Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi ở trường mầm non vĩnh thịnh, huyện vĩnh lộc, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1.Cơ sở lý luận


2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.

4

2.3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.

6

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

13

3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

15

3.1. Kết luận

15

3.2. Kiến nghị

15


1. MỞ ĐẦU

1.1 Lí do chọn đề tài:
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc
bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của xã hội và của mỗi gia
đình, Bác Hồ thân yêu của chúng ta từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan.” [1]
Trẻ em phải được sống và được dạy dỗ trong một xã hội tràn ngập tình
thương với những điều tốt đẹp luôn hiện diện xung quanh. Ngồi ra, các bé phải
được học về lịng u cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu mọi người quanh mình.
Từ những điều hết sức giản đơn ấy, sẽ dần giúp các em yêu thêm mảnh đất quê
hương mà mình đang sống. Các em phải được dạy dỗ để có thể phân biệt tốt
xấu, đúng sai. Nhưng, chúng ta cũng không nên quá gò ép để rồi để các em đánh
rơi mất tuổi thơ, có những suy nghĩ già dặn khơng phù hợp với lứa tuổi chỉ cần
“biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Giáo dục trẻ ngay từ khi cịn nhỏ là
vơ cùng quan trọng trong sự nghiệp hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
cho trẻ sau này. Bác Hồ cũng nói: “Khơng có giáo dục thì khơng nói gì đến kinh
tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu,
động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Trong
những năm gần đây, giáo dục mầm non đang nhận được sự quan tâm rất lớn của
các cấp các ngành và của toàn xã hội điều đó chứng minh giáo dục mầm non là
nền tảng vững chắc trong tương lai của đất nước.
Chính vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đóng một vai trị quan
trọng và rất cần thiết trong sự hình thành và phát triển tâm hồn của trẻ thơ một
cách có định hướng, giúp trẻ biết quý trọng bản thân mình, ni dưỡng những
giá trị cuộc sống, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trong các lĩnh vực: nhận thức, thể
chất, trí tuệ và thẩm mỹ, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống biết hoà
nhập với môi trường xung quanh.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần thiết cho hành vi đẹp lành mạnh. Kỹ
năng sống chính là chiếc chìa khố vàng cho sự sống cịn, sự phát triển và sự
thành công của mỗi con người. Có thể nói kỹ năng sống chính là phương tiện

khơng thể thiếu để giúp trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước
mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống. Dạy kỹ năng sống cho trẻ là dạy những
thói quen sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử giữa trẻ với con
người và sự vật xung quanh trẻ. Đó cũng là những cảm nhận, những cảm xúc
của con người trước sự thay đổi của môi trường xung quanh.
Là một giáo viên mầm non, bản thân luôn quan tâm, gần gũi, động viên
nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, đến việc làm thế nào để dạy cho trẻ
những kỹ năng sống hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho trẻ.
Thực tế tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi tôi được phân công phụ trách, các cháu
rất mạnh dạn, tự tin, thích đến trường lớp và thích tham gia vào các hoạt động…
Song, để trẻ có kỹ năng sống trong mơi trường tập thể thì cịn nhiều hạn chế:
chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh; kỹ năng học tập và
làm việc theo nhóm bạn trong lớp, kỹ năng thích nghi với những điều kiện học


2

tập ở mơi trường mới cịn nhiều bỡ ngỡ và quan trọng là kỹ năng tự giải quyết
các vấn đề thực tế, kỹ năng tự phục vụ của trẻ còn thiếu chủ động bởi trẻ được
sự quan tâm bao bọc rất lớn của bố mẹ... một số trẻ chưa tự mặc quần áo, tự cất
đồ dùng khi đến lớp, tự xúc ăn, đánh răng, rửa mặt… Chính vì vậy, cần phải làm
gì? Làm như thế nào và giáo dục trẻ ra sao? Bằng những biện pháp nào để hình
thành kỹ năng sống tốt nhất cho trẻ là điều mà bản thân tơi ln băn khoăn và
suy nghĩ. Với vai trị là người mẹ thứ hai của các cháu tại trường mầm non tôi
luôn luôn trăn trở và quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp
rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thịnh Huyện Vĩnh Lộc - Tỉnh Thanh Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm hình thành và củng cố cho trẻ những kỹ năng cơ bản trong cuộc
sống hàng ngày tại trường mầm non, từ đó giúp trẻ có thêm vốn kinh nghiệm,
được trải nghiệm, được tích lũy để làm cơ sở cho trẻ có khả năng lĩnh hội những

giá trị của cuộc sống, của con người giúp trẻ được phát triển toàn diện về các
mặt đức, trí, thể, mỹ...
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường
mầm non Vĩnh Thịnh - Huyện Vĩnh Lộc - Tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hồn thành sáng kiến này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
+ Nghiên cứu các tài liệu có liên quan, để lấy cơ sở lý thuyết nhằm khẳng
định cho sáng kiến của mình đưa ra hồn tồn đúng và cấp thiết mang lại hiệu
quả cao.
- Phương pháp điều tra khảo sát thu tập thông tin.
+ Đàm thoại trực tiếp với học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lý những số liệu để thấy được thực trạng vấn đề
nghiên cứu và có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng
sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thịnh - huyện Vĩnh
Lộc.
- Phương pháp phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận:
Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho
phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày, nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Bài viết của Thomas Fuller
về rèn kỹ năng sống. [2]
Đối với giáo dục mầm non. Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác
động sư phạm có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động
tích cực, có liên quan tới kiến thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản
thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện cơng việc, ứng phó hiệu quả với các
u cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày… Kỹ năng sống được hình thành
theo nhiều cách khác nhau, tùy vào môi trường sống và giáo dục…



3

Trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo, đó là những hoạt động tích
cực, hướng vào những hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ với mục đích giúp
trẻ có thể ứng phó hiệu quả với các tình huống, thách thức trong cuộc sống hàng
ngày. Định hướng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ làm chủ bản
thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả,
nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống
của cuộc sống [3] nhà tâm lý học Nguyễn Duy Cần đã nói về cách giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ
nhỏ. Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình
cảm, giao tiếp, ngơn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin
bước vào giai đoạn tiểu học.
Về thể chất: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự
kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thơng qua các bài học và các hoạt động vận động
trong quá trình dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo,
kiên trì, giúp cho trẻ nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.
Về tình cảm: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ, sống
có trách nhiệm, biết u thương, biết ơn cơng lao của cha mẹ.
Về giao tiếp - ngôn ngữ: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ tự tin, giao tiếp
hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hịa nhã.
Về nhận thức: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến
thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mê học tập.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có bước đệm chuẩn bị sẵn sàng cho giai
đoạn các cấp học học sau này: Việc giáo dục kỹ năng sống từ sớm giúp trẻ có
khả năng thích nghi với sự thay đổi môi trường sống, khả năng hòa nhập nhanh,
giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nội dung giáo dục vô cùng quan

trọng và cần thiết đối với chúng ta, dạy kỹ năng sống cho trẻ là nhằm giúp trẻ có
những kinh nghiệm trong cuộc sống sau này của trẻ, trẻ biết được những điều
mình nên làm và những điều mình khơng nên làm, trẻ biết được điều hay lẽ phải,
biết được cái thiện, cái ác hướng tới chân, thiện, mỹ. Khi trẻ đã có kỹ năng sống
ngay từ buổi đầu đời, sẽ là hành trang tiếp bước trong tương lai của trẻ. Câu
thành ngữ: “Tiên học lễ, hậu học văn” của cha ông ta từ ngàn xưa đã để lại đến
bây giờ vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn [4]. Lễ phép là nét đẹp văn hóa được đặt
lên hàng đầu khi đánh giá về một con người. Trong thời đại hiện nay, sự phát
triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ
thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người “phát triển
về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là cốt lõi của nền tảng giáo dục.
Trẻ lứa tuổi mầm non là lứa tuổi đang dần hình thành và phát triển về mọi
mặt, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng, đặc biệt với trẻ độ
tuổi 5 - 6 tuổi, ở độ tuổi này, nhận thức cũng như về mặt giao tiếp, khả năng làm
việc theo nhóm và ý thức tự biết tham gia vào các hoạt động cùng với các bạn
trong lớp. Tuy nhiên hiện nay do sự phát triển nền kinh tế nhiều gia đình rất
quan tâm đến con cái nhưng lại khơng có thời gian để trò chuyện vui chơi cùng
con hoặc hạn chế việc tiếp xúc giao tiếp của con với mọi người xung quanh dẫn


4

đến một số trẻ bị tự kỷ, thiếu tự tin, không mạnh dạn khi tham gia các hoạt động
cùng các bạn trong lớp và trẻ có thể cịn chưa tự mình làm một số việc đơn giản
như tự thay quần áo, đánh răng, rửa mặt…Vì vậy, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
đang trở thành vấn đề cấp bách và cần thiết trong hệ thống giáo dục nói chung
và giáo dục mầm non nói riêng.
Là một giáo viên phụ trách lớp 5 tuổi tại trường mầm non Vĩnh Thịnh, bản
thân tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm mục đích phát triển

khả năng giao tiếp, khả năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, với mơi trường
tự nhiên và xã hội. Trẻ biết tự phục vụ và tự bảo vệ bản thân, biết giải quyết
những vấn đề cần thiết mà trẻ cần làm. Chính vì vậy, bản thân sẽ cố gắng tìm tịi
học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, tìm biện pháp tốt nhất làm sao để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ hiệu quả nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Đặc điểm chung:
Trường mầm non Vĩnh Thịnh đang trong q trình xây dựng thêm một số
phịng học mới và một số cơng trình khác như: Vườn cổ tích, sân vận động, …vì
vậy khơng gian hoạt động của trẻ chủ yếu là ở trong phòng nên đã làm ảnh
hưởng trực tiếp đến các hoạt động vui chơi, học tập của trẻ. Các cháu đa phần là
con em nông dân, bố mẹ các cháu làm ruộng khơng có nhiều thời gian và điều
kiện để quan tâm chăm sóc con em mình. Dân trí cịn thấp số hộ nghèo và cận
nghèo cịn rất nhiều, chính vì những điều kiện đó cũng làm ảnh hưởng đến sự
phát triển về mọi mặt của trẻ.
Trường có tất cả 39 cán bộ giáo viên trong đó: Ban giám hiệu 3, 35 giáo
viên, nhân viên 1; 92% có trình độ đạt chuẩn. Số học sinh trong trường là 570
cháu: 10 nhóm trẻ và 16 lớp mẫu giáo.
Năm học 2020 - 2021 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 5
- 6 tuổi D. Hai lớp mẫu giáo có 1 cơ phụ, tổng số cháu lớp tôi là 25 cháu: 15
nam và 10 nữ. Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tơi thấy
có một số thuận lợi và khó khăn sau:
2.2.2. Thuận lợi - khó khăn.
* Thuận lợi:
Tơi ln được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, tạo điều kiện
cho tôi được học hỏi bồi dưỡng chuyên môn, tự nghiên cứu tài liệu, học hỏi trao
đổi với đồng nghiệp. Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao
chuyên môn, trau dồi kiến thức để ngày càng tiến bộ hơn.
Tôi đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng, đã học qua một số chương trình giảng
dạy và dạy kĩ năng sống cho trẻ qua từng các hoạt động của trẻ.

Bản thân đã có 8 năm cơng tác tại trường và đã phụ trách các khối lớp
mẫu giáo nắm được tâm sinh lý của từng lứa tuổi mẫu giáo, có tinh thần trách
nhiệm cao, có khả năng nhận thức, học hỏi đồng nghiệp.
Lớp học được trang bị tivi và mạng internet tạo điều kiện để cô cung cấp
những kỹ năng sống cho trẻ thơng qua các video, hình ảnh và trẻ tiếp nhận một
cách hứng thú.
Nhà trường phối hợp với phụ huynh mua sắm đầy đủ đồ dùng phục vụ cá
nhân của trẻ.


5

Tỷ lệ trẻ đi học chuyên cần được duy trì ổn định từ 97% trở lên, đây cũng
là điều kiện thuận lợi để tôi rèn kỹ năng sống cho trẻ tại lớp.
* Khó khăn:
Tuy có nhiều thuận lợi song vẫn cịn khơng ít những khó khăn trong q
trình tổ chức thực hiện công tác giảng dạy, cụ thể như sau:
Điều kiện của nhà trường còn hạn chế nên chưa thể đầu tư để trẻ tham gia
trải nghiệm các hoạt động ngoại khóa nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ.
Khơng gian cho các hoạt động còn chưa đảm bảo; các điều kiện về cơ sở
vật chất và trang thiết bị cịn có những khó khăn nhất định trong việc tổ chức các
hoạt động tập thể, các trò chơi... nhằm rèn luyện, giáo dục nề nếp, thói quen, các
kỹ năng sống cho trẻ, cũng như các điều kiện khác phục vụ cho việc chăm sóc
giáo dục trẻ.
Một số cháu đang sống trong điều kiện gia đình khó khăn bố mẹ đi làm xa
phải sống ở nhà với ông bà nên việc giáo dục rèn luyện các cháu về kỹ năng
sống và giao tiếp cịn hạn chế.
Ngày nay cơng nghệ thơng tin phổ biến, nhiều phụ huynh cho trẻ lạm
dụng quá nhiều vào internet, ti vi, các trò chơi điện tử và điều kiện về thời gian
để bố mẹ dành cho con cái còn hạn chế. Một số trẻ được bố mẹ, người lớn trong

gia đình nng chiều q mức nên trẻ khơng có tính tự lập, ích kỷ và lãnh cảm
với môi trường xung quanh...
Nhận thức của một số phụ huynh cịn hạn chế thường phó mặc cho giáo
viên và có những phụ huynh lại quan tâm quá mức khiến cho việc rèn kỹ năng
sống cho trẻ bị lệch lạc. Chính vì vậy ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành và
phát triển kỹ năng sống cho trẻ.
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ trước khi
thực hiện đề tài:
Từ thực trạng trên tôi đã lựa chọn những tiêu chí khảo sát để đánh giá kỹ
năng sống của trẻ lớp tôi trực tiếp giảng dạy với tổng số 25 trẻ:
Kết quả khảo sát lần 1 (trước khi áp dụng các biện pháp)
đầu năm học 2020 – 2021

TT

Nội dung khảo sát

Tổng
số trẻ

1

Kỹ năng giao tiếp tự tin, mạnh dạn với
bạn bè, người thân và mọi người xung
quanh

2
3

Đạt


Chưa đạt

Số
cháu

Tỷ lệ
(%)

Số
cháu

Tỷ lệ
(%)

25

15

60

10

40

Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ bản
thân trẻ

25


14

56

11

44

Kỹ năng hoạt động theo nhóm và khả
năng hợp tác thông qua các hoạt động
của trẻ

25

15

60

10

40


6

4

Kỹ năng bộc lộ cảm xúc, thái độ thông
qua các hoạt động tại nhóm lớp


25

15

60

10

40

Khả năng tự lập, chủ động tự tin, tính
5 đồn kết, nhường nhịn, biết chơi cùng 28
11
44
14
56
nhau trong lớp.
Từ kết quả khảo sát trên cho thấy kỹ năng sống của trẻ trong mơi trường
mầm non cịn có những hạn chế nhất định. Trong q trình nghiên cứu và tìm ra
các giải pháp, biện pháp sở dĩ tôi thấy được kết quả thực trạng trước khi áp dụng
các giải pháp biện pháp là do một số nguyên nhân, hạn chế sau:
Trong các hoạt động của trẻ hàng ngày chưa chú trọng phát triển kỹ năng
giao tiếp cho trẻ, chưa thường xuyên rèn luyện kỹ năng sống đơn giản cho trẻ;
chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc lồng ghép những kỹ năng sống vào các môn
học và các hoạt động trong ngày cho trẻ; chưa chú trọng đến việc rèn kỹ năng
thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự nhiên và xã hội cho trẻ thông
qua các hoạt động trong và ngoài trường học; phụ huynh chưa thực sự quan tâm
đến đặc điểm tâm sinh lý của con em mình; chưa hiểu và quan tâm đến công
việc của các cô ở trường. Là giáo viên phụ trách lớp tơi đã có kế hoạch và đề ra
các biện pháp sau:

2.3. Các giải pháp thực hiện.
2.3.1: Quan tâm chú trọng phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ:
Có thể nói rằng, kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng rất quan
trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, không chỉ quan trọng và cần thiết
đối với trẻ trong trường mầm non, mà ngay ở trong gia đình và tồn xã hội đều
rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt tạo
được sự tự tin trong mỗi người nói chung và đối với trẻ nói riêng, thơng qua
giao tiếp trẻ có thể diễn đạt hết được nhu cầu và mong muốn của trẻ đến với mọi
người, đây chính là yếu tố thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì thế
ngồi những kỹ năng sẵn có ở trẻ thì tơi ln quan tâm áp dụng nhiều biện pháp
khác nhau để phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
*Giáo dục kỹ năng giao tiếp với bạn bè:
Giáo dục kỹ năng giao tiếp với bạn bè là yếu tố cần thiết đối với trẻ thơ,
đây chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi đa văn
hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mơi trường này tạo cơ hội cho trẻ được
học tập, được giao lưu học hỏi và có cơ hội để khám phá những sở thích, những
mối quan hệ của trẻ với trẻ trong lớp, trong trường. Cụ thể, khi tôi tổ chức cho
trẻ học tập, vui chơi tôi đã tạo được nhiều cơ hội để trẻ được giao lưu với bạn
bè, theo nhóm theo tổ...
Ví dụ 1: Trong hoạt động vui chơi tôi tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi
bán hàng, trẻ này là người mua hàng, và những trẻ khác là người bán hàng, hay
đóng vai bác sĩ và bệnh nhân khám bệnh, nấu ăn.
Thơng qua những vai chơi trong trị chơi đóng vai tạo cơ hội cho trẻ được
giao tiếp với nhau trẻ thể hiện ngơn ngữ của mình một cách đầy đủ, trẻ biết chào
hỏi, biết cảm ơn, xin lỗi, thể hiện được cảm xúc vui buồn…Và với những trẻ
còn nhút nhát tơi có thể cùng trẻ thể hiện vai chơi của mình, ln định hướng


7


ngơn ngữ giao tiếp hoặc có thể hướng cho những trẻ có khả năng giao tiếp tốt
hơn chơi cùng bạn, như vậy trẻ cảm thấy tự tin và dần dần trẻ có thể tự mình chủ
động giao tiếp cùng các bạn khác một cách dễ dàng.
Ví dụ 2: Khi dạy trẻ khám phá khoa học “Dinh dưỡng cho trẻ” tôi u cầu
các nhóm tự thảo luận và cùng nhau tìm ra câu trả lời theo yêu cầu của cô như
các con có nhận xét gì về các loại thực phẩm này…tơi có thể khuyến khích trẻ,
đặt câu hỏi có vấn đề tại sao? như thế nào? có ý nghĩa gì?... để trẻ cùng nhau suy
nghĩ và tìm cách giải quyết. Ngồi ra, tơi cịn sưu tầm một số câu chuyện, bài
thơ mang tính giáo dục. Giúp trẻ hiểu về các nhân vật trong câu chuyện, bài thơ
cách dùng từ ngữ để giao tiếp với nhau như thế nào?
Ví dụ 3: Cho trẻ đóng kịch truyện “Ba cơ gái”, “Chú dê đen”, “Ai đáng
khen nhiều hơn”…Thông qua nội dung, ngôn ngữ của các nhân vật trong chuyện
trẻ hiểu sẽ tạo được cảm xúc tình cảm thân thiện và từ đó giúp trẻ tự tin trong
giao tiếp.
Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt động rất hiếu động nhưng
cũng có những trẻ chậm chạp, thụ động hoặc q nóng nảy...Vì thế, tôi luôn nắm
rõ đặc điểm tâm lý của trẻ để có thể rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ theo nhiều
phương pháp khác nhau để tránh sảy ra những va chạm về tính cách của mỗi trẻ.
Ví dụ 4: “Giao tiếp bằng nét mặt, bằng việc làm như giúp bạn nhặt đồ
chơi... hoặc nở một nụ cười thật tự nhiên”. Đây cũng chính là việc rèn kỹ năng
giao tiếp cho trẻ...Trong thực tế khi làm được điều này tôi nhận thấy kỹ năng
giao tiếp của trẻ linh hoạt hơn, năng động hơn và tự tin hơn trong bất cứ hồn
cảnh nào trẻ cũng có thể nhận được sự thân thiện và gần gũi với bạn bè.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh:
Trẻ không chỉ phát triển giao tiếp thông qua những người thân trong gia
đình mà chúng ta cịn dạy trẻ giao tiếp tốt với mọi người xung quanh là yếu tố
để phát huy khả năng giao tiếp cho trẻ.
Ví dụ 1:Thường xuyên cho trẻ giao tiếp với các cô, bác, bạn bè xung
quanh, biết chào hỏi lễ phép “Cháu chào bác ạ, cháu chào ông ạ” hay “Cháu cảm
ơn cô, cảm ơn chú” khi người lớn cho quà hay làm giúp trẻ một việc nào đó, khi

bạn bị ốm bố mẹ cần dạy trẻ biết quan tâm chia sẻ với bạn bè qua những lời nói
âu yếm tình cảm như: Bạn có đau khơng? Bạn có mệt khơng... Cịn với trẻ chưa
có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò
chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ
đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cơ, với bạn bè và người
khác.
Ngồi ra tơi cịn sưu tầm những bài thơ, câu truyện, bài hát có nội dung
giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như: Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là
hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi cho phụ huynh để phụ huynh nắm được và
giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng
tốt qua các bài thơ, câu truyện: Bà ốm, yêu bà, Thương ơng, bó hoa tặng cơ, tay
ngoan…
Ngồi ra tơi cịn cho trẻ tham gia trị chơi đóng vai để trải nghiệm những
kỹ năng chào hỏi và giao tiếp.


8

Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với
người lớn cho phù hợp.
Ví dụ 2: Trong bữa ăn hàng ngày tôi dạy trẻ biết ở trường mời cô giáo,
bạn bè “cháu mời cô mời cơm”, “tôi mời các bạn mời cơm”, ở nhà mời ông bà,
bố mẹ, anh chị... mời cơm.
Khi tập trung rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ tôi nhận thấy rằng trẻ đã có
những kỹ năng giao tiếp với bạn bè, người thân... trẻ đã có những kỹ năng giao
tiếp chuẩn mực, ngôn ngữ của trẻ rõ ràng mạch lạc, ý thức trong giao tiếp của trẻ
được nâng lên, tình cảm của trẻ dành cho bạn bè, bố mẹ, người thân cũng trở
nên gần gũi và thân thiện hơn.
2.3.2. Rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, mơi trường tự
nhiên và xã hội thông qua môi trường trong trường, lớp học và các hoạt

động ngoại khóa:
Rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, mơi trường tự nhiên và
xã hội là kỹ năng cần thiết trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Vì nếu kỹ năng giao tiếp là bước đệm thì thích nghi chính là bước tiếp theo để
hình thành kỹ năng sống với mơi trường bên ngồi cho trẻ. Nếu trẻ có kỹ năng
thích nghi tốt thì cuộc sống sau này của trẻ sẽ hồn tồn tự chủ, hướng tới một
mục đích tốt đẹp và tương lai tự chủ đó là những kết quả tốt cho cuộc sống của
trẻ sau này.
Có thể nói, mơi trường tự nhiên là mơi trường quan trọng nhất trong sự
hình thành nhân cách cho trẻ, chính vì vậy để tạo cho trẻ thích nghi với mơi
trường thì trước hết môi trường sống phải là một môi trường trong sạch, lành
mạnh, thân thiện và gần gũi đối với trẻ.
Trước hết tơi ln quan tâm hình thành và rèn kỹ năng tự lập cho trẻ.
Chẳng hạn như khi thời tiết thay đổi trẻ có thể tự lựa chọn các trang phục phù
hợp với thời tiết. Cho trẻ trải nghiệm với sự thay đổi của thời tiết.
Ví dụ 1: “Cho trẻ tắm nắng tập thể dục vào những buổi sáng” kể cả thời
tiết mùa đông và mùa hè cũng là một biện pháp giúp trẻ thích nghi cao, có sức
đề kháng cao trước mọi diễn biến phức tạp của thời tiết và các hiện tượng tự
nhiên. Đồng thời, tôi luôn chú ý nhắc nhở phụ huynh chú ý giữ ấm cho trẻ về
mùa đơng, thống mát về mùa hè để đảm bảo sức khỏe cho trẻ.
Ví dụ 2: Tơi tổ chức cho trẻ tham gia nhặt lá cây, nhổ cỏ trong vườn, tưới
nước cho cây, chơi các trò chơi với cát, nước để cho trẻ được tiếp xúc với những
điều kiện tự nhiên. Đây là một hoạt động thường xuyên mà tôi và trẻ thường hay
làm ở trường, thông qua những hoạt động này trẻ tỏ ra rất thích thú, qua đây tôi
cũng giáo dục cho trẻ biết bảo vệ mơi trường của mình, trẻ được thoả mãn nhu
cầu vui chơi và phát triển trí tị mị, óc sáng tạo ở trẻ. Trẻ có thể chơi với cát, đất
trong một chừng mực vừa phải vì điều đó giúp cho các bé vừa thỏa mãn được
tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng. Tuy nhiên, sự giám sát của
người lớn rất quan trọng và người lớn chỉ can thiệp khi có những dấu hiệu của
sự nguy hiểm khơng an tồn. Điều đó khơng chỉ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn

mà còn giúp trẻ sẽ hạn chế được tính ỷ lại sảy ra khơng đáng có ở trẻ.
(Tranh 1: Hình ảnh cơ cho trẻ tham gia nhổ cỏ cho vườn rau)


9

Ngồi việc rèn cho trẻ thích nghi tốt với mơi trường tự nhiên thì việc rèn
kỹ năng thích nghi với môi trường xã hội là quan trọng và cần thiết nên tôi đã
tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ kinh phí, phối hợp với phụ
huynh của lớp tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho trẻ theo tháng để trẻ được
trải nghiệm thực tế, trải nghiệm các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng ứng phó với
mọi người và xã hội, từ đó dần hình thành, trang bị và tích lũy những kỹ năng
cần thiết cho trẻ.
Ví dụ 3: Cô tổ chức cho trẻ đi thăm quan nhà văn hố thơn, tượng đài liệt
sĩ, khu di tích chùa Hoa Long và đề thờ Trần Khát Chân hoặc nhắc nhở khi trẻ đi
chơi công viên với bố mẹ phải biết chào hỏi người lớn lễ phép, biết bỏ rác đúng
nơi quy định, biết xếp hàng chờ đến lượt, biết ứng sử và có những hành vi văn
minh, lịch sự nơi cơng cộng; tạo dựng những tình huống giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ thông qua sự giúp đỡ của một người nào đó “lạ” đối với trẻ để trẻ được
trải nghiệm và phát huy ở trẻ khả năng ứng phó với những tình huống như:
người lạ cho q, người lạ bắt đi,...
Bằng những việc làm này chúng ta có thể giúp trẻ quen dần với nơi cộng
cộng, những nơi có đơng người qua việc cho trẻ tham gia các giờ học dạo chơi
tham quan, tham gia các hoạt động ở trường, các hoạt động ngoại khóa. Ngồi
ra, trong việc hòa nhập với xã hội, chúng ta cũng cần tập cho trẻ những thói
quen ứng xử với một phong cách văn minh, lịch sự. Đây là một thói quen mà
hầu hết người lớn chúng ta không để ý khi cho trẻ tham gia vào các hoạt động
trong môi trường xã hội. Người lớn chúng ta cần phải làm gương và rèn cho trẻ
có thói quen ngay từ nhỏ về cách ứng xử văn hóa nơi cơng cộng tạo cho trẻ có
tính kỷ luật khi tiếp xúc với mơi trường xã hội.

Có thể nói, rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự
nhiên và xã hội cho trẻ là điều kiện tốt nhất để hình thành các kỹ năng cơ bản
ban đầu cho trẻ, để trẻ có những hành trang kiến thức về mơi trường tự nhiên và
xã hội khi trẻ tham gia và các hoạt động. Từ đó trẻ khơng bị xa rời với thực tế
mà còn biết ứng xử văn minh lịch sự và có kỷ luật, đồn kết tương trợ và giúp
đỡ mọi người.
2.3.3. Rèn kỹ năng tự chăm sóc tự phục vụ và bảo vệ bản thân:
Việc dạy trẻ biết tự chăm sóc, tự phục vụ và bảo vệ bản thân chính là
chúng ta đã dạy trẻ, rèn cho trẻ tính chủ động, tính tự lập và biết mình phải làm
gì cho bản thân mà không phải phụ thuộc vào người khác trong mọi hồn cảnh
của cuộc sống sau này.
Ví dụ 1: Dạy trẻ biết tự mặc quần áo, biết tự xúc cơm ăn, tự lau dọn bàn
ghế giúp cô, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh...Khi học tập trẻ biết tự lựa
chọn đồ dùng phù hợp như sách vở... hoặc khi người lớn giao việc thì trẻ biết
cách sắp xếp cơng việc đúng theo khả năng của mình...
(Tranh 2: Hình ảnh cơ hướng dẫn trẻ lau mặt ở trường mầm non Vĩnh Thịnh)
Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc, tự phục vụ và bảo vệ bản thân là dạy trẻ tính
kỷ luật, tính tự chủ biết giúp đỡ người thân trong gia đình và mọi người xung
quanh. Bởi vì nếu trẻ khơng biết tự chăm sóc mình thì sẽ khơng cảm nhận được
sự vất vả, sự quan tâm của mọi người dành cho mình, biết được điều này thì trẻ


10

sẽ biết chia sẻ, gắn bó và biết dành tình cảm mà người thân đã cho mình. Có thể
nói là việc dạy trẻ trong ăn uống cũng là một cách bảo vệ bản thân trẻ tốt nhất.
Ví dụ 2: Đơi khi trẻ có những sở thích đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn
vài loại thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay thức uống nhất định. Tôi đã
thường xuyên chú trọng giáo dục trẻ biết ăn nhiều loại thực phẩm, món ăn khác
nhau đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng thì cơ thể mới khỏe mạnh.

Ngồi việc dạy trẻ biết tự phục vụ chăm sóc bản thân thì tơi cịn dạy trẻ
biết lao động tự phục vụ như trong các giờ học, giờ vui chơi.
Ví dụ 3: Trẻ tự biết lấy và cất đồ dùng theo yêu cầu và đúng nơi quy định.
Dạy trẻ cách bảo vệ bản thân để tránh xảy ra tại nạn thương tích trong ăn
uống như sặc cơm, sặc cháo, các dị vật trong ăn uống... trong sinh hoạt đảm bảo
an toàn trong trường học, trong gia đình và mọi lúc mọi nơi, đây cũng là tạo cho
trẻ có ý thức tự giác và khả năng bảo vệ bản thân.
Ví dụ 4: Các mối nguy hiểm trẻ cần bảo vệ như: gas, bàn là, điện, nước
nóng, dao kéo...
Ngồi ra tơi cịn chú trọng giáo dục cho trẻ biết được các mối nguy hiểm
đối với môi trường tự nhiên và xã hội để trẻ có ý thức và cách phịng tránh khi
bắt gặp các mối nguy hiểm như: bắt cóc, bắt nạt, lạc đường... cần phải đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông để tránh tai nạn...Các mối nguy hiểm bất ngờ:
Cháy nổ, kẹt thang máy, chó cắn, ong đốt, ngộ độc...biết về các hiện tượng tự nhiên
như động đất, lũ lụt, bị sa vào vũng lầy, đuối nước... thông qua các video hoặc
hình ảnh qua tivi để trẻ hứng thú tiếp nhận và khắc sâu ghi nhớ hơn.
Các mối nguy hiểm có thể sảy ra đối với trẻ, vì thế chúng ta cần chú trọng
giúp trẻ biết tránh xa và không đến gần những mối nguy hiểm đó, mặt khác các
mối nguy hiểm này đều có nguy cơ xảy ra nếu chúng ta không giáo dục trẻ kịp
thời để trẻ biết cách phân biệt và tự bảo vệ. Thông qua kỹ năng này nhà trường,
giáo viên và trẻ đã có thể phịng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong trường
mầm non cũng như ở nhà và ở nơi công cộng.
2.3.4 Phát triển kỹ năng hoạt động theo nhóm và khả năng hợp tác
thơng qua các hoạt động của trẻ:
Trong các hình thức tổ chức dạy học thì hình thức dạy trẻ hoạt động theo
nhóm hiện nay đang được rất nhiều giáo viên lựa chọn và sử dụng, đặc biệt đối
với trẻ 5 - 6 tuổi thì khả năng hoạt động theo nhóm của trẻ là rất lớn. Trẻ thường
u thích trị chơi do mình tự lựa chọn và tự đề ra cách chơi, tự phân nhóm. Vì
vậy để việc giáo dục mang tính hiệu quả cao, tơi đã tiến hành bài dạy thơng qua
trị chơi giờ học, trị chơi đóng vai, diễn kịch…Với niềm say mê tự khám phá trẻ

đã tiếp thu kiến thức thực tế để vận dụng trong cuộc sống, mỗi trẻ sẽ giới thiệu
nhiều kết quả bất ngờ. Giáo viên đưa ra những bài tập, những thử thách, trị chơi
mang tính chất tập thể địi hỏi trẻ phải tự tìm nhóm, tự hợp tác bàn luận trong
nhóm để hồn thành u cầu của cơ. Đây chính là ý thức tập thể, tính đồn kết
khi trẻ tham gia hoạt động theo nhóm.
Ví dụ: Cho trẻ tham gia các trị chơi dân gian, mèo đuổi chuột, bịt mắt bắt
dê, câu chuyện cáo và thỏ, hay trong giờ học tôi đã đặt câu hỏi yêu cầu tổ, nhóm
trả lời, tự khắc trẻ sẽ tự tập hợp nhóm của mình để bàn bạc thống nhất để
đưa ra kết quả.


11

Như trong giờ học khám phá khoa học “Một số đồ dùng trong gia đình”
tơi đã tổ chức cho trẻ hoạt động theo nhóm ngồi việc phát huy tính tích cực,
chủ động và sáng tạo trong hoạt động của mình, trẻ có thể bàn nhau để tìm cho
tổ mình nhóm đồ dùng mà cơ u cầu...
Rồi trong hoạt động góc tơi hướng trẻ chơi theo nhóm và trẻ có thể bầu
nhóm trưởng để phân cơng cơng việc cho nhau, tạo sự đoàn kết và ý thức trách
nhiệm của từng thành viên khi được giao nhiệm vụ.
Bằng những hình thức khác nhau tơi ln khuyến khích trẻ hoạt động theo
nhóm để từ đó trẻ có những kỹ năng độc lập, nhanh nhẹn hoạt bát và có khả
năng làm thủ lĩnh độc lập trong cuộc sống sau này của trẻ. Khi trẻ tham gia vào
một hoạt động nhóm địi hỏi trẻ phải có sự làm việc nghiêm túc, phải phân cơng
rõ ràng để đạt được kết quả. Tôi luôn động viên để trẻ thấy được sự nỗ lực của
cả nhóm trong quá trình trẻ làm việc theo nhóm. Khi nhận xét tơi đã chú trọng
để trẻ cảm nhận được mỗi thành viên trong nhóm đều rất quan trọng và đều đã
làm việc rất tốt. Dù kết quả đó có đạt yêu cầu hay khơng đạt u cầu thì trẻ vẫn
cảm thấy giá trị của sự đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm, tự biết động
viên và an ủi, tạo niềm vui cho nhau thông qua kết quả tập thể đạt được.

Việc dạy cho trẻ kỹ năng, hoạt động theo nhóm và tự giải quyết các vấn
đề cần thiết ở môi trường thực tế hiện nay là một điều hết sức cần thiết, đặc biệt
là ở lứa tuổi mầm non. Ví dụ: Khi cho trẻ cùng tập bài tập đồng diễn; ném vịng
cổ chai; ném bóng vào rổ… từ những kinh nghiệm truyền thụ về kiến thức cơ
bản và lịng nhiệt tình, tâm huyết mà tôi đã truyền đạt cho trẻ, trẻ đã biết phối
kết hợp với nhau trong các động tác ngồi ra cịn biết tự mình giải quyết những
tình huống sảy ra, biết sáng tạo linh hoạt trong các phần thi, biết nhắc nhở bạn
trong khi thực hiện bài tập mà khơng có cơ giáo.
2.3.5.Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác trong ngày:
Đối với trẻ thơ cháu nào cũng muốn tham gia vào tất cả các hoạt động
trong ngày để trải nghiệm trong cuộc sống. Vì vậy tơi ln khuyến khích, động
viên tất cả các trẻ tham gia chơi càng đông càng vui để tạo cho trẻ tính độc lập
và học hỏi lẫn nhau từ đó tạo cho trẻ có tinh thần tập thể. Từ đó hình thành cho
trẻ những kỹ năng đơn giản nhất để khi trước khi bước vào một hoạt động nào
đó trẻ có thể dễ dàng làm được.
Ngồi hoạt động chung, hoạt động vui chơi ra tơi cịn hướng dẫn dạy trẻ
kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác như:
- Trong giờ đón trả trẻ: Tơi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ,
giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định
ngồi ra tơi cịn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, khơng
nói leo khi người khác nói, khơng tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…
- Trong giờ thể dục sáng: Tôi hướng dẫn trẻ cách đứng thẳng hàng, bạn
sau nhường bạn trước, có tính chủ động biết vị trí của mình ở đâu trong hàng, đi
theo hàng lối, khơng chen lấn xơ đẩy bạn…
(Tranh 3: Hình ảnh cô và trẻ tập thể dục sáng ở trường mầm non Vĩnh Thịnh)
Trong giờ chơi, hoạt động góc: Tơi hướng dẫn trẻ tự chọn nhóm với nhau
để chơi, tự thỏa thuận các vai chơi trong nhóm để biết được trong nhóm chơi
nhiệm vụ của mình là làm gì.



12

Trong giờ chơi, hoạt động ngồi trời: Tơi đưa kỹ năng sống tự tin: Một
trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin,
lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân
cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Trong giờ vệ sinh, tơi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa
tay bằng xà phịng, cách chải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy
định…
Trong giờ ăn cũng vậy tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi
thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao độ phục vụ, rèn
tính tự lập như: Biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được lần
lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, khơng nói
chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất,
không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng
khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy
định, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến
người khác…. Ngoài ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài
thơ “Giờ ăn” để dạy kĩ năng vệ sinh và giờ ăn cho trẻ.
2.3.6. Cơng tác phối kết hợp giữa gia đình, giáo viên, nhà trường và xã hội:
Có thể nói, cơng tác phối kết hợp giữa gia đình, giáo viên, nhà trường và
xã hội là một trong những biện pháp quan trọng và là trách nhiệm của mọi người
trong sự hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Gia đình chính là cái nôi là tổ ấm, là
điểm tựa cho trẻ trong cuộc sống, chính vì vậy, ở trong gia đình, trẻ ln được
ơng bà, bố mẹ quan tâm chăm sóc từ miếng ăn đến giấc ngủ đồng thời cũng có
thể làm thay đổi những nhu cầu mà bản thân trẻ có thể làm được…
Ngay từ đầu năm học thông qua các buổi họp phụ huynh tôi đã phối kết
hợp với nhà trường để trao đổi nội dung kế hoạch giáo dục hình thành kỹ năng

sống cho trẻ, để phụ huynh hiểu và thống nhất biện pháp phối hợp cùng giáo
viên thực hiện nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ. Đây là một q trình lâu dài
và địi hỏi việc giáo dục rèn luyện phải được thực hiện ở cả nhà trường, gia đình
và xã hội thì mới có hiệu quả cao. Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng
ngày trong giờ đón trả trẻ về sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh
nắm bắt kịp thời và tiếp tục rèn luyện cho trẻ ở nhà. Ngược lại, những cử chỉ và
việc làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tơi thường nêu ra và tuyên dương trẻ
trước lớp để trẻ khác cùng học tập. Đồng thời phối hợp để phản ánh kết quả qua
lại giữa gia đình, nhà trường đều biết để cùng giải quyết.
( Tranh 4: Hình ảnh cơ trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trẻ)
Ví dụ 1: Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại nhóm lớp, tơi thường nhìn thấy
những ảnh hưởng của trẻ từ phía gia đình hay tiếp xúc với mọi người xung
quanh thì trẻ thường có những hành vi sai lệch trong q trình giáo dục trẻ, và
tôi đã thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh thơng qua các giờ đón trả trẻ
hoặc gặp trực tiếp tại gia đình để trao đổi tình hình học tập thơng qua những kỹ
năng sống của trẻ.


13

Tôi tuyên truyền phụ huynh cần dành thời gian gần gũi, quan tâm đến trẻ
nhiều hơn. Bố mẹ phải xem trẻ như những người bạn, cùng trẻ chia sẻ cảm xúc
vui buồn, từ phía trẻ để trẻ sẵn sàng bày tỏ, trò chuyện bộc lộ khả năng, năng lực
cảm xúc của mình. Ở bên trẻ khơng có một áp lực nào, trẻ sẽ mạnh dạn hồn
nhiên và sống đúng với những suy nghĩ của mình. Đó là điều kiện khơng thể
thiếu để trẻ phát triển kỹ năng chủ động, tích cực, sáng tạo của trẻ.
Ví dụ 2:Trong bữa cơm hàng ngày tại gia đình, phụ huynh có thể đặt
những câu hỏi, gợi mở và trả lời với trẻ những câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của
trẻ, có như vậy thì trẻ cảm nhận được niềm vui trong bữa ăn cùng với bố mẹ
người thân trong gia đình.

Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá để giúp các bậc phụ
huynh có thể hiếu hơn những nội dung mà trẻ được tiếp thu lĩnh hội ở trường
mầm non.
Những kỹ năng sống tốt đẹp chỉ được hình thành trên nền tảng là tình yêu
thương, sự quan tâm và tin tưởng lẫn nhau của các phụ huynh, học sinh, cô giáo,
nhà trường và tồn xã hội để đứa trẻ sẽ có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để
trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
* Đối với bản thân:
Trong một năm thực hiện nghiên cứu, tôi cũng gặt hái được một số thành
công nhất định như sau:
Tất cả học sinh lớp tơi đều u thích, hứng thú tham gia vào các hoạt
động trong ngày của trẻ, lồng ghép vào các môn học để rèn kĩ năng sống cho trẻ,
các bạn có thể chơi với nhau, giúp đỡ nhau cùng tham gia hoạt động. Bản thân
tơi đã tích lũy và đã có một số kinh nghiệm khi lồng ghép các kĩ năng sống vào
các hoạt động giáo dục từ đó đã đạt được những thành công nhất định.
Từ những biện pháp thông qua việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì
tơi đã có được những kinh nghiệm trong việc vận dụng các kỹ năng trong
hoạt động giáo dục, trong môi trường sinh hoạt của trẻ ở gia đình, nhà trường,
trong đó, mơi trường giáo dục tại nhóm lớp mà tơi đã tâm huyết trong q
trình chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ đầu năm đã giúp cho tơi có một hành
trang tạo dựng, rèn luyện cho trẻ có kỹ năng sống tốt đẹp, hành vi đúng đắn,
khả năng giao tiếp tốt và tự lập tự phục vụ, tự giải quyết những vấn đề khi
đến với trẻ.
* Đối với đồng nghiệp:
Tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ.

Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín tiềm năng đối với phụ huynh và
với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm.
Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có
được những kỹ năng sống ngay từ khi còn nhỏ.
* Đối với phụ huynh:


14

100% phụ huynh đã quan tâm con em mình rất nhiều, thấy được các cháu
năng động, tự lập một phần nào đó cũng n tâm và cũng thơng cảm và chia sẻ
những khó khăn với cơ giáo trong việc dạy dỗ và quản lý học sinh ở trường.
Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ
các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thơng qua bảng
thơng tin dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp.
Ngày một cảm thấy hài lịng với kết quả của con mình đạt được và đã có
sự quan tâm bằng việc ủng hộ giáo viên những nguyên vật liệu để giáo viên và
trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp...
* Đối với phía trẻ:
Kết quả sau khi áp dụng một số biện pháp tôi đã tiến hành khảo sát đánh
giá cuối năm cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát trên trẻ lần 2 (sau khi áp dụng các biện pháp)
Tháng 3 năm 2021
Sau khi áp dụng biện pháp
Đạt
Chưa đạt
Tổng
TT
Nội dung khảo sát
số trẻ

Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
cháu
(%)
cháu
(%)
Kỹ năng giao tiếp tự tin, mạnh dạn
1 với bạn bè, người thân và mọi
25
24
96
1
4
người xung quanh.
Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ
2
25
23
92
2
8
bản thân trẻ.
Kỹ năng hoạt động theo nhóm và
3 khả năng hợp tác thông qua các
25
24
96
1

4
hoạt động của trẻ.
Kỹ năng bộc lộ cảm xúc, thái độ
4 thông qua các hoạt động tại nhóm
25
24
96
1
4
lớp.
Khả năng tự lập, chủ động tự tin,
5 tính đồn kết, nhường nhịn, biết
25
23
92
2
8
chơi cùng nhau trong lớp.
Nhìn vào bảng kết quả đánh giá trên cho thấy việc rèn các kỹ năng sống
cho trẻ đã có những chuyển biến rõ nét. Trẻ rất tự tin trong giao tiếp, lời nói diễn
đạt từ ngữ mạch lạc, rõ ràng. Khả năng thích nghi với mơi trường cũng như khả
năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng hợp tác hoạt động theo nhóm đã phát huy
tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong mọi hoạt động, trẻ đã tập trung vào các
mối quan hệ giữa bạn bè, cô giáo và người thân, trẻ đã có kỹ năng tự kiểm sốt
cảm xúc và tạo niềm vui, đặc biệt là tính kỷ luật và mối quan hệ cá nhân của trẻ
đã được nhân lên. Khả năng giải quyết mọi vấn đề của trẻ đã được chủ động, trẻ
biết kiểm sốt tình cảm của mình với các bạn và người thân. Điều đó đã chứng
minh giáo dục kỹ năng sống ngay từ lứa tuổi mầm non là nền tảng vững chắc để
phát triển toàn diện cho trẻ.



15

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của
con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho các cháu trí
tuệ, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, sớm đem lại cho trẻ có ý thức và khả
năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến
những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho xã hội. Qua quá trình thực
hiện đề tài bản thân tôi đã rút ra được những kết luận như sau:
Cần phải nhận thức sâu sắc những quan điểm và nội dung giáo dục trong
thời kỳ đổi mới hiện nay để lựa chọn nội dung phù hợp trong quá trình rèn kỹ
năng sống cho trẻ.
Cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, biết tổ chức linh hoạt và vận
dụng nhiều biện pháp, phân tích, giải thích khích lệ, quan tâm chú trọng trẻ có
đặc điểm tâm sinh lý khác thường để giáo dục phù hợp.
Tích cực tìm tịi học hỏi để nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt nhằm
trang bị cho mình những kiến thức trong q trình chăm sóc giáo dục.
Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn, trong mọi tình
huống để thực hiện thành cơng ý tưởng của mình trong việc rèn kỹ năng sống
cho trẻ.
Phát huy công tác tuyên truyền, vận động với phụ huynh trong công tác
giáo dục và hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
Tổ chức nhiều hoạt động tập thể, tạo mọi cơ hội cho trẻ được gần gũi, tiếp
xúc, được trải nghiệm để hình thành các kỹ năng sống.
Cơng tác tham mưu tích cực với nhà trường và phối kết hợp với các đoàn
thể trong nhà trường để cùng xây dựng kế hoạch bàn bạc thống nhất để cùng
thực hiện đây cũng là biện pháp tốt nhất để rèn kỹ năng sống cho trẻ.
3.2. Kiến nghị:

* Đối với Phòng Giáo dục&Đào tạo:
Qua một thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở bậc học mầm non là rất quan trọng và cần thiết.
Vì vậy kiến nghị các cấp lãnh đạo tiếp tục triển khai thực hiện rộng rãi nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non.
Mở lớp tập huấn chuyên môn, các hội thảo về nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho giáo viên đến từng cơ sở.
* Đối với nhà trường:
Thường xuyên kiểm tra giám sát để kịp thời việc tổ chức thực hiện công
tác CSGD, đặc biệt chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất cũng như kinh phí để tổ chức các
hoạt động giáo dục nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ.
Tổ chức cho giáo viên đi tham quan trường bạn để học tập kinh nghiệm
trong việc trong việc tổ chức rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Tổ chức tập huấn cho giáo viên thường xuyên chuyên đề rèn kỹ năng
sống cho trẻ.
Trên đây là “Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thịnh - Huyện Vĩnh Lộc - Tỉnh Thanh Hóa”.


16

bản thân ln mong được tiếp thu ý kiến đóng góp bổ sung của Hội đồng khoa
học các cấp để sáng kiến được hoàn thiện và áp dụng vào thực tế đạt hiệu quả
cao hơn./.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Vĩnh Thịnh, ngày 06 tháng 05 năm
ĐƠN VỊ

2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

Người viết sáng kiến

Đỗ Thị Mùi

Xác nhận của lãnh đạo Phòng GD&ĐT.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài thơ “Trẻ con” của Hồ Chí Minh – Đăng trên báo Việt Nam độc lập
106 ngày 21/9/1941 – Hồ Chí Minh tồn tập (tập 3) NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội năm 2000.
2. Hồ Chí Minh tồn tập (trang 345 – NXB Chính trị Quốc gia)
3. Kho tàng văn học Việt Nam (ca dao – tục ngữ Việt Nam – Tập 2 )
NXB Kim Đồng.
4. Nghị quyết IV của ban chấp hành Trung ương Khóa VII.
5. Trang báo VNEXPR trên mạng Internet, tư vấn trực tuyến về nâng cao
hiệu quả giáo dục trong các trường học và phương pháp giáo dục vượt trội cho
trẻ từ 0 - 11 tuổi của tiến sĩ Phạm Thị Thu Hiền chuyên gia Giáo Dục đầu đời
Việt Nam thực hiện ngày 13/06/2013
6. Sách bồi dưỡng cao nâng cao về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong
trường mầm non dành cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm non của nhóm tác
giả; Lương Thị Bính; Nguyễn Thanh Giang; Phạm Thị Huyền; Hoàng Thị Thu
Hương; Bùi Thị Lâm; Lê Thị Bích Ngọc của nhà xuất bản Gíao Dục. Xuất bản
năm 2017.
7. Các bài giảng chuyên đề hướng dẫn xây dựng giáo dục rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ của PGD Vĩnh Lộc đã triển khai tại huyện năm học 20192020.



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Mùi
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường mầm non Vĩnh Thịnh.

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

“Một số giải pháp rèn kỹ Phòng GD
năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 Vĩnh Lộc
- 6 tuổi ở trường mầm non
Vĩnh Thịnh”.

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

A


Năm học
đánh giá xếp
loại

2020 - 2021


(Tranh 1: Hình ảnh cơ cho trẻ tham gia nhổ cỏ cho vườn rau)

(Tranh 2: Hình ảnh cơ hướng dẫn trẻ lau mặt ở trường mầm non Vĩnh Thịnh)


(Tranh 3: Hình ảnh cơ và trẻ tập thể dục sáng ở trường mầm non Vĩnh Thịnh)


( Tranh 4: Hình ảnh cơ trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trẻ)



×