Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Toàn cảnh về bán phá giá (Tiếp theo) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.13 KB, 9 trang )

Toàn cảnh về bán phá giá
(Tiếp theo)

Đây là loạt bài viết về chủ đề bán phá giá, được tổng hợp và biên soạn từ
www.wto.org, www.unctad.org, www.intracen.org, www.doc.gov.us,
www.uncitral.org, các Hiệp định thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO và một
số tài liệu báo chí nước ngoài khác, do tác giả Trần Phương Minh, thạc
sĩ luật, viết
riêng cho
Business World Portal.
Tình hình chống bán phá giá trên thế giới và các luật liên quan
Mặc dù sẽ bị xử phạt theo thông lệ quốc tế, bán phá giá vẫn là yếu tố thường
gặp trong giao thương quốc tế và gây thiệt hại cho các ngành sản xuất. Để bảo vệ các
doanh nghiệp, mỗi quốc gia đều cố gắng đề ra những biện pháp chống bán phá giá
(anti-dumping) nhất định.
Các biện pháp chống bán phá giá nhằm mục đích tái lập trật tự trong cạnh tranh
theo đúng tinh thần tự do thương mại, đồng thời cũng là công cụ bảo vệ ngành sản
xuất nội địa đối trước sự xâm chiếm của hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, cũng có người
cho rằng việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá để cản trở hàng hoá nhập khẩu
là không hợp lý. Thật ra, các biện pháp chống bán phá giá còn đóng vai trò một loại
“van an toàn” cho chính sách tự do kinh doanh: càng mở rộng cửa cho hàng hoá bên
ngoài vào thì càng cần phải giữ chắc tay nắm để có thể đóng cửa ngay lại được khi cần
thiết, càng chủ trương hội nhập vào khuynh hướng toàn cầu hoá thì càng phải có
những biện pháp phòng thủ để trấn an các nhà sản xuất nội địa và tạo được sự ủng hộ
của doanh nghiệp trong nước. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà các nước và khu vực
công nghiệp phát triển trên thế giới, như Mỹ, Liên minh châu Âu, Úc và Canada, một
mặt vẫn khẳng định ủng hộ tự do mậu dịch, mặt khác lại là những quốc gia dùng đến
các biện pháp chống bán giá nhiều nhất.
Theo báo cáo mới nhất của Ban thư ký WTO, chỉ tính riêng nửa đầu năm 2005
đã có trên 20 nước thành viên của tổ chức này tiến hành 62 vụ kiện chống bán phá giá,
với sản phẩm xuất khẩu đến từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số vụ chống bán phá giá


không tăng, nhưng xu hướng các nước giàu áp dụng rào cản đối với hàng hoá nhập
khẩu đến từ các nước nghèo lại tăng mạnh. Nếu năm 2003 chỉ có 7 vụ kiện bán phá giá
do các nước phát triển khởi xướng, thì năm nay con số đó đã lên trên 20. Liên minh
châu Âu, Ấn Độ và Mỹ đứng đầu danh sách các nước áp dụng biện pháp chống bán
phá giá, còn Trung Quốc luôn đứng đầu danh sách các nước có hàng bị kiện bán phá
giá, tiếp theo là Hàn Quốc, Malaysia, Nga và Thái Lan. Các vụ kiện bán phá giá tập
trung chủ yếu vào ngành hóa chất, tiếp đến là các nguyên vật liệu cơ bản như sắt, thép,
nhôm và nhựa.
Hiện nay, nhiều thành viên của WTO như Trung Quốc, Ấn Độ và Hồng Kông
đã lên tiếng bày tỏ mối lo ngại rằng Liên minh Châu Âu có thể sử dụng nhiều hơn các
biện pháp chống phá giá đối với hàng dệt may nhập khẩu, khi hệ thống hạn ngạch dệt
may chấm dứt vào đầu năm 2005. Từ trước đến nay, EU là khu vực nhập khẩu hàng
dệt may lớn nhất thế giới và cũng là khu vực xuất khẩu sản phẩm dệt lớn nhất thế giới,
đồng thời đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu sản phẩm may mặc. Theo WTO, kim
ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU năm 2002 lên tới 71,6 tỷ euro, tức là khoảng
91 tỷ USD, còn kim ngạch xuất khẩu đạt được 43,8 tỷ euro, tức là vào khoảng 55,7 tỷ
USD. Đại sứ Trung Quốc tại WTO đã phát biểu: EU luôn đi đầu trong việc áp dụng
các biện pháp thương mại, đặc biệt chống phá giá.
Còn đại diện thương mại Mỹ tại WTO cho biết, luật chống bán phá giá là một
quy định cố hữu trong chính sách thương mại của Mỹ và hoàn toàn nhất quán với các
quy định của WTO. Trong số 351 phán quyết có hiệu lực về chống phá giá, một nửa
trong số đó được Mỹ áp dụng với các đối tác thương mại châu Á, 8- với hàng hóa từ
Thái Lan, 7- với các sản phẩm từ Indonesia, 18- với Đài Loan, 29- đối với Hàn Quốc,
33- với Nhật và 57- với Trung Quốc.
Các doanh nghiệp tại một số quốc gia đang phát triển đã có rất nhiều tiến bộ
trong việc tự bảo vệ mình trước các đối thủ cạnh tranh dày dạn kinh nghiệm, thậm chí
dành lợi thế trong các vụ kiện chống bán phá giá. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp
được áp mức thuế bằng 0% trong các vụ kiện chống bán phá giá đã vội nghĩ rằng mình
thắng cuộc, nhưng thực tế không phải như vậy. Được hưởng thuế suất 0% chưa hẳn sẽ
vĩnh viễn được xem là không bán phá giá, vì mức thuế này chỉ được áp dụng tạm thời

trong một thời hạn nhất định và sẽ được xem xét hàng năm sau cuộc điều tra ban đầu.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải hợp tác tham gia điều tra và chuẩn bị trả lời
thật tốt các câu hỏi để được hưởng mức thuế thấp nhất. Đây mới là mục tiêu chủ yếu,
bởi vì việc chứng minh không bán phá giá để mong có một chiến thắng tuyệt đối trong
những vụ kiện chống phá giá ở nước ngoài là điều rất khó xảy ra.
Pháp luật quốc tế về chống bán giá
Các quy định hiện hành của WTO về phá giá và chống bán phá giá có thể được
nhìn nhận qua các vấn đề như: hiểu thể nào về hành vi bán phá giá, các biện pháp
chống bán phá giá nào có thể được áp dụng, thủ tục áp dụng các biện pháp này ra sao.
Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên Hiệp hội các quốc gia (League of
Nations) nghiên cứu ngay từ năm 1922. Đến năm 1947, với sự ra đời của tổ chức
GATT (General Agreement of Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế quan và
thương mại), các biện pháp chống bán giá chính thức được đặt dưới sự chi phối của
pháp luật quốc tế. Lúc ấy, đề tài này chưa được chú ý nhiều mà chỉ về sau, khi thương
mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh trở nên ráo riết hơn, và các nước thành
viên của GATT cũng ngày càng đông đảo hơn, thì chống bán phá giá mới trở thành
một mối quan tâm thật sự. Năm 1967, một số quy định về chống bán phá giá tại GATT
được chuẩn hoá trong Hiệp định về thi hành điều VI của GATT (Agreement on the
Implementation of Article VI), thường được gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá.
Hiệp định này không chỉ quy định về chống phá giá, mà còn qui định các biện pháp
chống tài trợ đối với hàng nhập khẩu đã được tài trợ tại nơi sản xuất. Thời gian sau đó,
Hiệp định về chống bán giá được bổ sung thêm nhiều nội dung quan trọng.
Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định chống
bán phá giá có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO. Các quy
định trong Hiệp định là cơ sở pháp lý giúp các nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của
các ngành sản xuất trong nước khi xảy ra hiện tượng bán phá giá. Năm 1995, WTO đã
thành lập Uỷ ban về chống bán phá giá để giám sát việc điều tra và áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với các nước thành viên. Sau khi phát hiện ra hàng hoá bị bán
phá giá có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, các ngành đó đề nghị những
cơ quan hữu trách thực hiện việc điều tra và đưa ra kết luận về việc có thực hiện hay

không thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước.
Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định các biện pháp chống bán phá
giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng được 4 điều
kiện sau:
- Sản phẩm đang bán phá giá: Sản phẩm của nước xuất khẩu đang được bán ở
thị trường của nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn giá bán thông thường của sản
phẩm đó ở trên thị trường nước xuất khẩu.
- Có sự thiệt hại về vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe doạ gây
ra đối với các doanh nghiệp nội địa đang sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm
bán phá giá, hoặc gây ra sự trì trệ đối với quá trình thành lập của một ngành công
nghiệp trong nước.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại vật chất (hoặc
đe doạ gây ra thiệt hại vật chất) do chính hành động bán phá giá đó gây ra. Cơ quan
điều tra không được áp đặt cho hàng nhập khẩu những gì do các yếu tố khác gây ra.
- Tác động của bán phá giá phải có tính bao trùm, ảnh hưởng tới cộng đồng
rộng lớn.
Thuế chống bán phá giá
Thuế chống phá giá được ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20, trước hết tại
Canada (1904), sau đó đến New Zealand (1905), Australia (1906), Mỹ (1914). Thuế
chống bán phá giá là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu, khi một doanh
nghiệp sản xuất bị nhận định là đã bán phá giá. Về bản chất, thuế chống bán phá giá là
khoản thuế bổ sung đánh vào hàng nhập khẩu, nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa
việc bán phá giá đối với sản phẩm đó (điều VI.2 của Hiệp định GATT). Mục tiêu
chính của thuế chống bán phá giá là nhằm vô hiệu hóa việc bán phá giá, bù đắp những
tổn thất do bán phá giá và cạnh tranh không lành mạnh gây ra cho các doanh nghiệp
của nước nhập khẩu hàng bán phá giá.

Luật chống bán phá giá của Mỹ
Mỹ là quốc gia vô địch về số lần áp dụng các biện pháp chống bán phá giá cũng
như số lượng các biện pháp chống bán phá giá được sử dụng. Theo thống kê của

WTO, trong vòng 20 năm kể từ năm 1980 đến năm 2000, trên thế giới có khoảng 1253
biện pháp chống bán phá giá khác nhau được xây dựng và áp dụng, trong đó riêng Mỹ
đã chiếm đến 304 biện pháp, tương đương 30%.
Các quy định pháp luật của Mỹ về chống bán phá giá rất phức tạp và đa dạng.
Những quy định đầu tiên nằm trong Luật doanh thu năm 1916 (Revenue Act). Trong
bộ luật này, các nhà làm luật ghi rõ: “Điều kiện để một hành vi được coi là bán phá giá
nếu nó nằm trong mưu đồ huỷ hoại hay gây thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ,
hay để ngăn chặn sự ra đời của ngành sản xuất ấy”. Đến năm 1916, Luật chống bán
phá đầu tiên của Mỹ ra đời. Nhưng do một số hạn chế nên đến năm 1921, nước Mỹ

×