hục Lục cục ,lào cào Anh cuốc,em cuốc Đá lở, đất nhào . ( Phá đường - Tố Hữu ) + Nội dung : Quang cảnh buổi lao động “phá đường” cản giặc trong kháng chiến chống Pháp . + Nghệ thuật :Từ láy gợi tả ,gợi hình , gợi thanh , sử dụng điệp từ “ cuốc cuốc , cào cào” D - Luyện tập : Tìm nội dung và nghệ thuật đoạn thơ sau : KHông họ chưa hai mươi.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Cô gái hôm nào mới lớn Soi trộm vào gương thấy má mình hồng Nghĩ đến chuyện lấy chồng đỏ mặt . Người con trai ngồi trên gò đất Thổi sáo gọi người yêu, làm nắng chiều đứng lại Lúa đang thời con gái cũng thấy rộn trong lòng ( Nhân câu chuyện mấy người tự tử - Lê Đạt ) VI – Bài thứ sáu : Phân tích tác phẩm văn học 1- Tác phẩm văn học là gì ? Người ta gọi tác phẩm văn học là công trình sáng tác đạt đến trình độ nghệ thuật cao thuộc :thơ , truyện , kịch , ký v.v… Một bài thơ, tập thơ ,tiểu thuyết ,truyện ngắn , ký , kịch đều gọi là tác phẩm văn học . Mỗi tác phâm văn học đều có đặc thù riêng của nó . 2- Phân tích tac phẩm văn học là gì ? Phân tích tác phẩm văn học là tìm hiểu nhận xét đánh giá tac phẩm ấy về hai phương diện nội dung và nghệ thuật trong mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm cũng như hoàn cảnh ra đời của nó . Khi phân tích nếu là tác phẩm văn tự sự thì phân tích nội dung riêng nghệ thuật riêng . Nếu là tác phâm trữ tình thì phân tích nghệ thuật để làm sáng tỏ nội dung . Vì sao ? Vì tác phẩm tự sự Thì tư tưởng tình cảm của tác giả đươc thể hiện thông qua hàng động ,tính cách ,lời nói ,tâm trạng của nhân vật . Còn tác phẩm trữ tinh thì tư tưởng tình cảm của tác giả biểu hiện thông qua ngôn ngữ ( Cách ngắt nhịp ,sử dụng từ gợi tả ,biện pháp tu từ ,sử dụng câu v.v…) 3-Các bước phân tích :Khi phân tích tác phẩm văn học cần theo trình tự ba bước sau (Khái quát – phân tích - tổng hợp ) . a- Nhân xét khái quat bước đầu về tác phẩm.Nếu là thơ ( bài thơ khổ thơ , đoạn thơ ) .Phải nêu đại ý của nó trước khi phân tích . b- Phân tích từng phần ,từng mặt, từng ý trong tác phẩm về hai mặt nội dung và nghệ thuật . c- Tổng hợp lại trên cơ sở đã phân tích . d- Chú ý :- nếu là tác phẩm tự sự thì chú ý nhiều về cốt truyện và nhân vật . Nếu là tác phẩm trữ tình thì chú ý đến từ ngữ ,hình ảnh ,nhịp điệu biện pháp tu từ . - Trong một đoạn thơ ,bài thơ không phải bao giờ tác giả cũng sử dụng tất cả các biện pháp nghệ thuật mà chỉ chọn lọc sử dụng hợp lý với nội dung cần bày tỏ . Khi phân tích ta phải phát hiện ,xác định nội dung miêu tả ,thể hiện ,qua đó xác định nội dung tư tưởng ; Phát hiện nghệ thuật sử dụng ,nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm mà tác giả có dụng ý > Dùng lý lẽ phân tích cả hai mặt ,còn nghệ thuật phải nói được tác dụng của nó chứ không phải chỉ ra rồi để đấy . Khi làm bài phải nhất thiết tuân thủ theo trình tự sau : tìm hiểu đề -> tìm ý -> làm dàn bài ->viết từng phần ->viết cả bài -> khảo bài ..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 4-Tìm hiểu đè :có nghĩa là đọc kỹ đề xem người ra đề yêu cầu ta làm những vấn đề gì : -Về thể loại : bài viết theo kiểu nào, đơn thuần hay tổng hợp . - xuất xứ : tác phẩm ra đời vào lúc nào ,hoàn cảnh xã hội lúc đó ra sao ,tác giả là ai có đặc điểm gì ? - Nội dung khái quát của đề là gì ? (miêu tả cảnh trí thiên nhiên gửi gắm tâm tình ,miêu tả người nêu lên tính cách nhân vật ,canh lao động hay cảnh nhàn du ,tự sự về cái gì hay trào phúng …) - Tìm hiểu đề rất cân thiết >đọc kỹ đề bài đọc nhiều lần có suy nghĩ liên tưởng sẽ giúp dễ dàng hơn tring việc xây dựng dàn bài . Giúp không nhầm lẫn hoặc thiếu sót . Về xuất xứ ta có thể lấy nó làm phần mở bài cho bài viết học sinh trung bình .Hoc sinh khá có thể mở bài theo các khác nhưng cũng không thể bỏ qua đươc phần xuất xứ . Về nội dung khái quát , ta có thể dùng nó vào đoạn đầu của phần thân bài ,nhận xét khái quát tác phẩm 5-Tìm ý :Tìm hiểu đề mới là tìm hiểu tổng quát .Tìm ýlà đi sâu vào chi tiết nội dung và nghệ thuật . - Trước hết là xác định đề có bao nhiêu ý lớn để bài viết đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đề (tuỳ theo đề bài ta có thể chia ra từ 2 đến 3ý là vừa nếu hơn thì nhiều quá sẽ vụn vặt ) - Đặt ra nhiều câu hỏi câu hỏi về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm cần phân tích rồi trả lời ,kể cả câu hỏi về tư liệu phụ (Khi viết thành bài các câu trả lời phải được liên kết chặt chẽ ,diễn đạt cho kín mạch văn ) * Ví dụ : Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân (Viếng Lăng Bác - Viễn Phương ) - Ta đặt câu hỏi như sau : + Khổ thơ có mấy ý ? Đó là những ý nào ? Các ý đó tập trung phản ánh nội dung gì của đoạn thơ ? + Điệp từ “Ngày ngày” diễn tả điều gì ? vấn đề đó ra sao ? + Từ “mặt trời” câu thứ hai chỉ ai ? Nghệ thuật được dùng ơ đây là gì ? Tác dụng của nó ra sao ? Hai từ “mặt trời” ở câu 1 và câu 2 khác nhau chỗ nào ? + Từ rất đỏ ý muốn nói điều gì ? +Sao không nói đoàn người mà nói “dòng người”? Từ “dòng” biểu hiện thái độ gì của những người vào lăng viếng Bác ? +Từ dâng thể hiện điều gì ?Tại sao lại “bảy mươi chín mùa xuân” ? * Bài luyện tập : Tìm ý để phân tích khổ thơ sau : Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng đâu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí ; -. -. +Cách lập dàn ý : Dàn ý là sắp xếp các ý đã tìm được bằng cách đặt ra nhiều câu hỏi theo một trình tự hợp ký nhất định đúng theo kiểu văn phân tích tác phẩm . Dàn ý được trình bày bằng những câu ngắn gọn ,gạch đầu dòng tạo thành một thể thống nhất hoàn chỉnh . Mở bài : Giới thiệu tác giả , hoàn cảnh ra đời của tác phẩm , khái quat về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ( Nếu là đoạn trích thì nêu thêm ấn tượng của đoạn trích ) . Thân bài : - Đoạn đầu của phần thân bài : Nêu cái nhìn tổng quát ban đầu tác phẩm sắp phân tích . -Các đoạn sau cứ mỗi ý lớn thì dựng thành một đoạn theo sự sắp xếp khi tìm ý . ( Trong các ý lứn nên gạhj đầu dòng các ý nhỏ để tránh khi viết bị quên .) Kết bài : Đánh giá một cách khái quát về tác phẩm vừa phân tích . Nêu một chút cảm nghĩ hoặc bài học cụ tuể được rút ra … 6- Cách phân tích thơ : + Muốn phân tích và bình giảng thơ cần phải nắm vững các thao tác sau : -Tìm hiểu giọng thơ xem : nhẹ nhàng hay ngọt ngào ,chậm rãi hay dồn dập , gân guốc hay uyển chuyển v.v…vì giọng thơ thể hiện hồn thơ mà tác giả gửi gắm . - Tìm hiểu cách ngắt nhịp bởi vì giọng thơ với cách ngắt nhịp và hiệp vần tạo nên nhạc thơ . - Tìm “mắt thơ”: Đó là các từ gợi tả (gợi hình ,gợi cảm ,…) - Tìm phép tu từ : Đó là phép tu từ gi ? + Sau khi làm xong các thao tác trên .Muốn Phân tích và bình giảng ta nên đặ hệ thống câu hỏi sau : Với giọng thơ như thế nào ? Kết hợp với ( biện pháp nghệ thuật gì ?hoặc từ gợi tả nào để tạo nên ý gì ? biện pháp nghệ thuật tạo nên hình ảnh gì ? gây cảm xúc gì cho người đọc ? Ví dụ : Phân tích và bình giảng hai câu thơ “Đoàn thuyền dánh cá” của Huy Cận : Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa . Với giọng thơ gân guốc kết hợp với biện pháp so sánh tác giả đã vẽ nên một cảnh hoàng hôn trên biển thật là tuyệt đẹp . Cái hay ở đây là Huy Cận đã đem hình ảnh mặt trời so sánh với hòn lửa rực hồng đang từ từ lặn xuống biển , tạo nên một quang cảnh hoàng hôn huy.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> -. -. hoàng và tráng lệ trên biển làm ngây ngất người đọc .Nhưng khung cảnh ấy chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc rồi nhường chỗ màn đêm lan toả . Cách sử dụng phép nhân hoá ở đây thật là độc đáo vì tác giả đã gán hành động “Cài then” của con người cho sóng và Sập cửa” cho đêm để thể hiện sự dứt khoát của vụ trụ đoạn tuyệt với công việc để đi vào nghỉ ngơi thư giản . Trong khi đó con người lại bắt tay vào lao động , qua đó để thấy được tinh thần làm việc không quản ngày đêm của người dân làng chài . VII – Bài thứ bảy : Cách viết mở bài 1- Khái niệm : Mở bài là phần đầu tiên ,là phần trước nhất đến với người đọc ,gây cho người đọc cảm giác và ấn tượng ban đầu về bài viết , tạo ra âm hưởng chung cho toàn bài văn . -phần này có một vai trò và tầm quan trọng khá đặc biệt vì một mở bài gọn gàng hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú ở người đọc thường báo hiệu một nội dung tốt . nên mở bài rất khó viết hay . 2- Cấu tạo của mở bài : a- Về nội dung : Mở bài thường có những bộ phận nhỏ sau : + Gợi mở vào đề :( Kiểu mở bài lung khởi ) Nêu xuất xứ của đề , của nhận định … Nêu lý do đưa đến bài viết … + Giớ thiệu đề : Đây là trọng tâm của mở bài co nhiệm vụ tạo nên tình huống có vấn đề mà ta giải quyết ở phần thân bài : Giới thiệu nội dung vấn đề . Xác định phương hướng , phương pháp ,phạm vi mức độ giới hạn (nếu có ) Nếu đoạn thơ thì có thể trích dẫn . B- Hình thức : Dung lượng và độ dài phải cân xứng với bài viết . Đặc biệt phải liên hệ chặt chẽ và sự tương ứng cả về dung lượng lẫn phong cách diễn đạt với kiểu bài . -Nên viết ngắn gọn , khéo léo ,gợi hứng thú . - Tránh viết vòng cèo mà không vào được vấn đề . - Tráng viết lan man không ăn khớp với các phần sau . - Tránh viết bay bướm cầu kỳ dài dòng làm phân tán sự chú ý người đọc .. 2- Một số kiểu viết mở bài : - Giới thiếu thẳng với người đọc vấn đề sẽ trình bày . - Cách mở bai này nhanh gọn và giản dị dễ tiếp nhận thích hợp với những bài viết ngắn . - Nhược điểm nếu viết không khéo sẽ khô khan , ít hấp dẫn . + Sau đây là một số kinh nghiệm dạy làm mở bài cho học sinh : a- Mở bài trực khởi: (trực tiếp ) - Giới thiệu tac giả .(1) ..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Giới thiệu tác phâm (2) và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm ,(3) - Đánh giá sơ bộ về nội dung(4) +nghệ thuật .(5) - Với năm yếu tố trên ta có thể viết được các kiểu mở bài như sau : 1234/45 2134/45 3214/45 4 1 2 3 /5 5312/4 *Ví dụ : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu . - Ta viết mở bài như sau :Chính Hữu là một nhà thơ quân đội thường xuyên viết về đề tài người lính . Nhưng có lẽ thành công nhất là bài thơ “Đồng chí” đó là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong chin năm trường kỳ chống thực dân Pháp .Từ khi ra đời đến nay tác phẩm đã chiếm được cảm tình người đọc đặc biệt là các thế hệ học trò ( Các kiểu khác thì chúng ta cũng vết tương tự ) b- Mở bài lung khởi : (Gián tiếp ) + Là kiểu mở bài không đi thẳng vào vấn đề mà gợi mở vào đề bằng cách so sánh, tương phản, nghi vấn giả định ,…bằng cách đưa ra : - Một hình ảnh tương phản , đối lập . - Một hình ảnh so sánh . - Một đánh giá một trích dẫn,một câu tục ngữ ,ca dao . - Một câu chuyện ngắn gọn . + mở bài lung khởi n ếukhéo viết thì rất sinh động gợi cảm,hấp dẫn gây hứng thú cho người đọc . + Nhận biết sự khác nhau : + Mô hình lung khởi - So sánh tương phản - Trích dẫn văn thơ - Mẫu chuyện. + Mô hình trực khởi -Tác phẩm -> Tác giả - Hoàn cảnh nghệ thuật - Khái quát về nội dung. Ví dụ : Phân tích tám câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mơi sa Hoa trôi man mác biết là về đâu ? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> -. Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi ( Truyện Kiều - Nguyễn Du ) + Tìm hiểu đề : Thể loại : phân tích tác phẩm Ý – Có 4 ý Dàn bài + Mở bài : Gợi mở vào đề -> gới thiệu tác phẩm :”Truyện Kiều” (1) ->tác giả Nguyễn Du (2) ->Hoàn cảnh thời phong kiến(3) ->Đánh giá khái quát về nghệ thuật (4) ->Nội dung (5) . * Từ những yếu tố trên ,chúng ta có thể viết được các kiểu bài như sau : 1 - Gợi mở vấn đề : 123/45 2 - Gợi mở vấn đề : 213/45 3 - Gợi mở vấn đề : 321/45 4 - Gợi mở vấn đề : 4123/5 5 - Gợi mở vấn đề : 5312/4 * Ví dụ về cách viết : 213/45 Trong bài thơ “ Kính gửi cụ Nguyễn Du” Nhà thơ Tố Hữu viết: Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru hàng ngày Nghin năm sau nhân dân ta vẫn luôn tưởng nhớ đến Nguyễn Du ,một đại thi hào của nền văn học Việt Nam ,một danh nhân văn hoá thế giới . Nhờ có Tố Như chúng ta nhớ ngay đến áng thơ bất hủ Truyện Kiều” được sáng tác vào thời kỳ chế độ phong kiến mục ruỗng thối nát cùng cực làm cho nhân dân ta vô cùng khốn khổ . Đặc biệt là người phụ nữ . Bằng bút pháp tá cánh ngụ tình độc đáo, nhà thơ đà làm sống dậy hình ảnh một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời bị vùi dập bi thảm được diễn tả bằng những câu thơ tuyệt tác : Buồn trông cửa bể chiều hôm …………………………………….. + Mở bài theo kiểu : 5321/4 Trong bài “Kính gửi cụ Nguyện Du” nhà thơ Tố Hữu từng viết : Nghìn năm sau nhớ Nguyên Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru hàng ngày Nghìn năm sau nhân dân ta vẫn nhớ đến Nguyễn Du một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới . Tố Như đã để lại cho đời một áng thơ bất hủ “Truyện Kiều” . Được sáng tác vào thời kỳ chế độ phong kến việt nammucj ruỗng thối nát làm cho nhân dân ta cực khổ trăm bề . Đặc biệt là người phụ nữ .Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo, nhà thơ đã làm sống dậy hình ảnh người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời bị vùi dập bi thảm , được diễn tả sinh động qua những dòng thơ tuyệt tác : Buồn trông cửa bể chiều hôm ……………………………………..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Các Kiểu dẫn dắt vào bài : 1 – Các kiểu :. a-Giới thiệu vài nét về tác giả -> Tác phẩm -> giới thiệu khái quát về đoạn trích (chép nguyên văn đoạn trích ) b -Giới thiệu khái quát về tác phẩm -> Tác giả -> Giới thiệu khái quát về đoạn trích (chép nguyên văn đoạn trích ) c- Giới thiệu khái quát về dòng văn học -> Tác phẩm -> Giới thiệu đoan trích (chép nguyên văn ) d- Diễn dịch bằng cách dữa vào nội dung tác phẩm sắp xếp phân tích -> Giới thiệu đề (chép nguyên văn ) 2 - Giới thiệu đề : - Sau bước dẫn dắt là bước giới thiệu đề .Bước này là bắt buộc . Giới thiệu đề là chép y nguyên văn đoan thơ hoặc khổ thơ mà mình phân tích . Trường hợp quá dài thì chép câu đầu rồi chấm lửng sau đó chép câu cuối là được . Nếu phân tích cả bài thì chỉ cần giới thiệu tên tác phẩm là được . 3 - Chuyển ý : = Bước này là bước nối liền giới thiệu đề với thân bài . Bước này còn gọi là giới hạn vấn đề , báo cho người đọc biết bài mình làm trong phạm vi nao ?. -. -. VIII – Bài thứ tám : Cách viết thân bài 1- Khai niệm về thân bài một bài phân tích tác phẩm : =Thân bài là phần dài nhất và quan trọng nhất của bài văn phân tích tác phẩm . Trong thân bài là đoạn nêu khái quát nội dung các ý mà mình phân tích ở phần sau Nên phân tích mỗi ý thành một đoạn , giữa các đoạn có sự lên kết chặt chẽ cùng hướng về nội dung mà đề yêu cầu . Dùng lý lẽ phân tích có vận dụng tư liệu văn học để minh hoạ làm cơ sở cho lý lẽ phân tích thêm vững vàng . Nếu là thơ trữ tình thì nên phân tích đi từ nghệ thuật đến nội dung . 2 – Những điều cần lưu ý : - Thân bài là phần trọng tâm có nhiệm vụ : + Phát triển những ý chính đã nêu ở phần mở bài . + Duy trì sự chú ý người đọc . Thân bài bài gồm có nhiều đoan văn : + Các đoan văn thường được cấu tao theo kiểu tổng phân hợp ,diễn dịch ,qui nạp … + Các đoạn văn được trình bày theo một hệ thống lô gich còn gọi là trình bày theo luận điểm . 3 - Cấu tạo của thân bài phân tích tác phẩm : Khi phân tích một bài thơ hay đoạn thơ đoạn văn , chúng ta cần phân tich cả hai mặt nghệ thuật và nội dung . Như thế chúng ta có thể thực hiện phần thân bài phân tích tác phẩm theo các kiểu như sau :.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> - Kiểu 1 : Phân tích nghệ thuật - Kiểu 2 : Phân tích nội dung - Kiểu 3 : Phân tích nghệ thuật - Kiểu 4 : Bình nghệ thuật 1- NT 2- ND 3- NT BND 4- BNT PTND. -> -> -> ->. phân tích nội dung phân tích nghệ thuật . Bình nội dung . Phân tích nội dung .. -> ND -> NT -> ->. Kiểu 1 : NT. -> ND Phân tích nghệ thuật -> Phân tích nội dung - ví dụ : Phân tích bài thơ “ Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương. +Ý 1 : Vẻ đẹp người phụ nữ ( NT -> ND ). - Nghệ thuật : Giọng thơ + Phép ẩn dụ + từ ngữ gợi tả - Nội dung : “Thân em” phân tích . “Vừa trắng lại vừa tròn” Phân tích . + Ý 2 :Cuộc đời chìm nổi của người phụ nữ .( NT -> ND ) - Nghệ thuật : Nhịp điệu + Thành ngữ - Nội dung : “Bảy nổi ba chìm” -> Phân tích . + Cách viết như sau : Mở đầu bằng giọng thơ nhẽ nhàng êm dịu kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ tạo ra hình ảnh so sánh ngầm kín đáo , sâu sắc Hồ Xuân Hương đã thốt lên hai tiếng “thân em” . Đang miêu tả bánh trôi nước mà lại như thế chắc nhà thơ muốn gợi cho ngườ đọc nhớ về câu ca dao : Thân em như hạt mưa sa Đay là cách xơng hô khiêm tốn của ngườ phụ nữ nước ta khi nói về mình . Nhưng những từ ngữ gợi tả tiếp theo lại không dấu được niềm kiêu hạnh tự hào của họ . Hình ảnh “trắng ,tròn” vừa miêu tả được màu sắc của bánh trôi nước . Nhưng lại đề cao được vẻ đẹp người phụ nữ đến dễ thương . Tuy đẹp vậy nhưng số phận của họ lại rơi vào cảnh : Bảy nổi ba chìm với nước non Nhịp điệu của bài thơ tư nhiên trầm lắng chậm dần khi nhà thơ đang vui lại hoá buồn , đang tự hào kiêu hạnh bổng im lặng cúi đầu trước “bảy nổi ba chìm” . Cách sử dụng thành ngữ ở đây thật là độc đáo vì qua hình ảnh đó vừa nói lên được cách luộc bánh lại vừa cho người đọc hiểu được cuộc đời lênh đênh chìm nổi của người phụ nữ đương thời. Bài tập Phân tích theo kiểu 1 ( NT -> ND ) Khổ thơ đầu bài “Đoàn thuyền đánh cá”.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> của nhà thơ Huy Cân . Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi a- Tìm ý và “nhạn tự” : + Câu 1: Về ý : Cảnh hoàng hôn trên biển “Nhạn tự” : NT -> Giọng thơ + nghệ thuật so sánh ND -> Như hòn lửa + Câu 2 : Về ý : Cảnh vũ trụ vào đêm “Nhạn tự” : NT -> Nhịp điệu + biện pháp nhân hoá ND -> Cài then sập cửa b- Phân tich hai câu thơ đầu : Mở đầu với giọng thơ mạnh mẽ gân guốc kết hợp với nghệ thuật so sánh cụ thể sinh động . Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về hình ảnh mặt trời đang từ từ lặn xuống biển như một hòn lửa rực hồng ,tạo nên một không gian huy hoàng rực rỡ làm ngây ngất người đọc trước vẻ đẹp của trời biển lúc hoàng hôn . Nhưng cảnh tượng ấy chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan toả : Sóng đã cài then đêm sập cửa Nhịp diệu thơ bổng chậm dần , trầm lắng kết hợp với hình ảnh nhân hoá sáng tạo đem hành đông “cài then , sập cửa” gán cho sóng và đêm . Đã tạo nên thái độ dứt khoát của vũ trụ ngừng hoạt động đi vào nghỉ ngơi thư giãn . Màn đêm đã lan toả , cảnh trên biển thật là bình yên .Trong hoàn cảnh đó lại xuất hiên hình ảnh mới : Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Kiểu 2 : ND ( Phân tích nội dung. -> ->. NT Phân tích nghệ thuật ). Ví dụ : Phân tích hai câu thơ đầu của “Bánh trôi nước” - Hồ Xuân Hương Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non + Ý 1 : Vẻ đẹp người phụ nữ ND -> Thân em NT -> Nghệ thuật ẩn dụ + giọng thơ -> Phân tích Từ ngữ gợi tả -> phân tích + Ý 2 : Cuộc đời chìm nổi của người phụ nữ . ND -> Bảy nổi ba chìm . NT -> Nhịp điệu + Cách sử dụng thành ngữ -> phân tích ..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> + Cách phân tích : Mở đầu bài thơ Hồ Xuân Hương thốt lên hai tiếng “thân em” làm cho người đọc nhớ đến câu ca dao : Thân em như hạt mưa rào Cách xưng hô thật là nhẽ nhàng êm dịu của người phụ nữ khi nói về bản thân mình . Trong câu thơ này , người đoc thưởng thức được cái biệt tài sử dụng phép tu từ ân dụ của nhà thơ . Với lối so sánh ngầm sâu sắc kín đáo làm cho người đọc vừa hiểu được bánh trôi nước vừa nghĩ ngay đến vẻ đẹp kiều diễm của người phụ nữ . đó là một vẻ đẹp hoàn mỹ . Đọc câu thơ ta còn thấy được nữ sĩ là bậc thầy về sở dụng tờ ngỡ gợi tả . Vì qua hai từ “Trắng , tròn” vừa miêu tả được màu sắc và hình dáng chiếc bánh trôi nước vừa đề cao được cái vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ Việt Nam . Tuy đẹp là vậy nhưng cuộc sống của họ lại phải chịu cảnh : Bảy nổi ba chìm với nước non Dưới ngòi bút trữ tình của Bà chúa thơ nôm ,số phận người phụ nữ dưới xã hội phong kiến được diễn tả như thế nào ? Họ phải sống trong một chế độ đầy áp bức bát công phải chịu cảnh “Bảy nổi ba chìm” . Thành ngữ xuất hiện trong câu thơ này đã được tác giả khéo kéo sử dụng kết hợp với nhịp điệu trầm lắng chậm dần cho ta thấy được cách luộc bánh nhưng cũng hiểu được số phân lênh đênh bạc mệnh của người phụ nữ ngày xưa . + Bài tập : Phân tích theo kiểu 2 : ( ND -> NT ) Hai câu thơ đầu trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận . Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa . + Ý 1 : Cảnh hoàng hôn trên biển ( ND -> NT ) - Nhạn tự : ND -> như hò lửa NT -> Giọng thơ + biện pháp so sánh -> Phân tích + Ý 2 : Cảnh vũ trụ vào đêm ( ND -> NT ) - Nhạn tự : ND -> “ Cài the , sập cửa” NT -> Nhịp điệu + Nghệ thuật nhân hoá -> Phân tích + Cách viết như sau : Mở đầu nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp , đó là hình ảnh mặt trời đang từ từ lặn xuống biển như hòn lửa rực hồng . Với giọng thơ khoẻ mạnh gân guốc lại được tăng thêm hình ảnh so sánh sáng tạo của nhà thơ . Ở đây mặt trời được ví “như hòn lửa” khiến người đọc liên tưởng đến hình dáng tròn trịa và màu sắc rực rỡ của vầng thái dương tạo thanh một phong cảnh huy hoàng rực rỡ của buổi hoàng hôn trên biển làm ngây ngất lòng người trước cảnh đẹp của trời biển việt nam .Nhưng khung cảnh đó chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan toả : Sóng đã cài then đêm sập cửa Cảnh màn đêm đã dược tac giả miêu tả bằng hình ảnh sóng bắt đầu “cài then” đêm ra tay “sập cửa” . Hình ảnh nhân hoá đầy bất ngờ hơnhs.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> thú kết hợp với nhịp điệu chậm dần trầm lắng cho thấy vũ trụ đã đoạn tuyệt với công việc đi vào nghỉ ngơi thư giản . Chính lúc đó con người lại bắt tay vào lao động . Kiểu 3 : NT -> Phân tích nghệ thuật ->. -. -. -. Bình nội dung Bình nội dung. a- Bình nội dung : -Là so sánh ý của câu thơ đang phân tích với ý tương đương trong câu thơ của những nhà thơ nhà văn khác . - Có hai kiểu so sánh ý thơ : So sánh tương đồng So sánh tương phản + So sánh tương đồng : Ví dụ : Phân tích câu thơ đầu tiên của bài thơ “Bánh trôi nước” - Hồ Xuân Hương . Ý : Vẻ đẹp người phụ nữ . NT : Giọng thơ + ngệ thuật ẩn dụ + từ ngữ gợi tả -> phân tích ND : Thân em -> Bình Vừa trắng , vừa tròn -> Bình Cách viết như sau : Mở đầu bằng giọng thơ nhẽ nhàng êm dịu kết hợp với biện pháp ẩn dụ tạo nên hình ảnh so sánh ngầm sâu sắc kín đáo . Hồ Xuân Hương thốt lên hai tiếng “Thân em” . Đang miêu tả bánh trôi nước mà thốt lên như vậy chắc rằng nhà thơ muốn gợi cho người đọc nhớ đến câu ca dao : Thân em như hạt mưa rào Đây chính là cách xưng hô khiêm tốn của người phụ nữ việt Nam khi nói về mình . Nhưng những từ gợi tả tiếp theo lại không dấu được vẻ tự hào kiêu hạnh của họ .Hình ảnh trắng tròn vừa miêu tả được mài sắc hình dáng chiếc bánh trôi nước vừa nói lên được vẻ đẹp hoàn mỹ của người phụ nữ nước ta . Vẻ đẹp ấy đã được đại thi hào Nguyễn Du đề cao trong ý thơ tương tự : Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hay : Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da + So sánh tương phản :. Ví dụ : Phân tích hai câu thơ : Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc ( Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải ) Ý : Cống hiến suốt đời cho đất nước , cho cách mạng . Cách viết như sau : Nhịp điệu thơ dồn dập lôi cuốn , được tăng thêm bằng điệp từ “Dù là” được lặp đi ,lặp lại như các đợt sóng xô liên tiếp vào bờ . Như thúc dục.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> mọi người phải góp sức mình dựng xây đất nước giàu đẹp, cống hiến cả cuộc đời “Dù là tuổi hai mươi” cho đến khi “tóc bạc” mà không tính gì đến thiệt hơn . Quan niệm đó khác hẳn với các nhà thơ trước đây : Công danh đã được hợp về nhà Lành dữ âu chi thế nghị khen ( Thuât hứng - Nguyễn Trãi ) -Kiểu 4 :. -. -. -. Bình NT -> PTND Bình nghệ thuật -> Phân tích nội dung + Bình nghệ thuật : Là so sánh nghệ thuạt câu thơ đang phân tích với các biện pháp tu từ người viết đặt ra để so sánh hoặc các biện pháp tu từ của các nhà văn nhà thơ khác . Thông thường người ta bình nghệ thuật của ; a- Từ ngữ gợi tả . b- Các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hoá , ẩn dụ , hoán dụ .v.v… * Bình các từ gợi tả : Ví du : Phân tích hai câu thơ trong bai “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc . Ý : Cảnh mùa xuân xứ Huế : NT : giọng thơ + từ gợi tả ND : Dòng sông xanh , bông hoa tím biếc . Mở đầu bài thơ Thanh Hải vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp với những nét chấm phá giữa cái nền “Dòng sông xanh” nổi bật “Một bông hoa tím biếc” . Tại sao nhà thơ lại không tô ddieemrcho bức tranh ấy bằng hình ảnh của hoa mai ,hoa đào mà lại vẽ nên một gam màu tím ? Vì hoa đào là biểu tượng của mùa xuân miền Bắc , còn mai vàng là mùa xuân của phương nam .Bởi vậy chỉ có màu sắc tím mới là đặc trưng của mùa xuân xứ Huế . Đó là màu sắc trang nhã ,tươi mát ,tràn đầy sức sống làm say đắm lòng người. Đó cũng chính là cảm hứngtừ tà áo dài cô gái Huế : Cô gái Huế vẫn thiết tha trong tà áo tím Giữ bên anh bao kỷ niệm tháng năm nào! * Bình giảng phép tu từ : + Ví dụ : Bình giảng câu thơ “ Cổ tay em trắng như ngà” PT : Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh thật là độc đáo . Đem cổ tay người con gái để ví von “Trắng như ngà” .Tại sao lại không so sánh cổ tay em gái trắng như tuyết , như bông ? Vi trắng như tuyết chỉ diễn tả được màu trắng nhưng lạnh lẽo quá . Còn trắng như bông thì thật là nhẹ và xốp . Như vậy cổ tay em trắng như ngà là đẹp và hợp lý nhất . Bởi vì so sánh như vậy vừa diễn tả được cổ tay trắng trẻo nhưng lại rất khoẻ.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> mạnh quý phái tạo nên một hình ảnh đẹp về bàn tay người con gái Việt Nam . IX – Bài thứ chín : Cách viết kết bài 1- Khái niệm : Kết bài là phần sau cùng của bài văn . Đây là phần đóng lại sau khi đã viết xong phần mở bài và thân bài . THông thường gồm các ý sau : Đánh giá tổng quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm . Có thể rút ra bài học hoặc nêu suy nghĩ . 2- Các yếu tố viết kết bài : Tác phẩm(1) -> Tác giả(2) -> Nghệ thuật(3) -> Nội dung(4) . Với bốn yếu tố trên ta có thể viết được các kiểu sau : 1,2,3,4 2,1,3,4 3,2,1,4 4,2,1,3 Tôi sẽ viết cách bài sau : - Cách đặt câu dựng đoan - Giá trị nhân đạo : chuyện người con gái Nam Xương , Truyện Kiều - Phân tích ngôn ngữ truyên Kiều - Cách dạy văn học sử để học sinh biết làm văn nghị luận - ( Các bạn có gì trao đổi xin gọi đến số may của tôi ) X .PH ÂN T ÍCH NHAC : 1.Phân tích nhạc thơ về mặt tiết tấu: - Tiết tấu là do sự luân phiên những mặt đối lập của các thuộc tính âm thanh ngôn ngữ. Nghĩa là một trong hai mặt đối lập của chúng (cao- thấp, dài- ngắn, mạnh- nhẹ) luân phiên trong một khoảng thời gian nào đấy tạo nên. - Các yếu tố tạo nên tiết tấu thơ: a. Số “tiếng” trong một dòng thơ: Là số lượng âm tiết trên một dòng thơ (không phải câu thơ). Do vậy, dễ thấy số “tiếng” là căn cứ để phân chia thể thơ tiếng Việt, và cũng là căn cứ để phân nhịp. Ví dụ: - Thơ mỗi dòng năm tiếng được gọi là thơ ngũ ngôn, nhịp 2/3 - Thơ lục bát (dòng sáu tiếng ,dòng tám tiếng), nhịp chẵn 2/2/2 Nếu xem thơ là một chỉnh thể nghệ thuật có mối quan hệ khăng khít giữa hình thức và nội dung thì rõ ràng mỗi thể thơ sẽ phù hợp cho việc diễn tả, thể hiện một nội dung, cảm xúc nào đấy. Ví dụ:.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Thơ song thất lục bát phù hợp cho việc diễn tả nỗi buồn (Cung oán ngâm khúc -Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điểm, Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến...) - Thơ năm chữ phù hợp cho sự hoài niệm (Ông đồ - Vũ Đình Liên, Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp...) Thường những bài thơ làm một thể thì nhạc điệu của thể loại không có gì rắc rối. Đáng chú ý là những bài thơ có sự thay đổi số tiếng trên nhiều dòng. Điều này làm cho nhạc thơ thêm phong phú và dĩ nhiên nó giúp bộc lộ nhiều sắc thái cảm xúc của nhà thơ. Ví dụ: Bài thơ “ Đất nước “(Nguyễn Đình Thi) chủ yếu 7tiếng/dòng, nhưng khổ cuối có sáu tiếng/ dòng. Do vậy, nhạc thơ ở khổ cuối trở nên nhanh, mạnh hơn các khổ trên. Điều này giúp nhà thơ thể hiện sức mạnh, tư thế hùng tráng của đất nước Việt Nam ở thời điểm quật khởi đứng lên chống Pháp giành độc lập dân tộc. “ Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà “ Ví dụ: Bài “ Bên kia sông Đuống “ ( Hoàng Cầm ) là thơ tự do, câu chữ loi thoi, dòng dài dòng ngắn, thế mà nghe kỹ, lắng kỹ thì dòng chảy chính là dòng lục ngôn: A nh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì... Xanh xanh bãi mía bờ dâu..... Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương.... Nhưng kết thúc cái dòng lục ngôn và các dòng ngắn dòng dài tự do ấy, Hoàng Cầm về với những dòng lục bát: - Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu... - Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông - Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ -Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh Dòng sông Đuống vốn êm đềm trôi giữa lòng dân tộc. Nó chỉ bị cồn lên, xao động lên khi quân giặc tới. Trong nỗi đau tan tác chia ly ấy, Hoàng Cầm tìm về thể thơ lục bát như tìm về cái hồn dân tộc. Nhịp điệu 2/2 êm.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> đềm, trữ tình của thơ lục bát làm vơi đi ít nhiều nỗi đau ấy. Đó cũng là bản sắc văn hoá dân tộc trong thơ Hoàng Cầm. b. Phép điệp: Là hiện tượng lặp lại một hay nhiều đơn vị âm thanh của ngôn ngữ. Có hai trường hợp lặp lại một cách đặc biệt là từ láy và hiện tượng gieo vần, ta sẽ xét ở phần sau. Nhờ phép điệp mà thơ tạo nên những ấn tượng thính giác. Những đơn vị ngữ âm được lặp lại tạo nên những biểu tượng ngữ âm. Biểu tượng ấy có khả năng gợi lên hay nhấn mạnh một nội dung cảm xúc nào đó trong thơ. Đối với ngôn ngữ thơ tiếng Việt, có các cấp độ điệp sau đây: * Điệp phụ âm đầu: Là hiện tượng lặp lại phụ âm đầu. Ví dụ: Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông (Truyện kiều - Nguyễn Du) Phụ âm đầu “ l” được lặp lại, biểu hiện sự ẩn hiện, phản chiếu giữa ánh sáng và màu đỏ của hoa lựu. Không tả trực tiếp ánh nắng, nhưng câu thơ đã gợi được cái chập chờn rực rỡ của ánh nắng hè. Hay, khi Từ Hải “Triều đình riêng một góc trời”, tiếng tăm lừng lẫy vang dội, có thể làm kinh thiên động địa, thì Nguyễn Du sử dụng điệp phụ âm đầu “ đ” làm nên biểu tượng ngôn ngữ để diễn tả sức mạnh, sự vững chắc làm kinh động gầm trời phong kiến đương thời. “Đại quân đồn đóng cửa đông Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng”. * Điệp từ: Điệp từ là hiện tượng khá phổ biến trong thơ. Có nhiều bài thơ, câu thơ mà sức sống của nó ở điệp từ. Dễ thấy, mọi trường hợp điệp từ, trước hết đều gây ấn tượng thính giác, nhưng nội dung mà nó gợi ra thì rất phong phú. Việc phân tích tìm ra giá trị nội dung thông qua thủ pháp điệp từ trong thơ là công việc tương đối khó khăn. Điệp từ luôn có chức năng nhấn mạnh nghĩa biểu đạt mà từ đó đang mang. Nhưng sinh động hơn là nghĩa văn cảnh (Nghĩa do văn cảnh tạo ra, còn được gọi là nghĩa tình huống). Muốn nắm được nghĩa tình huống, ta phải đặt điệp từ đang xét vào mối quan hệ với các tín hiệu ngôn ngữ khác của thi phẩm. Có thể hình dung cách phân tích điệp từ qua mô hình sau: Điệp từ “ x”: - Gây ấn tượng thính giác, tạo sự phong phú cho nhạc thơ - Nhấn mạnh nội dung ý nghĩa từ “x” đang mang - Nghĩa tình huống Ví dụ: Ca dao viết Còn trời còn nước còn non Còn trăng còn gió hãy còn gió mây.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Câu ca dao sử dụng điệp từ “còn”. Chưa xét về nội dung, cái hấp dẫn, thu hút độc giả trước hết vẫn là ấn tượng thính giác. Câu ca dao có 14 âm tiết, nhưng chiếm tới sáu âm tiết điệp với nhau. Điều thứ hai, câu ca dao nhấn mạnh mọi thứ vẫn còn đó, vẫn không thay đổi tho thời gian. Nhưng quan trọng hơn, khi xem xét quan hệ lâm thời giữa các từ ngữ trong câu ca dao trên, ta nhận ra hai ngữ cảnh sau. Một là, “trời/ nước/ non/ trăng/ gió “ tập trung chỉ vũ trụ, tự nhiên. Nghĩa của ngữ cảnh một là “tự nhiên vũ trụ không thay đổi”. Hai là , từ “đó đây” không phải từ chỉ nơi chốn mà trong ngữ cảnh ấy nó mang nghĩa lâm thời chỉ người con gai và người con trai. Từ hai ngữ cảnh ấy, ta nhận ra nghĩa tình huống của từ “còn” là dùng để khẳng định tình yêu chung thuỷ, bền vững của đôi trai gái sánh cùng sự bền vững của vũ trụ. Âu đó cũng là cách củng cố niềm tin cho người tình trong hoàn cảnh đối diện với những thách thức của cuộc đời. Ví dụ 2: Nguyễn Khuyến viết : “Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua” (Khóc Dương Khuê) Câu thơ có điệp từ ”không“ (Lặp lại 5 lần). Cái “không” bao trùm lên câu thơ bao trùm lên cuộc sống của tác giả. Nếu ai đã đọc qua bài thơ “Khóc Dương Khuê”, có thể quên hết bài thơ thậm chí quên tác giả, nhưng chắc chắn khó quên câu thơ đặc sắc này. Với điệp từ “không”, tác giả như muốn phủ định sạch trơn mọi thú vui của mình khi mất bạn. “ Rượu tiếng rằng hay”,nhưng khi mất bạn thì có ý nghĩa gì. Các tín hiệu ngôn ngữ của câu thơ thiết lập mối quan hệ tình huống giữa hai vấn đề : nguyên nhân - kết quả. Nguyên nhân: “không có bạn hiền” dẫn đến kết quả : “không mua” (dù rượu ngon và có tiền). Thông qua văn cảnh ấy , điệp từ “không” đã thể hiện nỗi cô đơn bao trùm lên cuộc đời tác giả khi mất bạn. Thế mới thấy tình bạn đẹp đẽ, sâu sắc và chân thành giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê . Ví dụ 3 : Chu Mạnh Trinh viết : “Này suối Giải Oan này chùa Cửa Võng Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh” (Hương Sơn phong cảnh ca) Câu thơ sử dụng điệp từ “ này “ với mục đích liệt kê các danh thắng ở Hương Sơn . Và qua cách liệt kê ấy, tác giả muốn nhấn mạnh vẻ đẹp phong phú, đa dạng của quần thể danh thắng Hương Sơn. Ví dụ 4 : Nguyễn Du viết : “Khi tỉnh rượu đã tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Câu thơ có sử dụng điệp từ “mình”. “Mình ”vừa là chủ thể trữ tình, vừa là khách thể thẩm mỹ. Do vậy, câu thơ miêu tả Kiều sống trong những giây phút hoàn toàn hướng nội, đối diện với bản thân và phản tỉnh về mặt nhân.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> cách trên cái nền hiện thực ê chề , ngao ngán( tỉnh rượu, tàn canh). Điệp từ “mình” còn cho thấy sự cô đơn khủng khiếp của Kiều trong nhưng ngày tháng sống tại lầu Ngưng Bích. Tóm lại, điệp từ là một thủ pháp nghệ thuật phổ biến. Câu thơ có điệp từ thường trọng âm rơi vào điệp từ tạo nhịp cho thơ. Do vậy, muốn phân tích điệp từ, trước hết độc giả phải cần có một năng lực thẩm âm tốt, sau đó là năng lực tư duy. * Điệp ngữ : Là hiện tượng lặp lại một cụm từ, một tổ hợp từ (ngữ). Trong thơ ca, hiện tượng này cũng khá phổ biến . Cách phân tích điệp ngữ trong thơ rất linh hoạt , song có thể tiến hành theo các thao tác sau: Về mặt ngữ âm, điệp ngữ trước hết giúp ta xác định nhịp thơ ( bước thơ), tạo ấn tượng thính giác cho độc giả . Về mặt ngữ nghĩa, cần xác định nghĩa của ngữ thông qua nghĩa của từ và cấu trúc ngữ pháp của ngữ. Ngoài ra, phải đặt nghĩa của ngữ trong mối quan hệ lâm thời về ngữ nghĩa với các tín hiệu ngôn ngữ khác của câu thơ, bài thơ . Ví dụ 1: Điệp ngữ “Buồn trông” trong đoạn thơ Nguyễn Du tả tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích: “Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa , Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trong gió cuốn mặt duềnh Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” Tám câu thơ có 4 lần điệp ngữ “ Buồn trông” xuất hiện ở câu lục nhằm diễn tả nỗi buồn thấm đẫm trong tâm hồn Kiều, theo cái nhìn phóng chiếu lên cảnh vật. Sự lặp lại này có chức năng gợi lên tính chất triền miên không dứt của nỗi buồn. Ngữ “ buồn trông” được cấu tạo bởi tính từ “buồn” và động từ “trông”. “Buồn” là cái có sẵn, cái có trước, “trông” là hành động kéo theo, là cái có sau. Đằng sau chữ “trông” là bức tranh cảnh vật, thiên nhiên. Do vậy, cảnh ở đây là cảnh chứa tâm trạng, cảnh được lọc qua lăng kính tâm trạng “ Buồn” của Kiều. Ví dụ 2: “ Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta ” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi) Điệp ngữ “của chúng ta” tạo nên âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ là niềm tự hào của tác giả về thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam. Nghĩa của ngữ này chỉ sự sở hữu (đây là một hình thức sở hữu cách trong.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> tiếng Việt ). Do đó, đoạn thơ còn diễn tả niềm vui sướng của tác giả khi thức nhận tinh thần làm chủ đất nước. * Điệp dòng : (thói quen gọi là điệp câu): Ví dụ1 : Bài thơ “ Đất Vị Hoàng” (Trần Tế Xương) có câu 8 lặp lại hoàn toàn câu 1 : “ Có đất nào như đất ấy không?” . Đây là kiểu điệp mang tính đặc trưng nhất của hình thức thơ thủ vĩ ngâm. Việc lặp lại câu thơ có cấu trúc nghi vấn ấy như xoáy sâu, tô đậm tâm trạng ngao ngán thái độ mỉa mai của tác giả trước hiện trạng suy về đồi đạo đức, lở loét về nhân cách của một số người Việt Nam trong thời buổi giao thời. Tương tự các hiện tượng điệp khác, điệp dòng bao giờ cũng có chức năng nhấn mạnh nội dung mà dòng thơ đó chứa đựng. Nó mang cái âm ba của thi phẩm dội mãi vào lòng độc giả , để lại dấu ấn thẩm mỹ sâu đậm trong lòng độc giả. Ví dụ 2 : Hiện tượng điệp dòng “Em tan trường về” trong bài “Ngày xưa Hoàng Thị ” (Phạm Thiên Thư ). Bài thơ dài như một tình sử đẹp đẽ thời áo trắng. Sau mỗi lần “Em tan trường về”, người đọc nhận ra vẻ đẹp hồn nhiên, trong trắng của cô nữ sinh qua đôi mắt chàng trai si tình. Câu thơ chân chất nói đến một sự việc thường nhật của thời đi học “Em tan trường về”. Cái chân chất của một kẻ chân tình chứ không phải phong tình. Sự lặp lại dòng thơ là lặp lại sự việc thường nhật ấy. Như vậy, thủ pháp điệp dòng vừa như những trang hồi ký ghi lại cặn kẽ những gì đẹp đẽ, đáng yêu một thời của cô bé, vừa để chàng trai si tình bộc bạch tình yêu lặng lẽ của mình lặng lẽ như thời gian. * Điệp đoạn (còn gọi là điệp khúc): Là hiện tượng lặp lại một đoạn thơ . Đoạn thơ được lặp luôn chứa một nội dung cảm xúc nào đấy. Cho nên, điệp đoạn thường có vai trò nhấn mạnh và thể hiện tính thường trực của cảm xúc. Ví dụ 1: Bài thơ “Tâm tư trong tù” của Tố Hữu có một điệp đoạn 4 dòng thơ: “Cô đơn thay là cảnh thân tù Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu” Đoạn thơ tập trung thể hiện hoàn cảnh cô đơn và khao khát hướng ra cuộc sống bên ngoài của tác giả. Biệp pháp điệp đoạn đã thể hiện sâu sắc khát khao thường trực, mãnh liệt ấy. Điệp khúc trong thơ là hiện tượng không phổ biến. Bởi hạn chế lớn nhất của thủ pháp này sẽ làm nghèo đi nhạc thơ. Trong thực tế, xuất hiện nhiều bài thơ có điệp khúc nhưng không phải lặp lại nguyên xi mà nhà thơ có biến cải theo mạch cảm xúc. Ví dụ 2:.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> “Lá vàng rơi (Tôi khóc anh ơi) Đàn rung tiếng Người yêu đương ngồi ... àn nghẹn tiếng Trăng vàng rơi (Tôi khóc anh ơi) Đ Người yêu dậy rồi ... Hoa vàng rơi (Tôi khóc anh ơi) Đàn câm tiếng Người yêu đi rồi Sao vàng rơi (Thôi hết anh ơi) Đàn bẽ phiếm Người yêu chết rồi” (Thi vị - Bích Khê) Bài thơ xây dựng trên cơ sở vận dụng linh hoạt phép điệp đoạn và sự phát triển của cảm xúc. Giai điệu tài phai của bài thơ được phát sinh từ việc lặp đi lặp lại hình ảnh “vàng rơi” của: Lá, trăng, hoa, sao. Và ở mỗi thực thể này lại có một mối quan hệ chặt chẽ với tiếng đàn, với hình ảnh người yêu. Bài thơ như một điệp khúc giã từ, và mỗi khổ thơ là một cung bậc khác nhau. Cả hai chuỗi động từ đi liền với chủ thể “đàn” (rung, nghẹn, câm, bẽ) và “người yêu” (đương ngồi, dậy, đi, chết) khiến tạo nên một sự thống nhất giữa hành động với cảm xúc của bài thơ. Mỗi từ như một dấu nhấn ghi lại những cung bậc tàn phai của đất trời, và biệt li của lòng người. Nhạc thơ mỗi lúc một ngân vang như tiếng kinh cầu bên bờ vực thẳm. * Điệp - Đảo: Trong thực tế, phép điệp được các nhà thơ sử dụng linh hoạt, kế hợp với nhiều thủ pháp nghệ thuật khác, phổ biến nhất là kết hợp phép điệp từ, điệp ngữ, điệp dòng với phép đảo vị trí của các hình vị, các từ, các ngữ. Việc kết hợp 2 hay nhiều thủ pháp cùng một lúc sẽ tăng thêm nhiều giá trị thẩm mỹ cho thơ. Chúng ta cùng thưởng thức cái hay của các câu thơ sau: - “Song sa vò võ phương trời Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” (Truyện Kiều - Nguyễn Du) - “Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> Giang tâm như kính tịnh vô trần” (Tân xuất ngục học đăng sơn - Hồ Chí Minh) - “Con kiến mà leo cành đa Leo phải cành cụt, leo ra leo vào Con kiến mà leo cành đào Leo phải cành cụt, leo vào leo ra” (Ca dao) - “Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông” (Ca dao) c. Phép đối: * Khái niệm: Là hiện tượng bố trí song hành về mặt âm thanh và ý nghĩa ở 2 vế của một dòng thơ hay hai dòng thơ trong một bài thơ. Tần số xuất hiện nhiều hay ít, cố định hay không cố định của phép đối tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng thể thơ. Ở thể thất ngôn bát cú thì luôn có hai cặp câu đối với nhau: Cặp câu thực và cặp câu luận. Ở thể song thất lục bát thường xuất hiện cặp câu đối ở cặp câu thất. Ở thể lục bát thỉnh thoảng có phép đối trên một dòng. * Phân loại phép đối về mặt hình thức: Có 02 loại. 1. Tiểu đối: là phép đối xảy ra trong nội bộ một dòng thơ. Ví dụ: “Người quốc sắc // kẻ thiên tài Tình trong như đã // mặt ngoài còn e " (Truyện Kiều - Nguyễn Du) 2. Bình đối: là phép đối xảy ra giữa hai dòng thơ với nhau. Ví dụ: “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng” (Giễu người thi đỗ - Trần Tế Xương) * Chức năng: Phép đối góp phần làm nên tính hài hoà của tiết tấu. Song, khi phân tích chức năng của phép đối, ta cần xem xét kỹ sự tương xứng về mặt từ vựng - ngữ nghĩa của hai vế hay hai dòng đối để rút ra nội dung biểu hiện của thủ pháp. Có hai kiểu tương xứng về từ vựng - ngữ nghĩa sau: 1. Tương xứng nét nghĩa bổ sung: Ví dụ 1: “Phòng tiêu lặng ngắt như đồng Gương loan bẻ nửa // dải hồng xé đôi” (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều) Hai vế đối bổ sung, nhấn mạnh nội dung xa cách, chia ly, tan vỡ trong mối quan hệ chăn chiếu giữa cửu trùng và người cung nữ. Ví dụ 2: “ Đoạn trường thay lúc phân kỳ Vó câu khấp khểnh // bánh xe gập ghềnh” (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Hai vế đối mà trọng tâm là hai từ láy “khấp khểnh” và “gập ghềnh” tương xứng về từ loại, phương thức cấu tạo, ý nghĩa tập trung bổ sung nhau.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> để nói về sự không bằng phẳng, truân chuyên ngay trong những bước đầu tiên trong chặng đường mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Ví dụ 3: Đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều, Thuý Vân (Truyện Kiều - Nguyễn Du) có 24 dòng thơ, nhưng có 12 câu tiểu đối. Vì thế, âm điệu tiết tấu của đoạn thơ cân đối, nhịp nhàng góp phần thể hiện sự hoàn mỹ về nhan sắc, sự toàn diện về phẩm chất và cốt cách của Thuý Kiều - Thuý Vân. Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười, Vân xem trang trọng khác vời , Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang, Hoa cười, ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mạn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn, Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành họa hai Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. Êm đềm trướng rũ màng che Tường đông ong bướm đi về mặc ai. ( Kiều - Nguyễn Du ) 2. Tương xứng theo nét nghĩa đối lập: Ví dụ 1: “Khôn nghề cờ bạc là khôn dại Dại chốn văn chương ấy dại không” (Trần Tế Xương) Ngoài phép điệp - đảo hai từ “khôn”, “dại” trong hai dòng thơ trên, những từ ngữ chính đối lập nhau về ý nghĩa nhằm thể hiện quan điểm ứng xử của ông tú Vị Xuyên trong lĩnh vực sáng tác văn chương. Ví dụ 2: “ Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm” (Truyền Kiều - Nguyễn Du).
<span class='text_page_counter'>(29)</span> Cùng một văn cảnh mà kẻ khóc người cười. Đó là nghịch cảnh của cuộc đời. Nghịch cảnh nào mà chẳng gây đau lòng cho những người có nhân tâm. d. Ngắt nhịp: Nhịp là hiện tượng được tạo nên do những “dấu lặng” trên chuỗi âm thanh của dòng thơ. Thường nhịp thơ là do thể thơ quy định. Người ta căn cứ vào số âm tiết trong nhịp thứ nhất mà đặt tên nhịp thơ. - Thơ lục bát: Nhịp 2 / 2 / 2 và được gọi là nhịp chẵn. - Thơ song thất lục bát: * Hai câu thất nhịp: 3 / 2 / 2 / 2 và được gọi là nhịp lẻ. * Hai câu lục bát (tương tự thơ lục bát). - Thơ thất ngôn bát cú: nhịp 2 / 2 /3 và được gọi là nhịp chẵn. Tuy nhiên, trong quá trình vận động và phát triển của thể loại, nhịp thơ có nhiều biến đổi linh hoạt nhằm tạo nên sự phong phú về nhạc điệp và tăng hiệu quả biểu đạt cho thơ. Thơ tự do có cách ngắt nhịp tự do hơn cả, ngắt nhịp theo mạch cảm xúc. Xác định đúng nhịp thơ sẽ giúp ích rất nhiều cho việc phân tích thơ. Ngắt nhịp sai thì cảm, hiểu sai. Ví dụ: “ Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” Nếu ngắt nhịp “Sau lưng / thềm nắng lá rơi đầy” thì sẽ hiểu sai ý đồ của tác giả. Phải ngắt nhịp: “Sau lưng thềm / nắng lá rơi đầy” thì mới hiểu đúng tinh thần câu thơ. Phân tích nhịp thơ nên tập trung vào các dòng, đoạn thơ có cách ngắt nhịp lạ so với nhịp truyền thống của thể loại, hay nhịp điệu cơ bản của bài thơ. Ví dụ 1: “ Nửa chứng xuân / thoắt / gãy cành thiên hương ” (Truyền Kiều - Nguyễn Du) Câu thơ có cách ngắt nhịp khác biệt (3 / 1 / 4) với nhịp cơ bản của thơ lục bát ( 2 / 2 / 2 / 2). Chữ “thoắt” mang một nhịp - nhịp nhanh, nhằm gợi tả sự thay đổi nhanh chóng, đột ngột trong cuộc đời Đạm Tiên. Và nó là sự dự cảm cho tương lai đầy tai biến của nàng Kiều. Nhịp thơ nhanh, gợi tả tai biến ập đến bất ngờ làn thay đổi toàn bộ cuộc đời, số phận của trang quốc sắc thiên hương. Ví dụ 2: “Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống” (Tây Tiến - Quang Dũng) Câu thơ như bị bẻ đôi bởi nhịp thơ ở sau âm tiết thứ tư, tạo nên biểu tượng như một ngọn núi, nhằm mục đích gợi tả tính chất hiểm trở của địa hình vùng thượng nguồn sông Mã và những gian lao trên bước đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến. Ví dụ 3: “Nàng ơi đừng động/có nhạc trong giây Nhạc gây hoa mộng/nhạc ngát trời mây Nhạc lên cung hường/nhạc vô đào mộng Ôi nàng tiên nương/hớp nhạc đầy hương”.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> (Nhạc - Bích Khê) Không riêng gì khổ thơ, mà cả bài “Nhạc” đều được ngắt nhịp ở chữ thứ tư như vậy. Thơ tám chữ, thường chỉ ngắt nhịp ở chữ thứ ba, năm, sáu, rải rác mới có câu ngắt nhịp ở chữ thứ tư. Thế mà với Bích Khê, thi nhân đã “liều lĩnh” ngắt nhịp như thế, làm cho câu thơ, bài thơ như bị tách làm hai, tạo ra một lối thơ song phân độc đáo. Lối ngắt nhịp như vậy, khiến người đọc có cảm giác đây là bài thơ tứ tuyệt gieo vần gián cách từng đôi một. Nhưng giá trị của bài thơ không chỉ ở chỗ đó. “Có lẽ, sức mạnh của nhạc điệu tân kỳ, của ý tưởng mới mẻ đã cuốn phăng cảm xúc của người đọc, không kịp để cho anh ta đủ thì giờ để nghĩ đến thể tứ ngôn cũ” (Đỗ Lai Thuý). Theo Hàn Mặc Tử “Cách dừng hơi” và “hạ vần” ở chữ thứ tư làm cho câu thơ của Bích Khê nửa như riêng tây, nửa như hoà thuận, phù hợp với tâm hồn thi nhân đang tìm đến một sự kết hợp Đông - Tây, kim - cổ trên nền văn hoá nhân loại. Ví dụ 4: Thử lắng nghe nhạc điệu của đoạn thơ sau: “Tiếp ly cạn / cạn ly đầy / Năm con / một vợ / ngồi vòng xoay / Nhạc chim thanh tước / rót về đây / Đỗ / cành vàng lá lục / Nâng chén tình / ròng ca một khúc / Tiệc hoa hề / chén ngọc hề / Giang hồ / vút cánh / sau chung rượu” (Nam hành - Bích Khê) Cách ngắt nhịp trúc trắc này tạo ra một nhạc điệu khấp khểnh như vó ngựa của khúc Nam hành, gợi tả trạng thái ngà ngà chập chờn của người uống rượu. e. Phối thanh: Là hiện tượng luân phiên các thanh bằng - trắc trong một hay nhiều dòng thơ, tạo nên tính du dương trầm bổng, đồng thời góp phần tạo nên nội dung cảm xúc cho thơ. Tiếng Việt có 6 thanh, được chia ra bằng - trắc như sau: Thanh bằng (huyền, ngang), thanh trắc (sắc, nặng, hỏi, ngã). Theo mô hình thanh điệu chuẩn trong thơ tiếng Việt:, cứ hai thanh bằng đi liền với hai thanh trắc ... Song, nếu máy móc tuân theo mô hình này nhạc tính (tính du dương, trầm bổng của thơ) sẽ đơn điệu. Thực tế, trong quá trình sáng tác, nhà nghệ sĩ luôn sáng tạo, phá vỡ mô hình thanh điệu chuẩn, làm cho nhạc thơ phong phú đa dạng hơn. Từ đó, có những kiểu câu thơ đặc biệt về phối thanh như sau: * Câu thơ toàn thanh trắc, chủ yếu thanh trắc: Âm điệu của câu thơ kiểu này cao, vút, sắc lạnh. Kiểu câu thơ này ít thấy. Xưa, Lý Bạch có viết câu: “Hữu khách hữu khách tự mỹ tửu” (7 tiếng trắc). Tuy nhiên, đây chỉ là trò chơi chữ. Câu thơ lạ chứ chưa hay. Câu thơ của Thôi Hiệu dù chỉ có 6 tiếng trắc nhưng đặc sắc hơn: “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” (Hoàng Hạc lâu). Thanh trắc trong câu thơ trên thuộc loại trắc cao như vậy càng lúc càng.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> lên cao như cánh chim Hoàng Hạc càng lúc càng bay cao, bay mãi không về để lại đất này chơ vơ lầu Hoàng Hạc. * Câu thơ toàn bằng, chủ yếu thanh bằng: Âm điệu câu thơ kiểu này nhẹ nhàng, êm đềm, trầm lắng, phù hợp diễn tả những cảm xúc mơ hồ, nhẹ nhàng, thú vị, lắng dịu. Câu thơ kiểu này khá phổ biến trong thơ xưa và nay. Đỗ Phủ cũng từng viết: “Lê hoa mai hoa sâm si khai”. Ở Việt Nam, kiểu câu thơ này được chú ý để khai thác nhạc điệu từ phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu có câu: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Nhị hồ) Điều đã khiến hai câu thơ trên gây ấn tượng thính giác đối với độc giả chính là nhạc điệu lâng lâng, nhẹ nhàng, tạo cảm giác chơi vơi, ngưng đọng. Yếu tố làm nên nhạc điệu của câu thơ cơ bản là thanh điệu (thanh bằng) và sau đó là vần “ơi” và phụ âm cuối “n”, “ng”. Nhạc điệu ấy góp phần thể hiện tinh tế cảm xúc lâng lâng, phiêu bồng, tâm trạng mang mang của tác giả. Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết: “Bỗng dưng buồn bã không gian Mây giăng lũng thấp / giăng màn âm u” Thanh bằng chiếm tỷ lệ 10/14 âm tiết. Câu thơ trầm xuống, diễn tả nỗi buồn man mác, trĩu xuống, bàng bạc khắp không gian. Đến Bích Khê - một đỉnh núi lạ trong phong trào Thơ Mới - ông đã táo bạo hơn trong sáng tác, sáng tạo một thể thơ bình thanh. Bích Khê có rất nhiều bài thơ toàn thanh bằng hay chủ yếu là thanh bằng, như: Mộng cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị, ... và nhờ đó mà ông tạo cho mình một phong cách riêng. Ví dụ: “Nàng ơi ! Tay đêm đương giăng mềm Trăng đan qua cành muôn tay êm Mây nhung pha màu thu trên trời Sương lam phơi màu thu nơi nơi. Vàng sao nằm im trên trên hoa gầy Tương tư người xưa thôi qua đây Ôi nàng năm xưa quên lời thề Hoa vừa đưa hương gây đê mê Cây đàn yêu đương làm bằng thơ Dây đàn yêu đương run trong mơ Hồn về trên môi kêu: Em ơi Thuyền hồn không đi lên chơi vơi” Sức ám ảnh của bài thơ là thứ nhạc điệu huyền diệu chứ không phải hình ảnh, sắc màu, tạo vật. Âm nhạc của bài thơ có uy lực đáng kể. Nó thôi miên, dẫn dụ mê hoặc độc giả. Thu trong bài thơ buồn nhưng lắng , đau thương nhưng dịu nhẹ. Tất cả điều đó đều do nhạc điệu bài thơ tạo ra.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> Tiếp thu truyền thống , tinh hoa của thơ lãng mạn, thơ ca kháng chiến cũng có một số bài gây ấn tượng về nhạc điệu: “Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống” (Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm) Hai dòng thơ chỉ có một tiếng trắc, nhạc điệu trầm buồn sâu lắng phù hợp cho việc diễn tả tình cảm an ủi, vỗ về nỗi đau của tác giả. * Câu thơ trúc trắc : Nguyễn Du viết về chuyến xe đưa Kiều vào kiếp đoạn trường: “Đoạn trường thay lúc phân kỳ Vó câu khấp khểnh , bánh xe gập ghềnh” Luân phiên âm điệu ở dòng thư hai như sau: T B T T T B T B. Ngữ điệu lên cao và xuống thấp đột ngột có khả năng gợi hình ảnh con đường khúc khuỷu gập ghềnh. Những bước đầu tiên ấy đã dự lượng cuộc đời đầy truân chuyên , lưu lạc của Kiều trong kiếp phong trần . *Sự phối hợp của các kiểu câu thơ trên : Mỗi kiểu câu thơ trên có một nhạc điệu riêng, sắc thái biểu cảm riêng. Phối hợp chúng lại với nhau sẽ làm cho nhạc điệu phong phú và sắc thái biểu cảm cũng đa dạng. Đây là thực tế thường thấy trong thơ. Tản Đà viết: “Tài cao, phận thấp, chí khí uất Giang hồ mê chơi quên quê hương” (Thăm mả cũ bên đường) Dòng thứ nhất chủ yếu thanh trắc (5/7 âm tiết), cộng thêm các phụ âm cuối tắt (p, t), nhạc thơ sắc nhưng uất nghẹn, biểu đạt cái bất đắc chí của Tản Đà trong thời cuộc. Ngược lại, dòng thứ hai là toàn bằng, nhạc thơ êm xuôi như buông thõng phù hợp diễn tả cái thú “giang hồ”, “mê chơi” quên đời của tiên sinh nơi hạ giới. Hay, như Thâm Tâm có viết : “Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng ? Bóng chiều không thắm không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?” (Tống biệt hành) (BBBBBBB BTTTTBB TBBTBBT B B B B B T B) Câu một và câu bốn toàn bằng(hay chủ yếu thanh bằng), câu ba trúc trắc. Và theo Trần Đình Sử, thanh bằng là nhạc nền của bài thơ, góp phần gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng xốn xang. Tây Tiến của Quang Dũng là một bài thơ thành công về sự phối hợp giữa câu thơ bình thanh và câu thơ trúc trắc. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> Ngàn thước lên, cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” (T B T T T B T BTBBTTB BTBBBTT BBBBBBB) Ba câu đầu trúc trắc về mặt thanh điệu,dùng để gợi tả tính chất hiểm trở của vùng thượng nguồn sông Mã và những khó khăn trên bước đường hành quân của binh đoàn. Ngược lại, câu cuối toàn bằng, phù hợp cho việc dùng để tả cảm giác thi vị và những phút giây lãng mạn của người linh trước thiên nhiên rất huyền ảo, nên thơ. Sự phối hợp này có tính đặc trưng trong bài Tây Tiến. Cứ sau một loạt câu thơ trúc trắc về ngữ âm là một câu thơ toàn bằng hay chủ yếu là thanh bằng nhẹ nhàng mượt mà. Từ đó bài thơ thể hiện được hai nét đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc: Hùng vĩ - Thơ mộng, hai nét đặc trưng của lính Tây Tiến: Bi hùng - Lãng mạn. 3. Vần: a. Khái niệm : Là hiện tượng lặp lại khuôn vần trên một hay nhiều dòng thơ ( cấu tạo của vần gồm hai phần: Nguyên âm và phụ âm cuối). b.Chức năng: Gieo vần trước hết giúp cho thơ tăng cường khả năng lưu giữ và truyền đạt. Thứ đến, ở một số vần trong thơ tiếng Việt có biểu tượng âm thanh. Nghĩa là, mỗi khuôn vần có khả năng thể hiện một loại cảm xúc, tâm trạng, ... nào đó. c. Các kiểu gieo vần trong thơ tiếng Việt: *Vần trắc - vần bằng: “Cũng có lúc chơi vơi nơi dặm khách Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo Có khi từng gác cheo leo Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang” (Khóc Dương Khuê-Nguyễn Khuyến) Khách/ rách: gieo vần trắc; đèo / leo / chiều: gieo vần bằng *Gieo vần theo chiều dọc - chiều ngang: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” (Đây mùa thu tới - Xuân Diệu) Liễu/ đìu / hiu / chịu: gieo vần theo chiều ngang(trên cùng một dòng thơ) .Tang / hàng : Gieo vần theo chiều dọc(vần ở hai dòng thơ) *Gieo vần gián cách - liên hoàn: Ví dụ 1: “Hôm qua còn theo anh Đi trên đường quốc lộ Hôm nay đã chặt cành Đắp cho người dưới mộ” (Viếng bạn - Hoàng Lộc) Ví dụ 2 : “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
<span class='text_page_counter'>(34)</span> Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” (Tràng Giang - Huy Cận) *Gieo vần chính - vần thông: + Gieo vần chính : Là hiện tượng lặp lại nguyên khuôn vần. Ví dụ: “Ai đem phân chất một mùi hương Hay bản cầm ca tôi đã thương Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc Như thuyền ngư phủ lạc trong sương” (Xuân Diệu) + Gieo vần thông : Là hiện tượng lặp vần có nguyên âm và phụ âm cùng dòng. - Các dòng nguyên âm của tiếng Việt: Dòng khép Dòng mở Dòng tròn môi i a, ă o ê ơ,â u e ư ô iê uơ uô - Các dòng phụ âm cuối của tiếng Việt : Dòng tắt : t , c , ch ,p Dòng vang: m , n , ng , nh Ví dụ: "Có khi từng gác cheo leo Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân Có khi bàn soạn câu văn Biết bao đông bích điển phần trước sau” (Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến) Các âm tiết gieo vần : leo - chiều / xoang - ngon / xuân - văn - phần. Phân tích thơ về mặt gieo vần, cần phải nắm biểu tượng âm thanh của nguyên âm và phụ âm cuối. Xin nêu ra vài trường hợp để người đọc tham khảo : *Nguyên âm o, u, ô : Nếu xuất hiện ở cuối câu thơ sẽ làm cho nhạc điệu trầm buồn phù hợp cho việc diễn tả nỗi buồn, tang chế. Ví dụ 1: Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (Nguyễn Đình Chiểu) có 30 câu văn. Cuối mỗi câu đều xuất hiên một trong các nguyên âm o, u, ô. Ví dụ 2: “Chiều đông tàn lạnh tự trời cao Không lửa ấm hẳn hồn buồn lắm đó Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen” (Huy Cận) Cuối mỗi câu thơ xuất hiện nguyên âm “o” . Nhờ đó mà nó gợi lên cái chết chóc, thê lương của chiều đông..
<span class='text_page_counter'>(35)</span> Ví dụ3 : “Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rạo rực Hình ảnh của chinh phu Trong lòng người chinh phụ? Em không nghe rừng thu Lá thu rơi xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô?” (Tiếng thu - Lưu Trọng Lư) Bài thơ hiệp vần chân(các âm tiết cuối). Nguyên âm “u” cũng chính là vần cơ bản của bài thơ, gợi nên cảm giác trầm buồn, thổn thức không nguôi trong lòng tác giả khi thu về. *Nguyên âm a, ă, ơ, â : Biểu tượng âm thanh của các nguyên âm này là gợi nên cảm giác vui tươi bay bổng, sự phóng khoáng. Ví dụ : “Không có kính ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Không cần lửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ( Tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật) Nguyên âm “a” cũng là vần “a” có mặt ở vị trí kết thúc câu thơ thể hiện bản chất yêu đời và tính cách phóng khoáng của các chiến sĩ lái xe. *Nguyên âm i, e, ê : thường có chức năng biểu hiện những tình cảm trong sáng , nhí nhảnh, hồn nhiên. Ví dụ: “Chàng ngồi bên me em Me hỏi chuyện làm quen Thưa thầy đi chùa ạ Thuyền đông, giời ôi chen !” (Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp) Và nhiều khổ thơ khác trong bài Chùa Hương, Nguyễn Nhược Pháp đã sử dụng nhiều âm tiết có nguyên âm “e” để diễn tả vẻ đẹp hồn nhiên ngây thơ và tâm hồn trong sáng của cô bé. - Nguyên âm “e” đi với bán nguyên âm cuối “o” tạo ra vần “eo” có giá trị gợi ra những hình ảnh sự vật có kích thước bị thu hẹp lại và không vững chãi. Ví dụ: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyên câu bé tẻo teo” (Thu Điếu - Nguyễn Khuyến) hay “Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo Đường đi thiên thẹo quán cheo leo” (Hồ Xuân Hương) - Nguyên âm “e” đi với bán nguyên âm đầu ”o” tạo ra vần “oe” có giá trị gợi ra hình ảnh về sự vật có kích thước mở rộng ra. Ví dụ: “Năm gian nhà cỏ thấp le te.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm - Nguyễn Khuyến) hay “Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi” (Nguyễn Khuyến) * Phụ âm tắt (phụ âm không mũi) p, c, ch, t : Các câu thơ được tổ chức bằng những từ, vần có phụ âm cuối tắt thường có sắc thái biểu hiện cho những tình cảm khúc mắc , nghẹn ngào, trắc trở : Ví dụ1: “ Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?” (Nhớ rừng - Thế Lữ) Câu thơ có giọng tráng ca hào hùng nhưng những phụ âm tắt (chết, mặt, gắt, mật ) ấy lại làm nên các uất nghẹn, căm hờn của chúa tể sơn lâm khi bị giam cầm trong một thế giới chật chội , giả tạo. *Phụ âm vang (phụ âm mũi) m, n, ng, nh : Những âm tiết có phụ âm cuối vang thì khiến âm điệu câu thơ bay bổng ngân vang và thường có khả năng diễn tả tình cảm vui sướng , hạnh phúc dàn trải mênh mang. Ví dụ : “Em ơi Ba Lan mua tuyết tan Đường bạch dương đường trắng năng tràn Em đi nghe tiếng người xưa vọng Một giọng thơ ngâm một giọng đàn” (Em ơi Ba Lan - Tố Hữu) Khổ thơ sử dụng nhiều lần nguyên âm “a” và các phụ âm cuối vang khiến cho nhạc thơ vang động gợi nên một bức tranh tươi sáng và những tình cảm vui tươi , dàn trải Tóm lại, trong tiếng Việt có nhiều vần, nguyên âm, phụ âm có giá trị gợi hình gợi cảm. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng : Không phải tất cả các từ có những vần , nguyên âm, phụ âm như đã trình bày đều có khả năng gợi hình, gợi cảm. Bởi vì, ngoài mối quan hệ có lý do giữa vỏ âm thanh và ý nghĩa , ngôn ngữ còn có mối quan hệ võ đoán (không lý do) giữa âm và ý. Ở đây, ta chỉ đề cập đến các trường hợp nằm trong mối quan hệ thứ nhất mà thôi. Do vậy, nếu thuần tuý, phân tích ngôn ngữ thơ ở quan hệ võ đoán giữa âm thanh và ý nghĩa thì hiểu thơ một cách hời hợt. Ngược lại, nếu chỉ căn cứ vào mối quan hệ có lý do giữa âm thanh và ý nghĩa thì sẽ dẫn đến chỗ máy móc và có những kết luận hồ đồ. XI- Dạy học sinh cách viết biểu cảm tác phẩm thơ : 1Khái niệm :Văn biểu cảm là loại bài viết mà trong đó người làm bài thể hiện suy nghĩ cảm xúc của mình về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đây là bước khởi đầu đặt nền móng cho các thể loại phân tích và bình giảng . 2Phương pháp làm bài:.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> a- Viết mở bài :+ Tìm các dự liệu cần thiết như ( tên tác giả là ai ? tên tác phẩm là gì?Hoàn cảnh sáng tác như thế nào? Nội dung chính ra sao?) + Ví dụ: Đề:Cảm nghĩ của em về bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương ? Ta tìm dự liệu nhơ sau : Hồ Xuân Hương ,bánh trôi nước,chế độ phong kiến mục ruỗng thối nát chế độ nam quyền ngữ trị số phận người phụ nữ bị đày đoạ .Tác phẩm lên án chế độ nam quyền ca nghợi vẻ đẹp người phụ nữ . + Dùng ngôn ngữ lấp đầy văn bản : Hồ Xuân Hương là Bà chúa thơ nôm nổi tiếng của nước ta .Trong sự nghiệp sáng tác của mình Bà đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng ,nhưng ấn tượng sâu sắc hơn cả là bài thơ “Bánh trôi nước”. Được sáng tác vào những năm đầu thế kỷ 19 là thời kỳ chế độ phong kiến Việt Nam mục ruỗng và thối nát đời sống nhân dân vô cùng cực khổ , đặc biệt là số phận người phụ nữ bị đày đoạ .Cả bài thơ là tiếng nói đanh thép lên án chế độ nam quyền ca ngợi và bênh vực người phụ nữ . b- Viết thân bài : + Tìm ý: giúp h/s biết tìm ý doạn thơ mình định biểu cảm là gi ? + Vị trí ý mình định biểu cảm nằm ở đâu? + Đoạn thơ có từ ngữ hình ảnh nào đáng chú ý nhất?Tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gi? Tác dụng của nó ra sao?Em có suy nghĩ gì về các từ ngữ hình ảnh và các biện pháp nghệ thuật đó? + Ví dụ :Cảm nghĩ về hai câu thơ của Hồ Xuân Hương: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non - Ý1 đẹp của người phụ nữ. - Y2 số phận người phụ nữ. - Từ ngữ đáng chú ý:Trắng ,tròn,bảy nổi ba chìm. - Nghệ thuật :giọng thơ êm dịu,sử dụng thành ngữ. +Cách viết:Mở đầu bài thơ tác giả viết: Thân em vưà trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Hai tiếng “thân em” được cất lên sao mà nhẹ nhàng êm dịu đến thế .Phải chăng đây là những lời nói khiêm nhường của người phụ nữ việt nam khi nói về mình.Hai chữ “trắng, tròn”vừa miêu tả được màu sắc hình dáng của bánh trôi nước lai vừa nói lên được làn da trắng và thân hình kiều diễm của người con gái đang độ xuân xanh .Chỉ có hai từ mà nói lên được một lúc hai vấn đề thì chỉ có những cây bút bậc thầy về ngôn ngữ mới làm được như vậy . Ở câu thơ thứ hai từ tâm trạng tự hào kiêu hạnh giọng thơ bổng nhiên chùng lại trầm.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> lắng khi người phụ nữ nghĩ về số phận của mình. Thành ngữ “Bảy nổi ba chìm”nhà thơ sử dụng ở đây thật là độc đáo vừa giới thiệu cho người đọc biết được cách luộc bánh ,nhưng cũng nối lên đươc số phận long đong bạc mệnh của người phụ nữ dưới chế độ xưa . C - Viết kết bài:Người viết khái quát giá trị tác phẩm mà mình đã biểu cảm .Nêu suy nghĩ của bản thân . - Ví dụ :Kết bài của bài thơ “Bánh trôi nước” Năm tháng đã trôi qua ,nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ “bánh trôi nước”ta không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp kiều diễm của người phụ nữ.Càng ngưỡng mộ bao nhiêu thì ta lại càng căm ghét chế độ nam quyền bấy nhiêu . Mỗi chúng ta hãy quyết tâm đấu tranh để cho những bất công ngang trái ấy không bao giờ được quay trở lại .. XII- Cách dạy văn học sử: A- Tại sao phải dạy văn học sử? - Do sách giáo khoa hiện nay biên soạn theo quan điểm “tam thể nhất hợp” vì vậy không theo từng giai đoạn văn học .vì vậykhi dạy văn giáo viên thường băm nát tác phẩm để tìm ra cho được cái tích hợp ở trong đó mà quên đi cải giá trị tư tưởng của tác phẩm.Cho nên khi làm bài học sinh rất lúng túng và thường mắc phải những lỗi sau : +Thường theo văn mẫu rồi ghi lại một cách nguyên xi hoăc cắt xén mà ta hay gọi là chiết ghép. + phân tích nhưng thờ ơ với hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. + Lôi phẩm về hiện tại để phân tích ,dễ dẫn đến hiện đại hoá tác phẩm, hiện đại hoá nhân vật.Tôi đã dự một cô giáo trẻ khi dạy bài “Lợn cưới, áo mới”cô có giảng rằng: Đây là một anh chàng hay khoe, khoe đến cả những cái vụn vặt.Cái áo thì đáng gì mà phải khoe.Tôi cảm thấy buồn nhưng tôi cũng chẳng nói ra .Không biết cô có hiểu câu ca dao: Vợ chồng được cái quần sồi Chồng đi chồng mặc vợ ngồi vợ trông. Hay: Mua cho một vạt khố sồi Bề ngang chiếc đũa bề dài nửa phân Đi đâu cũng phải cởi trần Trông thấy chúng bạn cực thân thay là -Vậy nên phải dạy văn học sử .Dạy để học sinh nắm được hoàn cảnh xã hội mà tác phẩm đó ra đời .Thấy được tác phẩm văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội đương thời.Thấy được giá trị tư tưởng của tác phẩm mà tác giả gửi gắm vào trong đó . B- Các giai đoan phát triển văn học viết Việt Nam :.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> 1- Giai đoạn từ thế kỷ X-> thế kỷ XV: Học sinh phải nắm được các đặc điểm về lịch sử và xã hội sau đây : Đây là thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam .Dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong kiến ,dân tộc ta đoàn kết trên dưới một lòng đập tan các cuộc xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc viết nên những trang sử vàng chói lọi . Những trận đánh đẫ đi vào lịch sử dân tộc như: Bạch Đằng, hàm tử ,Chi Lăng ,Xương Giang… Vì vậy văn học giai đoạn nàytập trung đề cao chủ nghĩa yêu nước đó là: -Khẳng định chủ quyền của đất nước qua bài “Sông núi nước Nam”của Lí Thường Kiệt: Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành đã định ở sách trời Cớ sao quân giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời Hay: Như nước đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác (Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi) -Tự hào về truyền thống đấu tranh chống xâm lược cha ông : Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán Đường mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu từng luc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có. (Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi) -Tố cáo tội ác của giặc : Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh kết oán trải hai mươi năm Bãi nhân nghĩa nát cả đất trời Nặng thuế khoá sạch không đầm núi (Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi) - Căm thù giặc sẵn sàng xả thân vì đất nước :như “Hịch tướng sĩ” -Trần Quốc Tuấn. 2- Giai đoạn từ thế kỷ 16 -> thế kỷ 17 : Học sinh phải nắm hoàn cảnh lịch sử và xã hội sau : Đây là giai đoạn xã hội phong kiến suy tàn ,các thế lực phong kiến gây bè kéo cánh chém giết lẫn nhau tạo nên các cuộc chiến tranh phi nghĩa như: Chiến tranh Trịnh -Mạc ,chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng trăm năm trời khiến cho xương chất thành núi máu chảy thành sông. - Về văn học giai đoạn này chủ yếu đề cao tư tưởng “Nhân giả vô địch”, tố cáo chiến tranh bênh vực cho người dân vô.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> tội . Điển hình cho các tác giả và tác phẩm giai đoạn này gồm có :Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Hữu cảm”, hay Nguyễn Dữ với “ Chuyện người con gái Nam Xương”…v.v… 3- Giai đoạn thế kỷ 18 -> 1858 : Chế độ phong kiến đã đi vào con đường mục ruỗng thối nát. Vua quan lo ăn chơi xa hoa truỹ lạc đời sống nhân dân cực khổ trăm bề .Bên cạnh đó lễ giáo phong kiến hà khắc đã tước đoạt quyền sống của người phụ nữ, biến họ trở thành những món hàng, những thứ đồ chơi không hơn không kém . Đồng tiền đã ngự trị lên nhân phẩm và lương tâm con người,khiến cả xã hội phải chạy theo tiền sống ngược với lương tâm. Văn học giai đoạn này chủ yếu tập trung đề cao chủ nghĩa nhân đạo gồm có bốn vấn đề sau : - Lên án các thế lực chà đạp lên quyền sống con người điển hình là nhân vật Thuý Kiều . Một người con gái tài sắc vẹn toàn thế nhưng bị cái xã hội bất công ấy xô đẩy đưa đến cho nàng một cuộc đời đầy giông bão . Vào giai đoan này thế lực đồng tiền đã len lỏi khắp mọi ngõ ngách cuộc sống . Biến những người có học như Mã Giám Sinh thành những kẻ lưu manh với những hành động táng tận lương tâm .Biến những người cầm cân nảy mực của xã hội thành những kẻ “Đầu trâu mặt ngựa”..v.v…Đúng như nhà thơ Nguyễn Du đã viết : Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. Hay: Trong tay đã sẵn đồng tiền Dậu rằng biến trắng đổi đen khó gì. - Ca ngợi vẻ đẹp ,phẩm chất con người:Nổi bật đó là vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều .Có lẽ trong nền văn học nước nhà cặp mỹ nhân Thuý Kiều ,Thuý Vân đã được miêu tả đạt đến mức hoàn mỹ . Nguyễn Du đã giành những ngôn từ hay nhất để xây dựng nhân vật của mình .Phải nói rằng cả hai chị em Thuý Kiều hình như tất cả sắc nước hương trời đều hội tụ vào đây . Hãy nghe ông trân trọng giơi thiệu: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Lan thu thuỷ ,nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành….
<span class='text_page_counter'>(41)</span> - Không chỉ có ca ngợi vẻ đẹp mà Nguyễn Du còn ca ngợi phẩm chất tốt đẹp con người đó là tình thương cha mẹ, sự thuỷ chung với người yêu: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Chân trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. - Một giá trị nhân đao đáng chú ý văn học giai đoạn này , đó là thông cảm, thương cảm cho số phận con người . Ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du hay “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu ta đêu thấy rất rõ .Hãy lắng nghe nước măt của Tố Như đang chảy trên từng trang viết : Rường cao rút ngược giây oan Dậu là đá cũng nát gan lọ người Mặt trông đau đớn rụng rời Oan này còn một kêu trời nhưng xa. - một giá trị nhân đạo nữa mà văn học giai đoạn này đề cập đó là nói lên niềm mơ ước một cuộc sống tốt đẹp và công bằng .Nhân vật đại diện cho công lý đó là Từ Hải, Lục Vân Tiên những con người dám “Chọc trời khuấy nước” đạp bằng sự bất công để tìm công lý . 3- Giai đoạn 1858 -> 1930: -Hoàn cảnh lịch sử : Thực dân pháp xâm lược nước ta triều đình nhà Nguyễn đầu hàng .Hưởng ứng chiếu cân vương của Tôn Thất Thuyết phong trào chống pháp nổ ra khắp nơi ,nhưng kết quả đều thất bại.Pháp lần lượt bình định nước ta và tiến hành khai thác thuộc địa .Pháp mở một số trường học , văn hoá phương tây được du nhập vào nước ta . - Văn học giai đoạn này chủ yếu tập trung tố cáo tội ác của giặc pháp ,kêu gọi nhân dân đấu tranh,ca ngợi những tấm gương hy sinh vì đất nước . Tác giả tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu với các bài “chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ cân Giuộc”.Nhân vật trong tác phẩm là những người nông dân bình dị , vì yêu nước căm thù giặc mà đứng lên chống pháp: Chẳng phải là quân cơ quan vệ Cũng chẳng phải là lính diễn binh Chẳng qua là dân ấp dân lân Mến nghĩa làm quân chiêu mộ - Sau khi bình định xong nước ta để bình định bản xứ pháp đã mở trường đào tao một số trí thức tây học. Dưới tac động của tầng lớp trí thức này , ở nước ta đã xuất hiện một phong trào “tây hoá”, thế là nho học đã nhường chỗ cho tây học. Hãy nghe Nguyễn Bính nói về sự thay đổi nhanh chóng : Hôm qua em đi tỉnh về.
<span class='text_page_counter'>(42)</span> Đợi em ở mãi con đê đầu làng Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi Nào đâu cái yếm vải sồi Cái dây lưng đụi nhuộm hồi sang xuân - Vì vậy khi dạy bai thơ “Ông Đồ”ta phải hiểu được tâm trạng tâm trạng của tác giả. Đó là tâm trạng nuối tiếc cho một thời vàng son của nho học và tâm trạng chua xót trước sự lạc lỏng của cai chữ nho trong xã hội đang ồ ạt bị tây hoá .Tâm trạng đố cũng được Tú Xương phản áng qua mỗi trang viết của ông : Nào có ra gì cái chữ nho Ông nghè ông cống cũng nằm co Phải nói rằng ở giai đoạn này mọi vấn đề thi cử đều đươc định giá bằng tiền. Vì vậy các tri thức nho học họ chán chường trước cái xã hội ấy .Chúng ta sẽ hiểu hơn qua bài thơ của Nguyễn Khuyến: Thằng bán tơ kia giở mối ra Làm cho bận đến cụ viên già Có tiền việc ấy mà xong nhỉ Đời trước làm quan cũng thế a ! 4 – Giai đoạn 1930-> 1945: Đây là giai đoạn đảng cọng sản ra đời lãnh đạo nhân dân đấu tranh .Tạo nên các cao trào cách mạng như Xô viết Nghệ tĩnh 1930-1931, phong trào mặt trận bình dân 1936-1939. Vì vậy văn học giai đoạn này bị phân hoá thành ba dòng văn hoc : + Dòng văn học lãng mạn : Đây là dòng văn học có vai trò cải tổ nền văn học nước ta .Nó phá bỏ phương pháp sáng tác cũng như đề tài sáng tác cũ tạo nên một bước nhảy vọt cho thơ văn việt Nam.Nó để lại nhiều tác phẩm sông mãi với thời gian. Đây là thời kỳ xuất hiện nhiều cây bút tài hoa như: Nhất Linh ,Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ, Nguyễn Bính ,Xuân Diệu …v.v… + Dòng văn học hiện thực: -.
<span class='text_page_counter'>(43)</span>