Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 54 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ THANH XUÂN

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015
TỪ GĨC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS HỒ THẾ HÀ

Huế, 2020


Cơng trình đƣợc hồn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC - ĐẠI HỌC HUẾ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS HỒ THẾ HÀ

Phản biện 1: .......................................................................................
.............................................................................................................
Phản biện 2: .......................................................................................
.............................................................................................................
Phản biện 3: .......................................................................................
.............................................................................................................



Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế
họp tại………………………………………………………………....
Vào hồi:….giờ, ngày…tháng...năm 202.....
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế
- Trung tâm Thông tin tư liệu Đại học Huế


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào đấu tranh nữ quyền đã xuất hiện từ lâu trong đời sống
xã hội và trong văn học. Cuộc đấu tranh giành lại vị thế đã mất để tạo
dựng lại sự bình đẳng và vị thế mới của nữ giới, lần đầu được các nhà nữ
quyền luận đúc kết lại thành lý thuyết nữ quyền và cuối cùng người ta
gọi là nữ quyền luận hay chủ nghĩa nữ quyền (feminism). Phong trào
này xuất phát từ ý thức về bản thân của giới nữ, được manh nha vào thời
kỳ Khai sáng và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX đến nay. Vào
năm 1949, nữ văn sĩ Pháp Simone de Beauvoir cho xuất bản Giới thứ
hai (The Second Sex). Đây là công trình có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa nữ quyền trong đời sống
xã hội hiện đại nói chung và trong văn học nói riêng.
Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ
quyền đã được nhiều người chọn làm đề tài nghiên cứu của mình ở
từng tác giả, tác phẩm, nhưng để vận dụng phê bình văn học nữ
quyền trong truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam thì vẫn cịn ít và chưa
chưa có những đề tài tính chun sâu. Để hồn thành luận án, chúng
tơi chú trọng phân tích các tác phẩm về nữ quyền dựa trên nền tảng lý
thuyết phê bình văn học nữ quyền của phương Tây khi áp dụng vào
truyện ngắn nữ Việt Nam để tìm hiểu những đặc thù riêng về tâm lý,

văn hóa dân tộc thơng qua hình tượng và diễn ngơn tác phẩm. Đặc
biệt, chúng tôi nhấn mạnh mốc thời gian 2000 – 2015 như là một
điểm nhấn trong luận án, bởi mốc 15 năm đầu thế kỷ, truyện ngắn có
nhiều thành tựu nổi bật. Truyện ngắn nữ góp phần thúc đẩy nền văn
học Việt Nam trong quá trình “đổi mới”, trong đó, có sự đổi mới về
hình tượng nhân vật nữ từ góc nhìn hiện đại, đương đại và từ góc
nhìn phê bình văn học nữ quyền. Chính vì vậy, chúng tôi chọn
Truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học
nữ quyền làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
1


2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tác phẩm truyện
ngắn nữ giai đoạn 2000 - 2015 thể hiện nhu cầu và sự tự nhận thức về
giới và nữ quyền sâu sắc, đa dạng với vẻ đẹp và lối viết nữ mang bản
sắc riêng. Cụ thể là những tác phẩm tiêu biểu của các tác giả như: Lê
Minh Khuê, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy
Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu, Mai Thy, Lê Thị Hồi
Nam, Ngân Hoa, Quế Hương, Đỗ Bích Thúy, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi
Như Lan, Nguyễn Thị Anh Thư...
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện Luận án, chúng tơi tập trung nghiên cứu, phân tích
những bình diện nổi bật thuộc nội dung và hình thức truyện ngắn của các
nhà văn nữ Việt Nam tiêu biểu giai đoạn 2000 - 2015 để chỉ ra những
đặc điểm nổi bật mang yếu tố phái tính và âm hưởng nữ quyền ở từng
tác phẩm. Để có cái nhìn liền mạch và tiếp nối, chúng tơi có mở rộng so
sánh trong chừng mực với các truyện ngắn nữ Việt Nam trước năm 2000
và sau năm 2015 để thấy sự cách tân và vị thế của truyện ngắn nữ trong

tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Vì điều kiện giới hạn về tư
liệu, nên những truyện ngắn nữ Việt Nam hải ngoại giai đoạn này không
được chúng tôi chọn để nghiên cứu trong luận án.
3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Hướng tiếp cận
Hướng tiếp cận chính mà luận án là vận dụng lý thuyết phê bình
văn học nữ quyền soi rọi vào truyện ngắn nữ Việt Nam tiêu biểu giai
đoạn 1986 – 2015 để tìm ra giá trị nhân văn và giá trị thẩm mỹ ẩn chứa
bên sâu ngôn từ, hình tượng để tạo thành tư tưởng của tác phẩm.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: đây là phương pháp có tính
xun suốt trong tồn bộ luận án với việc phân tích và so sánh các tác
2


phẩm với nhau về cả nội dung và hình thức thể hiện để thấy rõ tinh
thần và âm hưởng nữ quyền trong ý thức nghệ thuật của từng tác giả
và tác phẩm tiêu biểu.
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: đây là phương pháp đặc biệt
có ý nghĩa trong việc mơ hình hóa và hệ thống hóa các quan điểm về nữ
quyền trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ trung đại cho đến hiện đại.
- Phương pháp loại hình học: đây là phương pháp cơ bản để
xác định được đặc trưng của lối viết nữ, cá tính sáng tạo của một số
cây bút nữ tiêu biểu trong truyện ngắn về cả mặt nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
- Ngoài ra, chúng tơi cịn vận dụng lý thuyết Thi pháp học làm
phương pháp hỗ trợ để nghiên cứu các yếu tố nổi trội của nội dung và
hình thức, hai bình diện tạo nên chỉnh thể tự trị của truyện ngắn nữ
Việt Nam giai đoạn này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm bản chất về nội dung và hình thức tác
phẩm phản ánh ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền mạnh mẽ
nhất mà các nhà văn nữ đã ý thức thể hiện qua từng quan hệ và bước
ngoặt chuyển mình của đời sống xã hội.
- Nghiên cứu đặc điểm của lối viết nữ khi thể hiện các chủ đề giới
và nội dung giới trong nhiều mối quan hệ bản chất và tương tác để làm
thành đặc sắc và thi pháp riêng của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Kế thừa nền tảng lý thuyết nữ quyền/ phê bình văn học nữ
quyền, luận án đi sâu nghiên cứu về lối viết nữ thông qua đặc trưng
thể loại. Từ đó, xác lập vị thế, đóng góp nổi bật của từng nhà văn nữ
trong việc thể hiện ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền hiện đại
của truyện ngắn nữ giai đoạn 2000 – 2015.
3


- Bên cạnh đó, luận án cịn so sánh, đối chiếu, phân tích âm
hưởng nữ quyền, làm rõ sự khác biệt cũng như những đóng góp của
truyện ngắn nữ đương đại 2000 – 2015 so với truyện ngắn nữ giai
đoạn trước năm 2000 và sau năm 2015.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Hệ thống và lý giải một cách chuyên sâu những vấn đề về nữ
quyền trong văn hóa và văn học, đặc biệt là trong truyện ngắn nữ
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. Từ đó khẳng định ý thức phái tính
và âm hưởng nữ quyền trong văn học đương đại là một bước tiến/ hệ
quả tất yếu của xu hướng bình đẳng hóa, dân chủ hóa trong xã hội và
trong văn học mà các nhà văn nữ đã ý thức sâu sắc và thể hiện rất có
hiệu quả trong sáng tạo.

- Đề tài nghiên cứu thực tiễn sáng tác truyện ngắn của các nhà
văn nữ, đặc biệt là trong giai đoạn từ 2000 – 2015 để thấy được sự
cách tân trong việc thể hiện nội dung và hình thức tác phẩm. Qua đó,
chỉ ra những đóng góp nổi bật của các nhà văn nữ Việt Nam trong
việc phát huy và phát triển dòng văn học nữ quyền đã hiện diện từ
trước đến nay.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận án được chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Lý thuyết nữ quyền, Phê bình văn học nữ quyền và
ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam
Chương 3: Các kiểu nhân vật nữ mang đặc trưng giới trong
truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 – 2015 từ góc nhìn phê bình văn học
nữ quyền
Chương 4: Phương thức nghệ thuật của truyện ngắn nữ Việt
Nam 2000 – 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền
1.1.1 Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới
Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền có nghĩa là nghiên cứu về sự
đấu tranh để đạt được quyền bình đẳng giới trên tất cả mọi phương
diện của đời sống xã hội và tinh thần. Ở phương Tây, ngoài những
tác phẩm viết về nữ quyền nổi tiếng như Giới thứ hai (1949) của
Simone de Beauvoir, Một căn phòng riêng của Virginia Woolf
(1929), Sự biện minh cho các quyền của phụ nữ (A Vindication of
the Right of Women, 1792) của Marie Wollstonerast, Cuốn sổ tay

vàng (The Golden Notebook, 1979) của Doris Lesing, thì cịn phải kể
đến học thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud và Phân tâm học
cấu trúc của Jacques Lacan. Freud với “mặc cảm Oedip” đã phân
định ra đặc trưng trong tính cách nam và nữ: nam giới chủ động và
chiếm hữu còn nữ giới thì bị động, lệ thuộc.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu nữ quyền cũng diễn ra khá sớm, nhất
là từ những năm đầu thế kỷ XX.
Có thể thấy rằng, với những cơng trình nghiên cứu có chất
lượng và số lượng về lý thuyết giới/ lý thuyết nữ quyền, các tác giả
đã đưa bạn đọc đến một hướng tiếp cận về phê bình nữ quyền đầy đa
dạng, hiệu quả và sáng tạo. Đây chính là một hướng đi mới của
nghiên cứu và tiếp nhận văn học: phê bình văn học nữ quyền.
Một số luận văn, luận án văn học nghiên cứu về nữ quyền: Vấn
đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương
đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu (Nguyễn Thị Thanh
Xuân, Luận án Tiến sĩ Văn học, Hà Nội, 2013); Truyện ngắn các nhà
5


văn nữ đương đại, tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại (Phạm Thị
Thanh Phương, Luận án Tiến sĩ Văn học, Hà Nội, 2005); Ý thức nữ
quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (qua một số
trường hợp tiêu biểu) của tác giả Nguyễn Thị Hưởng, Luận án Tiến sĩ
Văn học, 2016; Nhân vật nữ trong tác phẩm của Ernest Hemingway
từ góc độ nữ quyền luận của tác giả Lê Lâm, Luận án Tiến sĩ Ngữ
Văn, 2015; Âm hưởng nữ quyền trong truyện ngắn các nhà văn nữ
thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Oanh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn,
Vinh, 2007); Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Võ Thị Xuân Hà
(Dương Mai Liên, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đà Nẵng, 2004)...

1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn
phê bình văn học nữ quyền
Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học
nữ quyền hiện nay đang trở thành một hướng đi đầy mới lạ, hấp dẫn.
Bởi lẽ, học thuyết nữ quyền không chỉ ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều
bộ môn, nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống mà nó cịn chi phối
đến đời sống của phê bình văn học, đến mỗi cá nhân thưởng thức văn
học. Văn học Việt Nam đã có sự cách tân và đổi mới toàn diện từ sau
năm 1986. Sự tiếp nhận và phát triển học thuyết nữ quyền dựa trên nền
tảng lý thuyết có sẵn đã giúp cho các tác giả nữ đã có cơ hội vận dụng
linh hoạt vào trong đời sống sáng tạo và phê bình. Họ là những người
tiên phong đi đầu cho phong trào nữ quyền trong văn học và đã tạo
được những tiếng vang mạnh mẽ với những vấn đề được đề cập rất gần
gũi, bình dị nhưng lại mang những giá trị nhân văn sâu sắc. Những tác
phẩm tiêu biểu có thể kể đến: Y Ban với I’am đàn bà, Đỗ Hoàng Diệu
với Bóng đè, Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Thị
Thu Huệ với Minu xinh đẹp, Võ Thị Hảo với Bàn tay lạnh... và nhiều
tác phẩm có tiếng vang của nhiều tác giả thuộc nhiều thế hệ khác
nhau… Tất cả đã làm nên những sắc thái đầy thiên tính nữ trong văn
chương, tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật đặc sắc, mới lạ.
6


1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2000
Về tình hình nghiên cứu, trong giai đoạn 1945 - 1975, các nhà
nghiên cứu và phê bình cho rằng văn chương đơ thị miền Nam có những
bước khởi sắc, đặc biệt là văn xi mang sắc thái nữ tính, hiện đại của
các nhà văn nữ. Tiêu biểu là tác giả Nguyễn Văn Sâm với những cơng
trình nghiên cứu như Văn chương tranh đấu miền Nam (1969) và Văn
chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950 (1972) đã chỉ ra sự

tranh đấu của những người dân quê và đặc biệt là nghiên cứu các tác giả
với “sứ mệnh giai đoạn của phụ nữ ý thức” gắn với sự trưởng thành
trong tư tưởng của người phụ nữ miền Nam Việt Nam.
Tóm lại, tình hình nghiên cứu về truyện ngắn nữ từ góc nhìn
phê bình văn học nữ quyền trước năm 1986 không nhiều và chỉ tập
trung vào các nhà văn nữ văn xuôi đô thị miền Nam, nhưng cũng đã
thể hiện mốc phát triển khởi đầu đầy ấn tượng, cá tính trong tiến trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đồng thời, là cơ sở và tiền đề để các
tác giả nữ thể hiện đậm nét ý thức nữ quyền trong từng sáng tác của
mình giai đoạn sau.
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 2000
Có thể nói, sau thời kỳ Đổi mới (từ mốc 1986), truyện ngắn
Việt Nam đã có “sự lột xác” đầy khởi sắc, mở ra một thời kỳ huy
hoàng cho văn chương nước nhà. Đây là thời kỳ phát triển đỉnh cao
và đầy khởi sắc cho nền văn xuôi với những cây bút trẻ đầy nhạy
cảm, đi sâu khám phá về thời cuộc.
Những cơng trình nghiên cứu, phê bình về nữ quyền có giá trị,
là tài liệu khơng thể thiếu khi nghiên cứu về giới nữ được đánh giá
cao như: Văn chương và cảm nhận (năm 2005) của Tôn Phương Lan,
Truyện ngắn hiện đại Việt Nam 1945 - 1975 (các năm 2007, 2010)
của Hỏa Diệu Thúy; Lý luận phê bình văn học đổi mới và sáng tạo
(năm 2013) của Cao Thị Hồng, Văn học Việt Nam hiện đại - sáng tạo
7


và tiếp nhận (năm 2015) của Nguyễn Bích Thu;... Ngồi ra, còn phải
kể đến những cây bút lý luận phê bình nữ chuyên sâu như Mai
Hương, Lưu Khánh Thơ, Lý Hồi Thu, Hồng Thụy Anh, Trần Thị
Trâm… Với tình hình phê bình văn học hiện nay tại Việt Nam, theo
tác giả Trần Huyền Sâm thì phê bình nữ quyền đóng vai trò quan

trọng, là “một hướng nghiên cứu đầy tiềm năng” về các vấn đề giới.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Có thể nhận thấy rằng, lý thuyết nữ quyền cũng như phê bình nữ
quyền là hướng nghiên cứu đầy chuyên sâu và khả dụng được đưa vào
trong văn học và đã đạt được những thành công và hiệu quả đáng mong
đợi. Lý thuyết nữ quyền/ phê bình văn học nữ quyền với đối tượng
nghiên cứu chính là giới nữ, đều tập trung sự nghiên cứu chính vào bất
bình đẳng giới và các hệ quả từ sự phân biệt đó. Phê bình nữ quyền có
hướng nghiên cứu sâu rộng bởi không chỉ được ứng dụng trong văn học
mà còn cả trong xã hội học, nhân học, triết học, giáo dục… Chính nhờ
sức lan tỏa mạnh mẽ trong tất cả các mặt của xã hội, phê bình nữ quyền
với hệ thống lý thuyết đa dạng, phong phú từ phương Tây đã được nhiều
tác giả chọn làm hướng nghiên cứu chủ đạo của mình.
1.3.2. Hướng triển khai của đề tài
Từ việc nghiên cứu về nữ quyền và các vấn đề có liên quan về
giới đã được một số tác giả chọn làm hướng nghiên cứu trọng tâm
của mình, chúng tơi nhận thấy rằng, nghiên cứu về hệ thống lý thuyết
nữ quyền và áp dụng trong việc phân tích và phê bình văn học đã và
đang mang lại những giá trị khả quan. Thứ hai, chúng tơi cịn đi sâu,
phân tích, hệ thống hóa các kiểu nhân vật nữ mang đặc trưng giới
trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền. Thứ ba, hệ thống diễn ngôn mang ý thức giới đã được các tác
giả nữ khéo léo lồng vào càng thể hiện được những thanh âm đầy
trong trẻo, cá tính và hồn hậu, đầy yêu thương của giới nữ.
8


Chƣơng 2
LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN

VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
2.1. Vấn đề nữ quyền và sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền
2.1.1. Vấn đề nữ quyền - nguồn gốc và khái niệm
Người đặt ra từ “chủ nghĩa nữ quyền” chính là Charles Fourier,
một triết gia người Pháp chuyên về chủ nghĩa xã hội không tưởng. Lần
đầu tiên thuật ngữ “nữ quyền” (feminism) hay “nhà hoạt động nữ
quyền” (feminist) xuất hiện ở Pháp và Hà Lan năm 1872, ở Vương quốc
Anh trong những năm 1890, và Hoa Kỳ vào năm 1910. Từ điển Oxford
English Dictionary đưa từ “feminist” lần đầu vào năm 1894, feminist
được dịch là “người theo nữ quyền”. Nhiều phong trào nữ quyền xuất
hiện để thực thi quyền của phụ nữ nên được coi là phong trào nữ quyền.
2.1.2. Sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền và sự phát triển của quyền
phụ nữ
Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa nữ quyền, người phụ nữ
muốn có sự cải thiện về đời sống vật chất và tinh thần thì cần phải
quan tâm đến những vấn đề như thu nhập, công việc và học vấn, tri
thức. Nếu trong một gia đình, người phụ nữ hồn tồn sống phụ
thuộc vào đàn ơng, khơng việc làm, khơng tri thức thì họ sẽ khơng có
tiếng nói cả trong gia đình và ngồi xã hội. Và ngược lại, nếu họ có
cơng việc và nguồn thu nhập ổn định thì họ sẽ có tiếng nói mạnh mẽ
và có quyền lực để quyết định. Ngày nay, xã hội càng phát triển,
người phụ nữ càng thể hiện được quyền lực nữ quyền của mình trong
tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội...
2.2. Lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền
2.2.1. Lý thuyết nữ quyền
Lý thuyết giới/ lý thuyết nữ quyền được nhìn nhận như sự
nhận thức và hạn chế tình trạng áp bức, bóc lột, hành hạ phụ nữ trong
9



công việc, đời sống xã hội cũng như đời sống gia đình. Đồng thời
tiến đến chấm dứt hồn tồn sự thống trị gia trưởng, sự áp bức, bóc
lột sức khỏe sinh sản và tình dục của phụ nữ, lên tiếng cho quyền
được cống hiến, làm việc và được đối xử bình đẳng với nam giới
trong cơng việc và xã hội.
2.2.2. Phê bình văn học nữ quyền
Phê bình nữ quyền chỉ thực sự trở nên có sức lan tỏa mạnh mẽ
thơng qua tác phẩm “kiệt xuất” của nữ văn sĩ người Pháp Simone de
Beauvoir: Giới thứ hai (1949). Trong tác phẩm của mình, Beauvoir
chỉ trích gay gắt nền văn hóa phụ hệ đã đẩy người phụ nữ ra ngoài lề
của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Và trong tư tưởng của
nền văn hóa ấy, nam giới ln gắn liền với nhân loại, lịch sử, cịn phụ
nữ thì bị nhìn nhận như một “kẻ khác” (The Other), ln ở thế bị
động, phụ thuộc, phải dựa hoàn toàn vào nam giới.
Từ những thực tế lý luận - phê bình nêu trên, chúng tôi mạo
muội xác định nội hàm thuật ngữ phê bình văn học nữ quyền ở các
nội dung khái qt có tính tương đối ứng với truyện ngắn nữ 20002015 như sau: Phê bình văn học nữ quyền là việc đi sâu phân tích, đề
cập tất cả các mặt cấu trúc, nội dung, thể tài, văn phong riêng của
từng tác giả nữ trong từng giai đoạn cụ thể thông qua “lối viết nữ”
đặc thù - thường được viết dựa trên mọi suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc
của nữ giới bao gồm tất cả mọi phương diện trong đời sống như hơn
nhân, gia đình, kinh tế, luật pháp, các thể chế xã hội... để đấu tranh
cho quyền tự do, bình đẳng, quyền được tôn trọng đối với giới nữ
luôn trở thành đối tượng, nội dung của phê bình văn học nữ quyền
thể hiện một cách sáng tạo và có hiệu quả.
Thuật ngữ về sinh thái, sinh thái học, sinh thái văn học được
phổ biến tại Mỹ từ năm 1974, sau đó lan rộng ra khắp thế giới với
những đại diện tiêu biểu như Joseph W. Meeker, Cheryll Glotfelty,
10



Johnathan Bate, Carolyn Merchant… Theo các nhà nghiên cứu, cái
hay của phê bình sinh thái, đó là có sự kết hợp với phê bình văn học
với mơi trường tự nhiên để tạo nên “đứa con tinh thần” vừa có giá trị
nhân văn vừa có ý nghĩa trong việc kêu gọi bình đẳng giới, dần lấy
lại được vai trị và vị trí trung tâm của giới nữ và tự nhiên trong xã
hội hiện đại.
2.3. Ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam
2.3.1. Ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống
Nhắc đến ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống, không thể
không nhắc đến hệ thống ca dao, tục ngữ rất đa dạng, phong phú về hình
tượng người phụ nữ. Tuy rằng ý thức nữ quyền trong ca dao xưa vẫn
chưa được thể hiện mạnh mẽ và quyết liệt, đa phần là những bài ca dao
than thân trách phận của phụ nữ, kể về nỗi đau của phụ nữ trước sự hà
khắc của lễ giáo phong kiến như chế độ đa thê, trọng nam khinh nữ…
Có thể nói, văn thơ giai đoạn này đề cập rất nhiều về hình
tượng người phụ nữ với số phận bi kịch với các truyện thơ Nôm nổi
tiếng như Phạm Tải – Ngọc Hoa; Phạm Công – Cúc Hoa; Nhị độ
mai, Lục Vân Tiên xuất hiện vào thế kỷ XIX … Hình ảnh những
người phụ nữ đức độ, giữ gìn tiết hạnh như Hạnh Nguyên (Nhị độ
mai), Kiều Nguyệt Nga (Lục Vân Tiên) đã thể hiện được vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam: trọng tình nghĩa, trọng ân tình, ln hướng
đến những giá trị truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống.
Thơ ca trung đại cũng là thể loại phát triển mạnh mẽ với tiếng
nói tố cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến của các tác giả nữ, bênh vực
thân phận của người phụ nữ, tiêu biểu như nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương.
Bà chính là nữ tác gia tiêu biểu với phong cách mang đậm hơi hướng
cá nhân, tạo nên “hơi thở mới” cho văn học Việt Nam. Những tác
phẩm tiêu biểu mang đậm dấu ấn ý thức nữ quyền trong văn học
trung đại có thể kể đến như: Bánh trơi nước, Làm lẽ, Không chồng

11


mà chửa, Thiếu nữ ngủ ngày, Lấy chồng chung…Văn học trung đại
Việt Nam được mở đầu từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, là thời
kỳ Nho giáo thiết lập những tư tưởng bảo thủ, hà khắc, ảnh hưởng
nặng nề đến xã hội. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học
trung đại có thể nói được thể hiện đa dạng, thậm chí cịn manh nha
vấn đề “xưa nay hiếm”: “ẩn ức tính dục”, “cảm quan tính dục”... Hồ
Xn Hương là một ví dụ điển hình tiêu biểu với những cảm quan
đầy tính “thách thức” và “mới lạ” như thế.
2.3.2. Ý thức nữ quyền trong văn học hiện đại
Sự “trỗi dậy” mạnh mẽ nhất của văn học nước nhà phải kể đến
công cuộc Đổi mới năm 1986. Nếu như giai đoạn trước, các nhà văn
nam chiếm địa vị “thống trị” trong lĩnh vực sáng tác truyện ngắn thì
sau năm 1986, nhiều cây bút nữ dần xuất hiện và tạo nên một “trào
lưu mới”, “hiện tượng mới” trong nền văn học nước nhà. Số lượng
truyện ngắn nữ có chất lượng, được độc giả đánh giá cao cũng tăng
dần theo thời gian. Nhiều cây bút nữ mới xuất hiện trên văn đàn
nhưng đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc cả về nội
dung và chất lượng nghệ thuật như: Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Y
Ban, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu... Họ đã
“thổi hồn” vào tác phẩm, tiếng nói nữ quyền đầy quyền uy, cá tính,
phong cách viết văn mang đậm dấu ấn hiện đại và “hơi hướm” mới
của thời đại. Tất cả những yếu tố đó đã mang lại thành công cho văn
học Việt Nam hiện đại mà ở đó chủ thể tiêu biểu trong các sáng tác,
chính là hình tượng nữ giới. Những chủ đề quen thuộc vẫn là tình u
và hơn nhân, hạnh phúc gia đình. Dù các tác phẩm của các nhà văn
nữ phần lớn phản ánh bi kịch của giới nữ, nhưng ngược lại, nó khơng
q bi lụy mà lồng ghép vào đó là tinh thần “bất tử”, sức sống tiềm

tàng của “những bông hoa” đã bị “vùi dập”, “tả tơi” nhưng vẫn tỏa
hương cho đời.
12


Chƣơng 3
CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ MANG ĐẶC TRƢNG GIỚI
TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000-2015 TỪ GĨC
NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
3.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do
3.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống
Có thể thấy rằng, nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống
và quyền tự do cũng chính là một tiền đề lý thuyết rất quan trọng, tiến
đến giải phóng phụ nữ trong Giới thứ hai của Simone de Beauvoir.
Trong quá trình khảo sát truyện ngắn nữ, chúng tôi nhận thấy
rằng, so với bút pháp đầy gai góc và “cá tính hóa” đầy mạnh bạo,
quyết liệt dành cho giới nữ của Y Ban, Đỗ Hồng Diệu thì lối viết nữ
của Trần Thùy Mai vẫn cho thấy sự ung dung, nhẹ nhàng, tự tại
nhưng vẫn đầy bản lĩnh, kiêu hãnh trong chính tính cách và tâm hồn
người phụ nữ xứ Huế mộng mơ. Bút pháp của Trần Thùy Mai đã đi
sâu khắc họa, “mổ xẻ” thế giới nội tâm đa chiều, đa diện của nhân vật
nữ từ đó có thể thấy được khao khát sống hạnh phúc và tự do, là ước
vọng của giới nữ nói chung và âm hưởng nữ quyền trong truyện ngắn
của Trần Thùy Mai nói riêng.
3.2. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền tự do
Các nhân vật nữ của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu giống nhau ở
điểm là họ đều muốn tìm kiếm sự tự do trong tình yêu, một tình yêu
với nhiều cảm xúc thăng hoa nên họ đã “ngoại tình trong tâm thức”.
Beauvoir đã có một cái nhìn đầy nhân văn, đã lý giải đầy tính thuyết
phục với nguyên nhân sâu xa. Như vậy, so với lối viết nữ đầy nhẹ

nhàng, sâu lắng, đầy thiên tính nữ của Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư thì văn phong của Y Ban và Đỗ Hồng
Diệu vừa có chút gì đó “nổi loạn”, cộng hưởng thêm yếu tố huyền ảo,
vô thức càng khiến cho nhiều tác phẩm mang nét độc đáo riêng.
13


3.2. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ và khát vọng tình u
3.2.1. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ
Có thể nói rằng, thiên tính làm mẹ là thiên tính cao đẹp và thiêng
liêng nhất của người phụ nữ. Bất kỳ người phụ nữ nào, trong mọi hoàn
cảnh đều biết cách chăm sóc, yêu thương, bảo bọc “thiên thần bé nhỏ”
của mình. Nó cũng khẳng định đức tính hy sinh, cần cù, chịu khó, giàu
tình cảm là thiên tính nữ được ca ngợi nhiều nhất trong tất cả mọi thể
loại của văn học nữ quyền đương đại Việt Nam (Cánh đồng bất tận –
Nguyễn Ngọc Tư, Đầy tớ mẹ xin nghỉ phép – Thy Lê…).
3.2.2. Nhân vật nữ với khát vọng tình u
Viết về Mẫu tính và sự hy sinh thầm lặng cho tình yêu, hầu như
mỗi tác giả nữ đều có một phong cách riêng. Nguyễn Thị Thu Huệ hầu
hết đều viết về nhân vật chính là những người phụ nữ và các bé gái như
Hậu thiên đường, Cõi mê, Tân cảng, Huyền thoại, Dĩ vãng... Trần Thùy
Mai với những người đàn bà bất hạnh như Nguyệt cà nhắc (Quỷ trong
trăng), Vy ngây (Chuyện ở phố hoa xoan), Thúy câm (Am bà cô), Hà
“gái bán hoa” (Nốt ruồi son), Kiều Dung (Lễ cưới bạc)... Còn với Y Ban
là những nữ trí thức xinh đẹp nhưng lại hụt hẫng, chênh vênh, mong
muốn khao khát và cháy hết mình vì tình yêu trong Cưới chợ, Cuộc tình
Silicon, Gà ấp bóng, Người đàn bà đứng trước gương, Sau chớp là dơng
bão, Tự... Nguyễn Ngọc Tư với thân phận chìm nổi, tù đọng của những
người phụ nữ sông nước miền Tây chân chất, nhân hậu như cô bé
Nương trong Cánh đồng bất tận, người đàn bà cơ độc trong Dịng nhớ,

cơ Út trong Cái nhìn khắc khoải... Mẫu số chung của tất cả các nhân vật
nữ qua sự nhào nặn, tưởng tượng (và có thể từ đời thực) là khao khát đầy
cháy bỏng, mãnh liệt về một mái ấm hạnh phúc gia đình trọn vẹn.
3.3. Nhân vật nữ với bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng
tính dục
3.3.1. Nhân vật nữ với bản năng tính dục
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, các nhà văn nữ viết về sex
chính là cách mà họ có thể giãi bày nỗi lịng, chiêm nghiệm về cuộc
14


sống, đang trở thành xu hướng văn học mới. Viết về tính dục cũng
chính là cách mà nhà văn nữ tự giải phóng bản thể của chính mình.
Họ đã lấy người phụ nữ làm hình tượng trung tâm trong các tác phẩm
của mình, phát xuất từ căn ngun của chính xã hội mà họ đang sống.
3.3.2. Nhân vật nữ với nhu cầu giải phóng tính dục
Điểm chung của tuyến nhân vật nữ trong các tác phẩm của Đỗ
Hoàng Diệu, Y Ban, Lê Thị Hồi Nam, Đồn Lê đó là có một đời
sống tình dục nghèo nàn, tẻ nhạt, thiếu thốn, thậm chí có khi lại là sự
“bức bí”. Nhưng họ khơng tuyệt vọng, họ tìm mọi cách giải phóng
cho bản thân bằng việc “ngoại tình tư tưởng” hay thậm chí là “sex
trong giấc mơ” (Bóng đè), “sex trong hồi tưởng” (Vu quy)... Điều đó
khơng có gì xấu bởi sau những cuộc “giao hoan” trong giấc mơ, họ
đã có thêm “năng lượng” để làm tròn chức trách của người vợ, người
mẹ. Truyện Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu kể về một người phụ nữ về
quê chồng ăn giỗ và những giấc mơ hoang ám ảnh cô kỳ lạ: những
cảm xúc nhục dục thỏa mãn với hồn ma người cha chồng mà cơ chưa
từng có được cảm xúc ấy với chồng cơ khiến cơ vừa cảm thấy “thích
thú” vừa “sợ hãi” và “tội lỗi”.
3.4. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái và ý thức giải phóng bản thân

3.4.1. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái
Như vậy, qua các trang viết của giới nữ, thiên nhiên chính là “chất
xúc tác” để giới nữ thể hiện tất cả những vẻ đẹp hoang sơ, tiềm ẩn đầy
thiên tính nữ nhất. Thiên nhiên ln lắng nghe, thấu hiểu và che chở, bảo
vệ những người phụ nữ một cách trân trọng và đầy yêu thương. Đến lượt
mình, người phụ nữ cũng thấy ngay trong tâm hồn mình sự đồng cảm và
thương yêu, cùng chung niềm đau, mất mát và cả những niềm hân hoan,
hạnh phúc. Đồng thời, kêu gọi con người cùng chung sức bảo vệ và gìn
giữ mơi trường sống trong lành của tự nhiên, cũng chính là “ngơi nhà tự
nhiên” của nhân loại (Suối lạnh - Hà Thị Cẩm Anh, Đồi hoang - Phạm
Thị Ngọc Liên, Biển như tôi nhớ - Lý Lan)…
15


3.4.2. Nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân
Bên cạnh nhân vật nữ với cảm quan sinh thái, chúng tôi muốn
đề cập đến kiểu nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân, đặc biệt
là xu hướng thể hiện ý thức nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn
nữ tiêu biểu khác nhằm vươn đến khát vọng giải phóng bản thân là
một nét mới mà chúng tôi muốn minh chứng như là điểm nổi bật của
phê bình văn học nữ quyền (Cây thiêng trong lũng núi - Bùi Như
Lan, Hơi thở của núi - Niê Thanh Mai, Lạc giữa lịng Mường - Hà
Lý…). Có thể nói, người phụ nữ ở các vùng cao và các vùng dân tộc
thiểu số chịu nhiều thiệt thòi, định kiến bởi bản chất người vùng cao
từ đàn ông cho đến già làng, trưởng bản rất bảo thủ, lạc hậu, ngại tiếp
thu cái mới, cái tiến bộ. Đó là một bức tranh thật ảm đạm bởi số phận
người phụ nữ thật hẩm hiu, khắc nghiệt. Họ chỉ như là con trâu, con
bò trong gia đình, suốt ngày làm lụng vất vả, họ thậm chí cịn bị đánh
đập, khơng được ra ngồi vui chơi, hưởng thụ cuộc sống.
Chƣơng 4

PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ
VIỆT NAM 2000 – 2015 TỪ GĨC NHÌN PHÊ BÌNH
VĂN HỌC NỮ QUYỀN
4.1. Điểm nhìn trần thuật
Có thể thấy rằng, văn xuôi nữ hiện đại ngày càng quan tâm đến
các vấn đề thuộc về quyền lợi và bình đẳng của người phụ nữ. Do
vậy, vấn đề diễn ngôn về giới càng được quan tâm và là chủ đề đang
“hot” hiện nay. Hélène Cixous là người đầu tiên khai phá “lối viết
nữ” trong văn chương (L’écriture féminine). Theo bà, giữa giới tính
và diễn ngơn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, diễn ngơn
cịn đóng vai trị nâng tầm giới tính.
16


4.1.1. Điểm nhìn bên trong
Điểm nhìn bên trong là điểm nhìn nhân vật trong tác phẩm.
Người kể chuyện thường xưng "tơi" hoặc có thể đứng ở ngơi thứ ba
để kể chuyện. Với điểm nhìn bên trong thì khơng hề có khoảng cách
giữa nhân vật và người kể chuyện. Bởi vì người kể chuyện chính là
nhân vật, người kể chuyện như "hóa thân" vào nhân vật, thấu hiểu
mọi suy nghĩ, tính cách của nhân vật. Thế giới nội tâm nhân vật được
thể hiện đa chiều nhất thơng qua điểm nhìn bên trong.
Đây cũng chính là sự “hịa quyện” của tận cùng nỗi đau cùng
với nhân vật. Nhân vật “tơi” đóng vai trị là chủ thể phát ngơn cũng
chính là người kể chuyện, dẫn dắt câu chuyện theo những diễn biến
tâm lý của nhân vật. Những tác phẩm thể hiện những khao khát về
hạnh phúc, về tình yêu, về mái ấm gia đình của người phụ nữ chiếm số
đơng trong các sáng tác của các nhà văn nữ (Phiêu linh trắng –
Nguyễn Thu Phương, Hồng hơn – Đỗ Thị Thu Hiền, Chẳng nợ nần gì
nhau – Trầm Hương, Dây neo trần gian – Võ Thị Hảo...). Đôi khi là sự

đấu tranh không biết mệt mỏi cho những ước vọng của bản thân đã bị
“chà đạp”, “triệt tiêu”: cô Hạnh của Trăng nơi đáy giếng (Trần Thùy
Mai), cô vũ nữ Mi của Sâu thẳm một cơn mê (Hồ Thị Bích Ngọc),
Thụy – Lê Thùy Vân, Những mùa đơng của dì Vân – Ghita Xù...
4.1.2. Điểm nhìn bên ngồi
Với điểm nhìn bên ngồi thì người kể chuyện thường đi sâu vào
hành động, lời nói bên ngồi của nhân vật, đơi khi tác giả “lồng” vào đó
để phân tích thế giới nội tâm của nhân vật. Bằng cách đó, tác giả đã tạo
nên được cách nhìn nhận về tính cách và hành vi của nhân vật một cách
khách quan, khơng mang tính chủ quan và áp đặt. Điểm nhìn bên ngồi
tạo nên một khoảng cách vơ hình giữa nhân vật và người kể chuyện nhưng
vẫn biểu đạt được nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Chính lời nói, hành
động lại là "chất xúc tác" để độc giả hiểu rõ hơn về tư duy nhân vật. Vì
suy cho cùng, hành động chính là cách để khẳng định cái tôi nhân vật.
17


4.2. Giọng điệu nghệ thuật
Để biểu thị tính uy quyền của phái nữ trong truyện ngắn của
mình, các tác giả nữ đã sử dụng nhiều giọng điệu và phong cách khác
nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú trong cách thể hiện. Đó có khi là
giọng điệu tâm tình, lúc khác lại là giọng triết luận, hoạt kê, khi thì
tâm tình, hồi nghi, chất vấn.
4.2.1. Giọng xót xa, thương cảm
Có thể thấy rằng, giọng điệu xót xa, thương cảm là giọng điệu
xuyên suốt, xuất hiện trong rất nhiều truyện ngắn của các nhà văn nữ thể
hiện sự cảm thơng, tình thương dành cho thân phận những người phụ nữ
có số phận trắc trở, truân chuyên. Bên cạnh đó, là niềm khích lệ, động
viên giới nữ sống bản lĩnh hơn và mãi “tỏa hương sắc” cho đời dù cuộc
sống không như là mơ! Mỗi nhà văn nữ đều có một phong cách và lối

viết linh hoạt riêng: Nguyễn Thị Thu Huệ với chất giọng cảm thương
đầy khắc khoải, trăn trở, lo âu; Nguyễn Ngọc Tư lại là sự xót thương đầy
chân chất, khơng “màu mè” như chính con người miền Tây; Hồ Thị Hải
Âu lại có sự nhập tâm, đồng cảm sâu sắc; Trần Thùy Mai thì có âm điệu
thương cảm mang tính xoa dịu, vuốt ve; Võ Thị Xuân Hà với giọng văn
đầy xúc động và thổn thức về tình mẫu tử… Tất cả đã tạo thành một dàn
âm hưởng nữ quyền tuyệt vời đa dạng màu sắc và phong vị riêng.
4.2.2. Giọng triết luận, chiêm nghiệm
Giọng triết luận, chiêm nghiệm cũng là chất giọng chủ đạo mà
các nhà văn nữ thường hay đưa vào trong chính tác phẩm của mình.
Triết lý được hiểu là sự đúc kết những điều được nhìn nhận từ nguồn
cội tâm thế/ giá trị tinh thần/ sức mạnh ứng xử trong cuộc sống hay
chính cuộc đời của bản thân nhân vật. Như vậy, giọng điệu triết luận
thể hiện những trải nghiệm cùng những tầng bậc cảm xúc đau khổ,
dằn vặt, hạnh phúc của giới nữ trong hơn nhân và gia đình. Những sự
chiêm nghiệm, triết lý sâu sắc đó được rút ra từ chính cuộc đời nhà
văn và thể hiện đa chiều, trọn vẹn qua điểm nhìn là các nhân vật nữ.
18


4.2.3. Giọng hài hước, châm biếm
Giọng hài hước, châm biếm xuất hiện “nở rộ” trong văn học
hiện đại Việt Nam, đặc biệt là sau thời kỳ Đổi mới của dân tộc, đề tài
chiến tranh đã dần ít đi, thay vào đó là những câu chuyện bình dị của
cuộc sống mới đầy hối hả, gấp gáp.
Đọc truyện ngắn của các nhà văn nữ, chúng ta có thể nhận thấy
được lối viết linh hoạt về giọng điệu trong từng mỗi phong cách: Lê
Thị Hoài Nam với giọng điệu trầm ấm, lãng mạn; Y Ban và Đỗ Hoàng
Diệu suy tư, triết lý; Mai Thy trẻ trung, bay bổng; Nguyễn Thị Thu
Huệ nhẹ nhàng, sâu sắc; Nguyễn Ngọc Tư với văn phong chất phác,

hồn hậu; Hồ Thị Hải Âu giễu nhại; Bùi Thị Như Lan với chất giọng
xót xa, thương cảm đầy xúc động về giới…. Tất cả như một bản hợp
âm đa sắc phản ánh sự đa dạng về ngôn ngữ, giọng điệu, phương thức
trần thuật trong văn chương, đặc biệt là truyện ngắn đương đại Việt
Nam. Đồng thời, khẳng định sức sống “mãnh liệt” của thể loại truyện
ngắn nữ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.
4.3. Diễn ngôn mang ý thức giới trong truyện ngắn nữ Việt Nam
2000 – 2015
4.3.1. Diễn ngơn tự thuật
Có thể nói, lối viết nữ (l’écriture féminine) thể hiện cái nhìn biện
chứng của tác giả nữ về các hiện trạng của xã hội. Lối viết nữ, đặc biệt là
hiện tượng tự thuật càng thăng hoa và phát triển từ sau giai đoạn Đổi mới
năm 1986. Nhiều cây bút nữ xuất hiện và đã để lại những dấu ấn cá nhân
khó phai nhịa, thể hiện bước tiến và bước chuyển mình quan trọng trong
việc tự mình giải phóng ý thức bản thân. Lối viết nữ cũng chính là biểu
hiện bước đầu cho cuộc chiến khơng khoan nhượng với các tư tưởng
“thâm căn cố đế” của chế độ nam quyền đã tồn tại hàng trăm năm nay.
4.3.2. Diễn ngôn thân phận
Diễn ngôn thân phận được các nhà văn nữ đưa vào trong các
sáng tác của mình và đã đạt được những hiệu quả cao về mặt nội
dung và hình thức nghệ thuật.
19


Diễn ngơn thân phận đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố tâm
lý cùng với tâm trạng đa chiều, đầy giằng xé về nội tâm của nhân vật,
cũng là kiểu dạng đặc biệt tạo nên những “nút thắt” và sự hồi hộp, bất ngờ
dẫn dắt nhân vật đến những hành động bản thể, vô thức trong tác phẩm.
4.3.3. Diễn ngơn thân thể
Vẻ đẹp nữ tính về thân thể người phụ nữ chính là yếu tố quan

trọng được khai thác nhiều trong truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam
và đã mang những đặc trưng riêng về giới cùng những ý nghĩa tinh
tế, sâu sắc mà các tác giả nữ đã lồng ghép vào trong các tác phẩm của
mình. Diễn ngôn thân thể thường ưu tiên trong việc đặc tả về vẻ đẹp
ngoại hình của nữ giới, tạo nên sức mạnh lấn át “quyền lực văn hóa”
(theo Hồ Thị Giang) và thậm chí là nỗi đau chiến tranh, thức tỉnh và
lay động tình thương yêu giữa con người với con người. Đây cũng
chính là biểu tượng về tính Mẫu và bản sắc văn hóa của người phụ nữ
Việt mà các tác giả nữ thường hướng đến để “tô điểm” các đức tính
tốt đẹp cơng, dung, ngơn, hạnh của người phụ nữ từ bao đời nay.
KẾT LUẬN
1. Theo từng giai đoạn vận động và phát triển của văn học, vấn
đề nữ quyền trong truyện ngắn nữ Việt Nam càng thể hiện sự phát
triển theo xu thế của thời đại. Văn học nữ quyền chính là bước tiến
vững chắc từ các phong trào nữ quyền trước đó. Hình tượng người
phụ nữ đi vào trong các áng văn thơ, văn học dần được “phổ cập
hóa” rộng rãi hơn, xóa bỏ những áp đặt hà khắc của nam quyền đối
với giới nữ trên tất cả mọi phương diện xã hội. Dấu ấn của lý thuyết
phê bình nữ quyền được nhân rộng từ trước năm 1980, lối viết nữ và
khuynh hướng khám phá bản chất tự nhiên của giới nữ đã dần được
các học giả, các nhà nghiên cứu lưu tâm. Phê bình nữ quyền thể hiện
được tầm quan trọng và tính khả dụng của mình khi có sự kết hợp
20


nhuần nhuyễn với phê bình phân tâm học, phê bình đồng tính, phê
bình Mác - xít, phê bình hậu thực dân và phê bình sinh thái. Tiếp thu
có chọn lọc lý thuyết phê bình nữ quyền từ phương Tây, văn học Việt
Nam đã tạo nên một cuộc “lột xác” trong việc thể hiện hình tượng
kiên định, phi thường của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Phê

bình nữ quyền từng bước khẳng định, đấu tranh, thiết lập các quyền
bình đẳng cùng địa vị cho giới nữ, chống lại tư tưởng nam quyền cố
hữu trong xã hội thông qua “vũ khí” tối ưu là văn học.
2. Âm hưởng nữ quyền trong văn học thực sự được lan tỏa mạnh
mẽ từ sau năm 1986, tuy hệ thống lý thuyết về nữ quyền ở Việt Nam vẫn
còn “non trẻ” so với phương Tây. Dẫu vậy, việc vận dụng phê bình nữ
quyền vào trong văn học đã đạt được nhiều thành tựu nổi trội. Đã có
nhiều hơn các cây bút nữ và các học giả ưu tiên vấn đề về giới lên hàng
đầu trong việc sáng tác, nghiên cứu. Từ đó, văn học về giới nữ thật sự có
sự “chuyển mình” từ sau giai đoạn Đổi mới, là thời kỳ văn chương mang
màu sắc của nữ giới, đối lập với sự “bất toàn” của đàn ơng.
Thể loại truyện ngắn nữ đã có những bước tiến khởi sắc, chính
là một xu thế mới đầy tính hội nhập với nền văn học thế giới để biểu
thị những vấn đề “nóng” về tình u, hơn nhân, gia đình của giới nữ
mang trong mình trọn vẹn âm hưởng nữ quyền. Thứ hai, ưu điểm của
truyện ngắn đó là ngắn gọn, hàm súc, cô đọng hơn so với tiểu thuyết
nhưng vẫn bảo đảm truyền tải những thông điệp về bình đẳng giới,
chống lại chế độ nam quyền và những định kiến gay gắt của xã hội
dành cho giới nữ. Thứ ba, chính nhờ sự đổi mới trong văn học đã giúp
cho những sáng tác của các cây bút nữ cá tính hóa đậm nét mà trước đó
là “địa phận” của nam giới. Họ khơng cịn bị “bó buộc”, đi theo “lối
mịn” trong những quy chuẩn “an tồn” của xã hội. Thay vào đó, mạch
cảm xúc trong những truyện ngắn đầy tính phóng khống, tự nhiên
ngay cả đối với những vấn đề thuộc về cảm xúc thầm kín của nữ giới:
21


yếu tố tính dục. Viết về sex, các cây bút nữ khơng hề thua kém nam
giới, thậm chí cịn dào dạt và đầy tính nhân văn qua từng trang viết đầy
tính sáng tạo của ngịi bút nữ. Như vậy, truyện ngắn nữ nhìn từ góc độ

phê bình văn học nữ quyền là hướng nghiên cứu nổi bật và có tính ứng
dụng cao trong văn học cũng như văn hóa, xã hội học.
3. Với cảm quan đa dạng, đồng điệu và tràn đầy cảm xúc về tình
người, sự thủy chung, son sắt của giới nữ; các cây bút nữ đã thể hiện
các nhân vật nữ với nhiều số phận khác nhau cùng thế giới nội tâm đầy
phức hợp, đa chiều. Chính họ đã hóa thân vào từng nhân vật, kể từng
câu chuyện như chính cuộc đời của mình với nhãn quan của sự thấu
hiểu, cảm thông sâu sắc. Các nhà văn nữ đã tạo nên một luồng sinh khí
mới đầy sức trẻ và nhiệt huyết cho nền văn học nước nhà.
Đối với truyện ngắn nữ qua 30 năm phát triển, sự cách tân thi
pháp thể hiện ở thế giới nhân vật đã tạo nên bước tiến mới trong việc
đề cao âm hưởng nữ quyền thời hiện đại. Một thế giới nhân vật nữ đa
dạng, nhiều màu sắc hiện lên: nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền
sống và quyền tự do; thiên tính làm mẹ và khát vọng tình u; bản
năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục, cảm quan sinh thái và ý
thức giải phóng bản thân. Tất cả các kiểu dạng nhân vật nữ đó đã phá
vỡ mọi quy chuẩn về cái đẹp đã được định hình, rập khn trước đây.
Nhân vật nữ khơng chỉ là hình mẫu cho vẻ đẹp truyền thống đầy nhu
mì, hiền hậu của giới nữ mà đó cịn là vẻ đẹp hiện đại, có “hơi hướm”
nổi loạn, đấu tranh khơng khoan nhượng cho hạnh phúc, nhu cầu cá
nhân của mình. Họ khơng ngại bày tỏ nỗi lịng, nói lên tiếng nói đầy
khí chất của nữ giới, phê phán nam quyền và những tư tưởng xã hội
thủ cựu, hà khắc. Cùng với lối viết trần thuật, sự cách tân trong ngôn
ngữ, giọng điệu, hệ thống nhân vật của truyện ngắn nữ 2000 - 2015 đã
hình thành kiểu diễn ngơn ấn tượng về giới và tinh thần nữ quyền
mang hơi thở thời đại, đầy tính nhân văn của các cây bút nữ.
22


Có thể nói, điểm nhấn trong văn xi, đặc biệt là truyện ngắn nữ

sau năm 1986 là sự đa dạng trong chủ đề, đề tài được phản ánh. Các
nhà văn nữ thường ưu ái những chủ đề rất gần gũi, dung dị với cuộc
sống hàng ngày: chủ đề khát vọng hạnh phúc gia đình, tình u lứa
đơi; hình tượng người phụ nữ hiền thục, đảm đang, dám bứt phá khỏi
những quy chuẩn, lề thói đã lỗi thời của gia đình, xã hội để tạo cho
mình lối đi; những ẩn ức tính dục và khát vọng tính dục… Tất cả
những yếu tố đó đã làm nên một diện mạo hồn tồn khác cho truyện
ngắn nữ Việt Nam đương đại. Khảo sát truyện ngắn nữ giai đoạn trước
và sau này từ 2000 - 2015, chúng tôi nhận thấy rằng, giai đoạn trước
(1986 - 2000): sự đa dạng về đề tài, chủ đề; sự “góp mặt” của các vấn
đề và ngơn ngữ “nóng” (đề tài tính dục)… vẫn chưa thật sự rõ nét và
ấn tượng. Dẫu rằng, các cây bút nữ kỳ cựu đã đặt nền tảng tạo dựng
nên phê bình văn học nữ quyền thơng qua tác phẩm của mình. Tuy
nhiên giai đoạn về sau, các cây bút nữ của thế hệ trẻ đã tiếp bước, cùng
với cảm quan mới mẻ, họ đã tiếp nhận cái mới và tiến bộ, hợp với thời
đại và phản ánh đa dạng, chân thực, sát với nhu cầu thực tế hơn. Nhờ
vậy, các tác phẩm của họ thật sự tạo ấn tượng và thành tựu khi liên hệ
đến nữ quyền và những gì thiêng liêng thuộc về nữ giới.
Nói một cách khách quan, lối viết của các nhà văn nữ có thể khơng
đề cập đến những vấn đề ở tầm vĩ mô như các nhà văn nam mà lại
nghiêng về những điều bình dị trong cuộc sống hàng ngày như thân phận
con người. Đặc biệt, thế giới nội tâm của người phụ nữ lại có sức hút “khó
cưỡng” đối với người đọc, bao gồm cả những vấn đề vi mô như thế.
4. Hệ thống diễn ngôn trần thuật nữ giới cũng là điểm nhấn và tạo
nên sự đa dạng trong phong cách sáng tác và văn phong linh hoạt của các
tác giả nữ. Đối với phê bình văn học nữ quyền thì hệ thống diễn ngơn nữ
giới, tiêu biểu là những đặc trưng của lối viết nữ chính là một hình thức
nghệ thuật quan trọng cần được phân tích làm rõ nhằm thể hiện đầy đủ
23



×