Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

VĂN học QUAN NIỆM văn học của PHAN HUY CHÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.05 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***********

TIỂU LUẬN

QUAN NIỆM VĂN HỌC CỦA PHAN HUY CHÚ

Học viên thực hiện: VŨ MINH QUANG
Mã số HV: 305021312

1


Khố: 2013

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015

2


Quan niệm văn học của Phan Huy Chú
Mục Lục

3


Quan niệm văn học của Phan Huy Chú

Dẫn nhập
Phan Huy Chú sống trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa


đầu thế kỉ XIX. Trong khoảng thời gian đó, nhiều biến cố thăng trầm đã xảy ra
trong lịch sử nước ta. Từ sự sụp đổ của nhà Tây Sơn và ra đời triều đại nhà
Nguyễn, cho đến khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, đây là giai đoạn lịch sử
đầy sóng gió của đất nước. Tình hình đất nước trong giai đoạn này khơng lấy gì
làm sáng sủa nhưng đây lại là một thời kì văn học phát triển rực rỡ, nhiều tác
phẩm xuất sắc đã ra đời gắn liển với những tên tuổi lớn như Đặng Trần Côn,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Phan Huy
Chú xuất hiện bên cạnh những vị anh tài ấy và khẳng định tên tuổi của mình
với cơng trình đồ sộ Lịch triều hiến chương loại chí, vì vậy mà mỗi khi nhắc
đến ông người ta sẽ nghĩ nhiều đến vai trị nhà bác học của ơng hơn là vai trị
nhà thơ hay một nhà phê bình văn học. Tuy nhiên, rải rác trong cơng trình Lịch
triều hiến chương loại chí và trong nhiều bài thơ đi sứ của mình, Phan Huy
Chú cũng bộc lộ những tư tưởng và quan niệm về văn học quan trọng của
mình, đóng góp vào hệ thuống những tư tưởng lý luận văn học cổ điển Việt
Nam.
Nội dung
1. Đôi nét về học giả Phan Huy Chú
1.1 Tiểu sử
Phan Huy Chú (Chữ Hán: 潘潘潘; 1782 – 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai
Phong, sinh năm Nhâm Dần 1782, quê gốc xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh, sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khê, huyện Yên Sơn, Phủ Quốc Oai,
nay là làng Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ông xuất thân trong gia
đình có truyền thống khoa bảng, là con trai thứ ba của Lễ bộ Thượng thư, tiến
sĩ Phan Huy Ích. Ơng nội là tiến sĩ Phan Huy Cận, ơng ngoại là Ngơ Thì Sĩ, cha
là Phan Huy Ích, bố vợ là Nguyễn Thế Lịch, bác là Ngơ Thì Nhậm, chú là Phan
Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực. Tác động của dòng dõi tài danh, hiếu học và
những quan hệ trí tuệ đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tính cách của nhà bác
học Phan Huy Chú.
4



Phan Huy Chủ đầu tiên có tên là Hạo, sau vì tránh tên húy của nhà
Nguyễn mới đổi ra là Chú, tự là Lâm Khanh, hiệu là Mũi Phong, quê ở ấp Yên
Sơn, xã Thụy Khê (tức làng Thày), phả Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Từ lúc còn
nhỏ, Phan Huy Chú đã được học hành, và nổi tiếng hay chữ ở miền phủ Quốc
tỉnh Sơn. Ông ở làng Thày, lại đỗ tú tài hai lần, nên người ta gọi ông là ông Kép
Thày. Năm 1821, Minh Mạng biết tiếng, cho triệu ông Dào Huế và cử ông giữ
chức Biên tu trường Quốc tử giám. Năm 1828, Ông giữ chức phủ thừa Phủ
Thừa Thiên, năm 1829 thăng lên chức Hiệp trấn Quảng Nam. Sau đó ơng bị
giáng chức và về Huế giữ chức Thị độc Viện Hàn lâm. Hai lần ông được Minh
Mạng cử làm Phó Sứ đi sử nước Thanh. Lẩn đi Sứ đầu vào năm 1824 - 1826,
lần đi Sứ thứ hai vào năm 1830 - 1882. Khi đi sứ lần thứ hai về, thì cả sứ bộ bị
tội vì lạm dụng quyền hành : chánh sứ bị cách chức, bị đánh trượng rồi bị đày
đi xa, cịn Phó sứ Phan Huy Chú thì bị cách chức. Cuối năm 1832 và đầu năm
1833, Phan Huy Chú lại bị Minh Mạng bắt đi công cán ở Giang Lưu Ba (In-đônê-xi-a ngày nay). Làm xong nhiệm vụ trở về nước, ông được cử giữ chức Tư
vụ bộ Cơng. Sau đó chán cảnh quan trường, ông viện cớ đau chân, xin từ quan
lui về làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây dạy học. 1
Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất. Phan Huy
Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi.
Phần mộ của ông hiện ở tại thơn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước
thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
1.2 Cơng trình nghiên cứu và một số tác phẩm
Phan Huy Chú là một nhà bác học, danh nhân văn hoá Việt Nam, với tài
danh lỗi lạc về bách khoa thư. Ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá
trị, nổi bật nhất là bộ Lịch triều hiến chương loại chí gồm 49 quyển khảo cứu
về lịch sử Việt Nam từ lập quốc đến cuối triều Lê. Đây là bộ bách khoa thư đầu
tiên của Việt Nam, đánh dấu bước phát triển cao về học thuật ở nước ta đầu thế
kỷ 19. Chính cơng trình này đã tơn vinh Phan Huy Chú lên nhà bác học lớn của
nước ta. Không những thế, tiếng vang bộ sách cịn vượt ra ngồi biên giới, một
nhà Việt Nam học người Nga đã viết: Lịch triều hiến chương loại chí là bộ sách

xứng đáng được gọi là bộ bách khoa thư về cuộc sống Việt Nam. 2

1 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, NXB Giáo Dục (2007), tr.11

2 Phan Huy Dục, Phan Huy Chú và văn hóa Việt Nam , anninhthudo.vn (17/6/2008)

5


Phan Huy Chú bắt đầu biên soạn Lịch triều hiến chương loại chí ngay từ
hồi ơng cịn đi học, đi thi. Đó là năm 1809, tức năm Gia Long thứ tám, ơng đã
nhân thì giờ nhàn rỗi, ra cơng tìm tịi, biên soạn Lịch triều hiến chương loại chí.
Theo lời ơng nói, Ơng đã để ra mười năm để biên soạn bộ sách này. Năm 182,
lúc giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám, Ông đã dâng Lịch triều hiến chương
loại chí lên Minh Mạng và được Minh Mạng khen, thưởng cho 30 lạng bạc,
một chiếc áo sa, 30 ngòi bút và 30 thoi mực.
Trong thời gian làm quan với nhà Nguyễn, Phan Huy Chú cịn viết
những sách như Hồng Việt địa dư chí, ghi chép về địa lý Việt Nam, Hoa thiều
ngâm lục ghi những bài thơ ông làm trong khi di sứ lần thứ nhất, Hoa trình tục
ngâm ghi những bài thơ khi đi sứ lần thứ hai. Dương trình ký kiến hay Hải
trình chỉ lược là tập bút ký ghi những việc tai nghe mắt thấy khi ông đi sứ
Giang Lưu Ba. 1
Phan Huy Chú là một tấm gương sáng về tinh thần bền bỉ học tập,
nghiên cứu, là một trí tuệ, một tài năng kiệt xuất, đã cống hiến cho lịch sử văn
hóa dân tộc Việt Nam sự nghiệp tri thức của ơng. Ơng xứng đáng được xếp vào
số không nhiều các nhà khoa học lớn của nước ta thời trước. Tên tuổi và sự
nghiệp của Phan Huy Chú sẽ sống mãi với lịch sử văn hóa Việt Nam. 2

2. Tinh thần của một nhà nho – học giả
Phan Huy Chú sống trong giai đoạn thoái trào của chế độ phong kiến.

Suốt Hậu kỳ trung đại Việt Nam, bức tranh chính trị xã hội khơng ngừng biến
động. Khơng chỉ là sự xuống cấp và thối hóa của năng lực đạo đức chính
quyền trung ương và những cuộc khởi nghĩa nơng dân, mà cịn là cuộc xâm
thực không ngừng nghỉ của thực dân phương Tây vào một quốc gia phương
Đông lạc hậu. Những biểu hiện ấy là kết quả của q trình tích lũy độc dược
lâu dài từ những mục ruỗng tiêu cực suốt hàng trăm năm của chế độ phong kiến
Việt Nam, ít nhất là từ cuối thế kỷ XV cho đến thế kỷ XIII, mà sự thành lập
vương triều Nguyễn phong kiến tập quyền cao độ cũng khơng thể cứu vãn nổi
nó.

1 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, NXB Giáo Dục (2007), tr.12

2 Phan Huy Dục, Phan Huy Chú và văn hóa Việt Nam , anninhthudo.vn (17/6/2008)

6


Sống trong một thời đại như thế, đồng thời cũng làm quan cho nhà
Nguyễn suốt một quãng thời gian dài, Phan Huy Chú ít nhiều vẫn giữ cho mình
những quan niệm được coi là chính thống. Tinh thần mẫn cán trong nghiên cứu
học thuật của ông phần nào được rèn dũa trong gia đình giàu truyền thống hiếu
học. Dịng họ Phan Huy: Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Quýnh, Phan
Huy Thực, Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh… cũng như các dòng họ lớn truyền
đời về văn học khác như dịng họ Ngơ gia, dịng họ Nguyễn Tiên Điền… họ đã
đóng góp một phần khơng nhỏ trong việc sáng tác, nghiên cứu văn học, kích
thích trao đổi thư từ, việt tựa bạt, bình chú các tác phẩm, làm cho phê bình văn
học ngày càng phát triển. Điều đó góp phần làm cho bức tranh về tư tưởng văn
học Hậu kỳ Trung đại hết sức phức tạp do sự đan xen của nhiều dòng, nhiều
phái khác nhau. Tư tưởng của các nhà nho cũng bị tác động ít nhiều bởi các yếu
tố mới trong thời đại mà chế độ phong kiến đang đi vào khủng hoảng. Vẻ

“thuần chất” nho học của kẻ sĩ cũng khơng cịn như trước kia, tư tưởng nho gia
trong họ cũng bị biến đổi phức tạp như chính thời đại mà họ đang sống. Tuy
vậy, trong giai đoạn này, tư tưởng văn học nho giáo vẫn là ý thức bao trùm lên
tất cả, nó làm nền cho những biến đổi khác. Tư tưởng thiền Lão có ảnh hưởng
khá sâu đậm trong văn học giai đoạn này. Ảnh hướng ý thức văn nghệ nước
ngồi khơng chỉ dừng lại ở Đường Tống mà còn cập nhật những tư tưởng lý
luận văn học Trung Quốc thời Minh Thanh. Lê Q Đơn, Nguyển Du, Miên
Thẩm đều có nhặc đến thuyết “tính linh” là một thuật ngữ lý luận đương thời
của Viên Mai; Cao Xuân Dục có bàn về quan hệ giữa thơ với sử như quan niệm
của Chương Ngọc Thành cuối đời Thanh… Trong trường ảnh hưởng ấy, Phan
Huy Chú bàn về mối quan hệ giữa văn học và văn hiến trong Văn tịch chí, đấy
là một quan điểm tích cực và tiến bộ. Phan Huy Chú viết:
“Cái diệu trong chế tác tỏ ra ở diễn lễ hiến chương, cái hay trong tâm
thuật ngụ vào trong văn chương sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết được
đạo đời. Thư tịch, văn minh của lồi người là ở đó.”
Khơng một nền văn minh nào lại khơng có chữ viết, thư tịch của riêng
mình. Văn học chính là kết tinh tài năng và tâm huyết của những con người
trong cộng đồng đó. Vì thế văn học phản ánh bản sắc của một văn hóa nói
chung, là giá trị của văn minh được biểu đạt qua văn bản nói riêng, hay nói
cách khác, văn học cịn gắn liền với nền văn hiến:
“Nước Việt ta tiếng khen lễ nghĩa đã hơn nghìn năm, vốn có thư tịch đã
từ lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng nước đối địch với Trung Hoa, mệnh lệnh từ
chương dần dần rõ rệt. Đến Lý, Trần nội trị, văn vật mở mang, về tham định
thì có những sách điển chương điều luật, về ngự, chế thì có các thể chiếu sắc
thi ca. Trị bình đời nối, văn nhã đủ điều. Huống chi, nho sĩ đời nào cũng có,
7


văn chương nảy nở như rừng, sách vở ngày càng nhiều, nếu không trải qua
binh lửa mà thành tro tàn thì hẳn là trâu kéo phải mệt, nhà chất phải đầy. …

Than ôi! Sách vở các đời đã từng tản mát, sách mất đã khó sưu tầm, sách cịn
lại nhiều sai lẫn, đằng đẵng ngàn năm, biết theo vào đâu mà khảo xét? Nhưng
sự học ở các nhà nho quý ở tìm rộng, có sách vở để làm bằng. Tơi bèn xét tìm
sử cũ, tham khảo các nhà…” (Trích quyển XLII Lịch triều hiến chương loại
chí).
Qua đó ta thấy được tầm suy xét bao quát và sâu xa của Phan Huy Chú
khi ông bắt tay vào thực hiện pho sách đồ sộ này. Bộ Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú hoàn thành năm 1821 được viết theo lối chí, có thể
coi cơng trình này là một bộ sách thư mục học- một dạng của nghiên cứu văn
học loại lịch sử văn học sơ khai. Trong đó, thiên Văn tịch chí quyển 42-43: Thi
văn loại, ghi chép, kiểm điểm, thống kê thơ văn từ khởi thủy cho đến bây giờ.
Sách trình bày theo trình tự thời gian, có dẫn ra nhận xét phê bình các học giả
khác hoặc của Phan Huy Chú về từng tác giả cùng tác phẩm của họ. Vì vậy ta
có thể xem đây là một bộ sách tổng hợp nghiên cứu văn học sử sơ khai, theo
kiểu của phương Đông trước kia.
Than ôi ! Sách vở các đời đã từng tản mát, sách mất đã khó sưu tầm,
sách cịn lại nhiều sai lẫn, đằng đẵng ngàn năm, biết theo vào đâu mà khảo xét
. Nhưng sự học của nhà Nho quý ở tìm rộng, cần phải tìm tịi ở giấy má cịn lại,
dừng đổ cho là khơng có sách vở để làm bằng. Tơi bèn xét tìm sử cũ, tham
khẳo các nhà, biên hết tên sách, chia làm bốn loại: 1. loại hiến chương, 2. loại
kinh sử, 3. loại thi văn, 4. loại truyện ký. Trong đó có nhiều thứ tên thì cịn mà
sách thì đã mất, cũng nêu đủ và chua rõ. Thứ nào cịn thì đều có lời phê bình
để cho người xem biết được đại Cương những trước thuật xưa nay, thấy được
đại khái hay dở của các sách, ngõ hấu giúp cho sự xem rộng biết nhiều. Các
môn loại đều tóm tắt biên lên đầu để cho dễ hiểu.
Cũng trong Hậu kỳ trung đại, trước Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn xuất
hiện như một điểm nhấn đặc biệt trong số những nhà nho-học giả. Mang tư
tưởng chính thống của một nhà nho nhưng bộ óc của ơng lại thâu chứa tất cả.
Ơng là cuốn bách khoa tồn thư về tư tưởng, học thuật của Trung Hoa và Việt
Nam từ khời thủy cho đến thời đại mà ông sống. Tư tưởng văn học của Lê Quý

Đôn là tập đại thành về tư tưởng văn học thời kỳ trung đại, và cũng là học
phong mẫu mực để Phan Huy Chú tiếp nối trong những cơng trình nghiên cứu
của mình. Tiếp nối học phong của Lê Quý Đôn, nhưng cố gắng của ông tập
trung chủ yếu ở việc nghiên cứu tư liệu và phê bình văn học Việt Nam (Lịch
triều hiến chương loại chí- phần Nhân vật chí, từ quyển 6 đến quyển 12; Văn
tịch chí, quyển 42 đến quyển 45). Tính chất nhà nho- học giả là tính chất cơ bản
8


trong ý thức nghệ thuật của ông, nhưng xu hướng cá nhân thì mang một chút
của nhà thơ tài tử dù trên đại thể, ông vẫn mang tư tưởng văn học nho gia chính
thống. Tư tưởng văn học của Phan Huy Chú với tư cách một nhà nho chính
thống đã nối tiếp khuynh hướng tư tưởng văn học kẻ sĩ quân tử giai đoạn Trung
kỳ trung đại trước đó. Nhà nho quan tâm đến hành đạo, chú trọng ở đạo đức, tu
dưởng tâm tính. Bên cạnh tâm, nhà nho chính thống đề cao chí, thơ văn cần đề
cao chí để phục vụ cho nghiệp hành đạo. Tư tưởng văn học của nhà nho chính
thống biểu hiện ở chỗ họ trung thành với những quan niệm văn học từ Khổng
Tử cho đến Chu Hy. “Văn dĩ tải đạo” trở thành một mối quan tâm lớn trong
sáng tác và phê bình, tuy nhiên, không phải là duy nhất, bởi các nhà nho của
chúng ta cịn bàn về rất nhiều vấn đề, có nhiều điểm chung nhau, nhưng đồng
thời cũng có nhiều sắc thái khác biệt.
Nhìn chung, trong nghiên cứu văn học nói chung và trong Lịch triều
hiến chương loại chí- phần Văn tịch chí nói riêng, Phan Huy Chú đứng trên lập
trường chính thống theo khuynh hướng của một nhà nho – học giả. Ơng đã lao
động trí tuệ một cách miệt mài và nghiêm túc cao độ để hoàn thiện các cơng
trình khoa học của mình, đồng thời về phương diện văn học, Phan Huy Chú thể
hiện rõ tư tưởng văn học là một bộ phận quan trọng không thể tách rời khỏi sự
thịnh suy của nền văn hiến quốc gia.

3. Tinh thần của một nhà nho – tài tử

Bên cạnh khuynh hướng chính thống, nhiều nhà nho trong Hậu kỳ trung
đại cũng mang đậm phong cách tài tử. Họ là những nhà nho tài tử vừa có nét
“nho” lại vừa “tài tử”. Khuynh hướng tài tử không đối lập với chính thống mà
tồn tại như hai phong cách sống, hai trường phái tư tưởng song hành của kẻ sĩ
nói chung và người viết nói riêng. Lê Q Đơn trong Vân đài loại ngữ cho
rằng: Đại để phần tinh hoa phát tiết ra ngồi đều do sự hịa thuận chất chứa ở
trong, cho nên người có đức thì tất có lời, người có hạnh thì tất có học . (Đồn
Lê Giang, Tư tưởng lý luận văn học cổ điển Việt Nam, NXB ĐHQG TpHCM,
2006, tr.116)
Nối tiếp học phong của Lê Quý Đơn trong nghiên cứu, nhưng Phan Huy
Chú với ít nhiều khuynh hướng tài tử thì phân người viết ra làm hai loại: học
giả và thi nhân. Học giả thì chuyên về trước thuật nên lời văn kém hoa mỹ. Thi
nhân thì tuy kém về sự uyên bác nhưng cảm xúc lại bay bổng. Cho nên tài văn
chương và tài học thuật là hai loại khác nhau:

9


Văn chương của cổ nhân thường chia ra làm hai lối, mà người ta vẫn lo
í tai tài kiêm được cả hai. Người có cái học trước thuật thì kém ở lời văn hoa
mỹ, trái lại, người có tài ngâm vịnh thơ nói chung lại thiếu sự uyên bác. Có cái
tài kiêm được cả hai phương diện ấy, thực khó lắm thay. (Bài tựa Quế đường
thi tập). 1
Cũng như Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Trần Danh Ấn… Phan Huy
Chú nói riêng và dịng họ Phan Huy nói chung cũng hành động theo tinh thần
“tơn phù chính thống” trong các bộ sách học thuật, nghiên cứu, nhưng trong
sáng tác thơ văn thì lại tỏ ra ít nhiều “tài tử” trong cách thể hiện tác phẩm của
mình. Có thể kể đến Phan Huy Ích (cha của Phan Huy Chú) từng làm quan cho
triều đình Lê-Trịnh và Tây Sơn, ơng có một tập thơ đi sứ Trung Quốc là Tinh
sà kỷ hành. Nối tiếp cha mình, Phan Huy Chú ngồi cơng trình Lịch triều hiến

chương loại chí, Hồng Việt địa dư chí… đậm tính chính thống, ơng cũng để lại
dấu ấn tài tử qua những thi tập sáng tác trong khi đi sứ như Hoa thiều ngâm lục
hay Hoa trình tục ngâm. Trong những tập thơ này hay cụ thể hơn là trong Hoa
thiều ngâm lục tinh thần của một nhà nho tài tử của Phan Huy Chú thể hiện chủ
yếu qua việc đề cao tính hiện thực trong nghiên cứu và sáng tác, đồng thời bộc
lộ lòng yêu quê hương, đất nước qua tình yêu cảnh sắc quê hương.
Đường đi sứ sang Trung Hoa xa xăm như cánh chim hồng về phương
Bắc, biết bao giờ mới trở về cố hương. Phan Huy Chú ví lịng u q nhà như
cánh chim Việt vẫn canh cánh muốn quay về xóm cũ. Ơng tạm lấy chí tang
bồng hồ thỉ bốn phương trời để an ủi lịng mình trong những ngày lo việc quốc
gia đại sự. Và cảnh sắc núi non chốn quan ải cũng là niềm động viên khích lệ
tác giả trong chuyến ra đi:
“Sứ Hoa dĩ trục vân hồng viễn,
Hương tứ mang tùy Việt điểu hoàn.
Hồ thỉ sơ tâm liêu tự ý,
Nham khê đáo xứ nhất di nhan.”
(Quá quan- Hoa thiều ngâm lục)

1 Đoàn Lê Giang, Tư tưởng lý luận văn học cổ điển Việt Nam, NXB ĐHQG TpHCM, 2006, tr.117

10


Cùng với cảnh núi non hùng vĩ nơi quan ải, sơng nước mênh mang của
dịng Trường Giang cũng khơi nên cảm hứng nghệ thuật của thi sĩ. Thuyền sứ
trôi theo dịng sơng lên n Kinh, đường trập trùng giữa non xanh nước biếc
như một bức tranh, tiếng rì rào cỏ cây đôi bờ tựa như thanh âm đàn nhạc.
Thưởng thức cảnh đẹp là niềm vui, lạc thú đích thực của tâm hồn một nhà nho
tài tử:
“Vạn lý Hoa trình Bắc hướng Yên,

Trường Giang thả phiếm sứ tinh biền.
Thương nhai bích giản thiên trùng lộ,
Lưu thủy đào hoa nhị nguyệt thiên.
Giáp ngạn nham quang bài họa trục,
Cách than thụ hưởng tống minh huyền.
Phẩm đề lạc ngã đồ chân thủ,
Ỷ tỉ ngâm song tịch chiếu huyền.”
(Chu trung ngẫu vịnh – Hoa thiều ngâm lục)

Dịch:
Trong thuyền ngẫu nhiên ngâm thành thơ
Đường sang Trung Hoa dài vạn dặm, lên phía Bắc hướng tới Yên Kinh,
Trên dịng Trường Giang, thuyền sứ giả lướt trơi.
Mùa xn, nước sông dâng cao, giữa cữ tháng hai,
Vách núi xanh khe nước biếc, đường trập trùng muôn lớp.
Nắng chiếu sườn non bên bờ như tranh vẽ phô bày,
Hàng cây cách bãi sơng rì rào như tiếng đàn vẳng tới.
11


Thưởng thức cảnh đẹp làm ta vui, tìm thấy lạc thú đích thực,
Cứ quẩn quanh bên khung cửa bồng mà ngâm nga dưới ánh chiều tà.

Khơng chỉ có cảnh sắc thiên nhiên, những danh lam thắng cảnh, di tích
lịch sử của vùng đất này cũng khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho ơng, góp
phần vào bức tranh chung của nhóm thơ thơ đi sứ trung đại Việt Nam viết về
danh thắng Hồ Nam. Trong tập thơ Hoa thiều ngâm lục, ta có thể chọn ra năm
bài thơ của ơng thuộc nhóm chủ đề này, đó là: Nhị Phi miếu; Tam Lư đại phu
miếu; Hành Châu dạ vũ văn chung; Để Trường Sa vãn bạc; Hiểu phát quá
Động Đình hồ. Trước Phan Huy Chú, cũng có rất nhiều tác giả chọn nơi đây

làm cảm hứng cho những bài thơ đi sứ của mình, như: Phạm Sư Mạn với Sứ
Hoa quá Tiêu Tương giang; Lê Quý Đôn trong Liên châu thi tập có phần Tiêu
Tương bách vịnh gồm tăm bài, trong đó có Hồ Nam tảo phát trình Hỗ Trai; Hồ
Sĩ Đống với Nhạc Dương lâu; Ngơ Thì Nhậm với Tương Âm dạ phát;… và
ngay cả Nguyễn Du trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà
Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm Quý Dậu (1813) đến đầu năm Giáp Tuất
(1814) đi ngang qua nơi này cũng để lại những vần thơ bất hủ trong Bắc hành
tạp lục.
Đến vùng Thương Ngô, là đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay, cũng như
nhiều sứ thần Đất Việt, Nguyễn Du và Phan Huy Chú đều biết đến sự tích nơi
này mà cảm thương đề thơ cảm hứng. Tương truyền vua Thuấn (Ngu Đế) đi
tuần ở phương nam, mất ở nơi đây. Nhị phi, tức hai bà phi của vua Thuấn, là
Nga Hoàng và Nữ Anh, nghe tin vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở
Thương Ngơ. Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành
vết lốm đốm và tự trầm chết theo bên dịng sơng Tương. Trên tích truyện ấy mà
trong Bắc Hành Tạp Lục, Nguyễn Du có đề bài thơ Thương Ngô tức sự:
Ngu Đế nam tuần cánh bất hoàn
Nhị phi sái lệ trúc thành ban
Du du trần tích thiên niên thượng
Lịch lịch quần thư nhất vọng gian
Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy
Phù vân bất biện Cửu Nghi san
12


Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ
Thiên lý thanh sam bất nại tồn
(Thương Ngơ tức sự - Bắc hành tạp lục)
Dịch thơ:
Tức cảnh ở Thương Ngô

Vua Ngu đi mất không về
Trúc xanh đốm lệ hai phi khóc tìm
Nghìn năm cách biệt cổ kim
Lật trang phương cảo nỗi niềm rưng rưng
Lụt về ba thước triều dâng
Mây mờ che phủ mấy tầng Cửu Nghi
Xa nghe réo rắt tiếng tỳ bà
Áo xanh từ tạ cịn đi nghìn trùng

Phan Huy Chú cũng vì cảm thương câu chuyện cổ trên mà viết nên bài
thơ Nhị phi miếu.
Tịch mạc Tương giang thượng
Hương từ khan lục mi.
Trùng hoa quang cảnh diểu,
Ban trúc lệ ngân thùy.
Biệt thủy lưu Song Quế,
Sầu vân cách Cửu Nghi.
13


Dư tung thiên cổ tại,
Khách quá nhất thê kỳ.
(Nhị phi miếu - Hoa thiều ngâm lục)

Dịch:
Miếu thờ hai bà phi
Trên dịng Tương Giang vắng lặng,
Ngơi miếu thờ nhìn xuống bờ song xanh.
Quang cảnh xưa với vua Trùng Hoa đã xa khuất rồi,
Rặng trúc vân vẫn còn in vết nước mắt.

Dòng song ly biệt chảy vào vùng Song Quế,
Mây sầu ngăn cách đất Cửu Nghi.
Dấu tích xưa cịn lại với ngàn năm,
Khách qua đây long trĩu nặng sầu thương.

Lại nói về vùng danh thắng Hồ Nam, người ta không thể không nhắc đến
miếu thờ Tam Lư đại phu cũng như không thể bỏ quên câu chuyện bi thương
của nhà thơ Khuất Nguyên nước Sở. Khuất Nguyên là người ở ấp Khuất nước
Sở thời Chiến Quốc (480-221 trước CN). Ơng có tài cao học rộng, từng được
vua nước Sở đương thời là Sở Hồi Vương rất tín nhiệm giao cho làm Tả Đồ là
chức vụ hết sức quan trọng trong triều đình. Ơng đã hết lịng vì nước vì vua,
đem tài năng và tâm huyết cống hiến cho việc dựng xây đất nước tốt đẹp. Song
nước Sở lúc này đã suy yếu. Sở Hoài Vương tin dùng bọn gian thần, ngày càng
tăm tối u mê. Khuất Nguyên là người trung thực ra sức can ngăn và nêu ra
những biện pháp tích cực cứu nước, cứu dân. Bọn cận thần xấu thì ra sức mê
hoặc Hoài Vương, do ghen tức với Khuất Nguyên, chúng vu cáo hãm hại nhiều
lần khiến ông bị nhà vua lạnh nhạt và cuối cùng bị đày đi xa.
14


Khơng có Khuất Ngun, bọn gian nịnh càng ra sức tung hoành. Rồi Sở
Hoài Vương chết, con trai là Khoảnh Tương Vương nối ngôi lại càng ngu tối
hơn, vẫn nghe theo bọn bán nước hại dân, mời Khuất Nguyên trở lại rồi lại
nghe lời gièm pha, một lần nữa đày ông đi xa hơn nữa. Cuối cùng, Sở bị Tần
tấn cơng rồi thơn tính. Khuất Ngun ở nơi đi đày ngày đêm đau khổ, biết cách
cứu nước mà không được cứu, thương xót nhân dân mà chịu bó tay, ơng đã đau
đớn cực độ, làm rất nhiều thơ bi phẫn rồi nhảy xuống dịng sơng Mịch La tự
tận.
Tam lư đại phu miếu là bài thơ cảm thương cũng như là một nén nhang
hương hồn tưởng nhớ của Phan Huy Chú dành cho sĩ phu bạc mệnh Khuất

Nguyên.
Vu chẩn thương hoài thệ thủy tần,
Cửu ca tiều tụy kỷ lân quân.
Nga mi dung dị chiêu sàm nữ,
Lam uyển thê lương vọng mỹ nhân.
Tương phố thiên thu di bội nguyệt,
Sinh môn hà xứ bạch y vân.
Tao từ trùng cảm Nam lai khách,
Thiều đệ giang cao lâm cự tần.
(Tam lư đại phu miếu- Hoa thiều ngâm lục)
Dịch:
Miếu thờ Tam lư đại phu
Tấm long đau đớn u hoài theo bến nước,
Thơ “Cửu ca” chứa chất nỗi khổ đã mấy người thương ông!
Mày ngày xinh đẹp dễ chọc tức bọn đàn bà thích dèm pha chê bai,
Vườn lan lạnh lẻo trông chờ mỹ nhân, mong chờ mãi.
15


Bến song Tương ngàn năm còn treo vầng trăng sáng như phiến ngọc đeo.
Cổng thành Sính đơ biết từ đâu gạt làn mây phủ.
Lời thơ Ly tao làm cho người khách phương Nam xiết bao thương cảm,
Từ nơi xa muốn ôm lấy đám cỏ thơm bên sông.
Trước Phan Huy Chú, Tống Ngọc là nhà thơ cùng thời với Khuất
Nguyên đã làm bài Chiêu hồn để gọi hồn Khuất Nguyên về dương gian.
Nguyễn Du chống lại quan điểm đó, nên đã làm bài Phản chiêu hồn (Chống lại
bài chiêu hồn). Bằng nhãn quan phê phán xã hội sâu sắc, thấu hiểu những xấu
xa, nhơ bẩn trên cõi đời này, Nguyễn Du đã nhận ra rằng: trên thế gian đâu đâu
cũng đầy những tên quan lại độc ác, những dịng sơng oan nghiệt. Ơng cho
rằng: nếu hồn Khuất Ngun có về dương gian thì cũng chẳng có gì tốt đẹp, bởi

vì:
“Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La”
(Người đời sau ai cũng là Thượng Quan
Trên khắp mặt đất, đâu cũng có sơng Mịch La!)
Điều đó khiến cho Phản chiêu hồn trở thành bài thơ chữ Hán mang đậm
tính thần hiện thực phê phán và có sức khái quát sâu đậm của Nguyễn Du. So
với Nguyễn Du, dù Phan Huy Chú mang tầm hồn của một nhà nho tài tử nhưng
phần nhiều vẫn giữ cho mình phong thái điềm đạm cố hữu của một nhà nho học
giả theo tinh thần phù chính thống.
Tóm lại, có thể nói Hoa thiều ngâm lục của Phan Huy Chú là tập thơ đi
sứ khá xuất sắc trong lịch sử văn hóa nước nhà. Trong tiến trình phát triển của
văn học Việt Nam, khơng thể khơng nhắc đến những đóng góp khá quan trọng
và mang nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nghệ thuật của mãng thơ đi sứ.
Những Thi tập ấy là kết tinh của những bậc thơ hay, phú giỏi, bác cổ, thông
kim, ứng đối linh hoạt làm cho người ngoại quốc phải kính nể. Bên cạnh tư
cách một học giả, một sứ thần, nhà thơ Phan Huy Chú nói riêng và những nhà
thơ đi sứ nói chung đã viết nên những tác phẩm thể hiện tấm lòng chan chứa ân
tình đối với quê hương, mối quan tâm sâu sắc đối với hịa bình, độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước.
16


Kết luận
Từ trước đến nay, tên tuổi Phan Huy Chú thường gắn liền với cơng trình
đồ sộ Lịch triều hiến chương loại chí. Chính bộ sách này đã đưa ơng lên vị trí
một trong số khơng nhiều nhà bác học lớn ở nước ta. Thế nhưng, ngồi vị trí
cao q – nhà bác học, còn là một nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu…
với các cơng trình: Hồng Việt dư địa chí, Hải trình chí lược, Hoa thiều ngâm
lục, Hoa trình tục ngâm… Phan Huy Chú cịn mang tinh thần của một nhà nho

tài tử với những vần thơ đi sứ đậm tình yêu quê hương đất nước, thiên nhiên
cảnh sắc và con người đôn hậu. Với lập trường chính thống theo khuynh hướng
của một nhà nho – học giả, Phan Huy Chú thể hiện rõ tư tưởng văn học là một
bộ phận quan trọng không thể tách rời khỏi sự thịnh suy của nền văn hiến quốc
gia. Với tinh thần nhà nho tài tử, Phan Huy Chú cũng để lại những bài thơ đi sứ
đậm tính chất trữ tình giãi bày những suy tư và tình yêu quê hương đất nước.
Nhìn chung, dù vớiphương diện nào thì Phan Huy Chú cũng đã lao động trí tuệ
một cách miệt mài và nghiêm túc cao độ để hoàn thiện các cơng trình và sáng
tác của mình. Ơng xứng đáng được xếp vào số không nhiều các nhà khoa học
lớn của nước ta thời trước. Tên tuổi và sự nghiệp của Phan Huy Chú sẽ sống
mãi với lịch sử văn hóa Việt Nam.1

1 Phan Huy Dục, Phan Huy Chú và văn hóa Việt Nam , anninhthudo.vn (17/6/2008)

17


Tài liệu tham khảo
1. Đoàn Lê Giang, Tư tưởng lý luận văn học cổ điển Việt Nam, NXB
ĐHQG TpHCM, 2006.
2. Nguyễn Công Lý, Thơ đi sứ trung đại Việt Nam viết về danh thắng ở
Hồ Nam - Trung Hoa và trường hợp Nguyễn Trung Ngạn,
khoavanhoc-ngonngu.edu.vn (02/09/2011)
3. Nguyễn Du, 249 bài thơ chữ Hán, NXB Hà Nội (2003)
4. Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Du về tác gia
và tác phẩm, NXB Hà Nội (2003)
5. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, NXB Giáo
Dục (2007)
6. Phan Huy Dục, Phan Huy Chú và văn hóa Việt Nam , anninhthudo.vn
(17/06/2008)


18


Phụ lục
1. Hoa thiều ngâm lục
1.1 Quá quan
Sổ thanh la pháo hưởng tằng sơn,
Thứ đệ chinh chiều hướng ngọc quan.
Xuân tễ đình đài nhung trượng túc,
Phong sinh thân bội lễ nghi nhàn.
Sứ Hoa dĩ trục vân hồng viễn,
Hương tứ mang tùy Việt điểu hoàn.
Hồ thỉ sơ tâm liêu tự ý,
Nham khê đáo xứ nhất di nhan.

Dịch:
Qua cửa ải
Tiếng thanh la cùng tiếng pháo âm vang mấy tầng lớp núi,
Đoàn sứ giả theo thứ tự tiến về phía cửa ải.
Trời xuân tạnh ráo, đội nghỉ trượng đứng đón chào bên đình đài rất
nghiêm túc,
Gió xn nhẹ thổi, đồn sứ giả với mũ áo ngọc đeo bên mình phong thái
ung dung.
Đi sứ sang Trung Hoa, theo cánh chim hồng hướng tơi nơi xa xăm,
19


Lòng nhớ quê hương vẫn canh cánh bên long theo chim Việt quay về
xóm cũ.

Hãy tạm lấy câu “hồ thỉ” để tự động viên khích lệ,
Kìa cảnh núi non khe suối khắp nơi đều làm cho vẻ mặt tươi tỉnh lên.

1.2 Chu trung ngẫu vịnh
Vạn lý Hoa trình Bắc hướng Yên,
Trường Giang thả phiếm sứ tinh biền.
Thương nhai bích giản thiên trùng lộ,
Lưu thủy đào hoa nhị nguyệt thiên.
Giáp ngạn nham quang bài họa trục,
Cách than thụ hưởng tống minh huyền.
Phẩm đề lạc ngã đồ chân thủ,
Ỷ tỉ ngâm song tịch chiếu huyền.

Dịch:
Trong thuyền ngẫu nhiên ngâm thành thơ
Đường sang Trung Hoa dài vạn dặm, lên phía Bắc hướng tới n Kinh,
Trên dịng Trường Giang, thuyền sứ giả lướt trơi.
Mùa xuân, nước sông dâng cao, giữa cữ tháng hai,
Vách núi xanh khe nước biếc, đường trập trùng muôn lớp.
Nắng chiếu sườn non bên bờ như tranh vẽ phô bày,
20


Hàng cây cách bãi sơng rì rào như tiếng đàn vẳng tới.
Thưởng thức cảnh đẹp làm ta vui, tìm thấy lạc thú đích thực,
Cứ quẩn quanh bên khung cửa bồng mà ngâm nga dưới ánh chiều tà.

1.3 Tiện tỉ húy nhật cảm hoài
Huyên thất trường vi tam thập niên,
Truy hoan vãng sự trướng lưu xuyên.

Thanh danh ứng thế do bình cảnh,
Phu phát thù ân vị trích quyên.
Sương lộ thử hồi kinh dị địa,
Giản hoàng hướng xứ khấp chung thiên.
Khách thuyền ngũ dạ cô hương chủ,
Trường đoạn gia sơn hiểu vụ biên.

Dịch:
Cảm hoài nhân ngày giỗ mẹ
Xa mẹ đã lâu, ba mươi năm rồi,
Tìm niềm vui qua chuyện cũ, đau long nhìn dịng song trơi xi.
Thân danh ứng phó với đời như cánh bèo mặt nước,
Ơn sâu sinh thành dưỡng dục chưa báo đáp mảy may.
Lần này sương giá nơi đất lạ đáng kinh sợ
Hướng về chốn suối khe mà khóc nỗi đau suốt đời.
21


Đêm năm canh trên con thuyền nơi đất khách thắp nén hương đơn côi,
Nỗi buồn đứt ruột vấn vương bên làn sương sớm trên ngọn núi nơi quê
nhà.

1.4 Nhị phi miếu
Tịch mạc Tương giang thượng
Hương từ khan lục mi.
Trùng hoa quang cảnh diểu,
Ban trúc lệ ngân thùy.
Biệt thủy lưu Song Quế,
Sầu vân cách Cửu Nghi.
Dư tung thiên cổ tại,

Khách quá nhất thê kỳ.

Dịch:
Miếu thờ hai bà phi
Trên dòng Tương Giang vắng lặng,
Ngơi miếu thờ nhìn xuống bờ song xanh.
Quang cảnh xưa với vua Trùng Hoa đã xa khuất rồi,
Rặng trúc vân vẫn còn in vết nước mắt.
Dòng song ly biệt chảy vào vùng Song Quế,
Mây sầu ngăn cách đất Cửu Nghi.
22


Dấu tích xưa cịn lại với ngàn năm,
Khách qua đây long trĩu nặng sầu thương.

1.5 Tam lư đại phu miếu
Vu chẩn thương hoài thệ thủy tần,
Cửu ca tiều tụy kỷ lân quân.
Nga mi dung dị chiêu sàm nữ,
Lam uyển thê lương vọng mỹ nhân.
Tương phố thiên thu di bội nguyệt,
Sinh môn hà xứ bạch y vân.
Tao từ trùng cảm Nam lai khách,
Thiều đệ giang cao lâm cự tần.

Dịch:
Miếu thờ Tam lư đại phu
Tấm long đau đớn u hoài theo bến nước,
Thơ “Cửu ca” chứa chất nỗi khổ đã mấy người thương ông!

Mày ngày xinh đẹp dễ chọc tức bọn đàn bà thích dèm pha chê bai,
Vườn lan lạnh lẻo trơng chờ mỹ nhân, mong chờ mãi.
Bến song Tương ngàn năm còn treo vầng trăng sáng như phiến ngọc đeo.
Cổng thành Sính đơ biết từ đâu gạt làn mây phủ.
Lời thơ Ly tao làm cho người khách phương Nam xiết bao thương cảm,
23


Từ nơi xa muốn ôm lấy đám cỏ thơm bên sông.

1.6 Để Trường Sa vãn bạc
Tương thủy vân phong cổn lãng hoa,
Phiếm phàm chuyển miến đáo Trường Sa.
Phồn hoa thành thị giang quan trán,
Danh thắng sơn xuyên Sở vọng xa.
Nhạc Lộc viện thâm liến thúy nghiễn,
Câu Lâu bi cổ ủng đan hà.
Thôi bồng vô hạn thương mang hứng,
Củng Cực lêu tiền diếu bích ba.

Dịch:
Đến Trường Sa chiều tối thuyền đậu lại
Gió nam lướt trên song Tương cuốn tung bọt sóng,
Nhanh như chớp mắt, thuyền đà tới Trường Sa.
Thành thị phồn hoa, cành song nước mênh mông,
Vẻ đẹp núi song, đất Sở ngắm trông thật rộng lớn.
Viện Nhạc Lộc ở nơi sâu kín tiếp liền với non xanh,
Bia cổ Câu Lâu, rang chiều đỏ rực vây quanh.
Đẩy cửa sổ thuyền bồng, cảm hứng mênh mang vô hạn,
Trước lầu Củng Cực ngắm làn sóng biếc ở nơi xa.

24


1.7 Túc Tương Âm
I
Sơn sắc vi mang ngạn tuyệt thâm,
Yên ba nhất trạo hướng tương âm.
Khánh thuyền tạm bạc cô thành vũ,
Vạn lý giang hồ thử dạ tâm.
II
Hàn vũ đinh châu tán hiểu yên,
Thương giang nhất vọng thủy liên thiên.
Huân phong vị giả chính phàm tiện,
Cao liễu âm trung tạm hệ thuyền.

Dịch:
Nghỉ lại ở Tương Âm
I
Sắc núi mờ mờ, bờ song tối thẫm,
Trong màn khói sóng, thuyền đến Tương Âm.
Tạm đỗ lại bên tịa thành trơ trọi,
Giang hồ mn dặm, đó là tâm tình ta đêm nay.
II
Mưa lạnh trên bờ bãi xua sương khói ban mai,
25


×