Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi thông qua hoạt động trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TRUNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA VIỆC TỔ CHỨC
CÁC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

Người thực hiện: Bùi Thị Kim Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Hà Long
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên đề


MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

TRANG

MỤC LỤC

1

1

MỞ ĐẦU


2

1.1

Lý do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

3

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4

Phương pháp nghiên cứu

3

2

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


4

2.1

Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

4

2.2

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN

5

2.2.1

Thực trạng chung

5

2.2.2

Thực trạng của bản thân

5

2.2.3

Thực trạng của học sinh


5

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

14

2.4.1

Đối với hoạt động giáo dục

14

2.4.2

Đối với bản thân

15

2.4.3

Đối với đồng nghiệp


15

2.4.4

Đối với nhà trường

15

3

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

15

3.1

Kết luận

15

3.2

Kiến nghị

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17


SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

18

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều
do Giáo dục mà nên”.
Thật vậy: Nếu trẻ được sống trong một mơi trường giáo dục tốt thì sẽ có
những đức tính tốt và ngược lại trẻ sống trong một mơi trường thiếu giáo dục thì
nhân cách của trẻ sẽ phát triển không tốt.
Trong các hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non. Hoạt động vui chơi
là một trong những hoạt động chủ đạo, xong hoạt động học tập được thể hiện
qua các giờ hoạt động chung có chủ đích đó là hoạt động cung cấp chủ yếu có
hệ thống kiến thức cần trang bị cho trẻ.Vậy tổ chức các hoạt động trải nghiệm
như thế nào để trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội một cách đơn giản nhưng
hiệu quả nhất. Muốn làm tốt được việc này trước hết địi hỏi người giáo viên
phải có tâm huyết với nghề, say sưa suy nghĩ tìm tịi, chu đáo tỉ mỉ, sáng tạo
hướng dẫn trẻ tham gia vào hoạt động một cách có khoa học để trẻ bước đầu
nắm bắt, hình thành những kỹ năng đơn giản theo độ tuổi. Qua đó cơ giáo nhẹ
nhàng lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trải
nghiệm một cách dễ dàng. Đối với trẻ mầm non trong quá trình phát triển, nếu
được uốn nắn, giáo dục tốt các em sẽ có một nhân cách phát triển tồn diện, bền
vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự
khẳng định mình trong cuộc sống... Bên cạnh đó, trẻ em đang trong giai đoạn
học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp

ngay từ khi còn nhỏ. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ
có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự
tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả
năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm
và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách
sống tích cực cho một cá nhân trong xã hội hiện đại, nhằm tạo dựng những hành
vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực nhằm rèn luyện nên
một cá nhân con người có nhân cách tốt. Chính vì vậy những năm gần đây mục
tiêu giáo dục trẻ mầm non của Bộ giáo dục và đào tạo rất chú trọng tới việc lấy
trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực của trẻ, điều này được thể hiện rõ ở
công tác triển khai phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực và xây dựng mơi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm"; và mới nhất là
trong các quan điểm, giải pháp được đưa ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện về giáo dục và đào tạo.
Từ những thực trạng trên tơi ln có suy nghĩ mình cần phải làm một việc
gì đó thiết thực trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ, với mục đích giáo dục trẻ
thật tốt để trở thành con ngoan, trị giỏi. Đây cũng chính là nhiệm vụ của tôi đề
ra trong năm học này là đẩy mạnh giáo dục “Kỹ năng sống cho trẻ mầm non”
nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục hiện nay.
Để thực hiện đầy đủ hơn câu nói “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”,
một thế giới văn minh, đầy ắp những con người biết chia sẻ, cảm thơng, u
thương, có thái độ, hành vi ứng xử đúng với tình huống đã và đang có thể xảy ra
2


trong xã hội. Ngay từ lứa tuổi mầm non, quan trọng là chúng ta cần hình thành
“kỹ năng sống” phù hợp. Chính vì lẽ đó mà tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp
rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua việc tổ chức các hoạt động trải
nghiệm” để nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích tơi nghiên cứu Đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho
trẻ 5 - 6 tuổi thông qua việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm”: Nhằm mục
đích tìm ra những nội dung cần thiết để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, mà giáo
viên cần phải nắm được và có những biện pháp hữu hiệu sử dụng trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi. Từ đó phát huy nâng cao tính tích cực, năng
động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ,
nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt
động học, hoạt động chơi, hoạt động ăn, ngủ của trẻ. Nhằm thúc đẩy, nâng cao
hiệu quả giáo dục trong nhà trường nói riêng và nâng cao chất lượng đổi mới
giáo dục nói chung. Mặt khác chuẩn bị tốt về mặt tâm thế vững vàng cho trẻ
bước vào lớp lớn và là nền tảng để ban đầu để trở thành những người tốt.
Đồng thời cũng là để chia sẻ với các bạn đồng nghiệp về những biện pháp
thực tế tôi đã áp dụng và thấy có hiệu quả, để các bạn đồng nghiệp có thể tham
khảo và áp dụng một cách hợp lý vào trường, lớp của mình và cùng nhau góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, ngành giáo dục mầm non nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ
5 - 6 tuổi trong trường mầm non.
Tổng số 31 cháu tại nhóm lớp Lá 2 trẻ 5 - 6 tuổi do tôi trực tiếp giảng dạy
tại trường mầm non Hà Long - Hà Trung - Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến thực tiễn và công tác giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ đạt được các nhóm kỹ
năng sống, tìm hiểu các biện pháp dạy KNS cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các biểu hiện, hành vi, các kỹ năng của
trẻ thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại, trao đổi với chị em đồng nghiệp để

rút ra những bài học, kinh nghiệm hay để đưa vào dạy KNS cho trẻ, trao đổi với
phụ huynh để tìm hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình trao đổi trị truyện vớ trẻ,
đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá trình thực hiện các biện pháp giáo dục.
* Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm gương…
giúp trẻ quan sát và bắt chước thực hành thường xuyên những kỹ năng sống cần
hình thành cho trẻ.
* Phương pháp thực hành: Bao gồm các phương pháp trò chơi, giao việc,
trải nghiệm, những phương pháp này giúp trẻ bắt chước, làm thử và tích cực
thực hành thường xuyên các kỹ năng sống mà cơ giáo hướng dẫn trẻ.
* Phương pháp tốn học: Xử lý những số liệu khảo sát, đã đạt được kết
3


quả, mức độ đạt được, để rút ra kinh nghiệm hay cho vấn đề nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới trong sáng kiên kinh nghiệm.
Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6
tuổi thông qua việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm”
Đề tài đã sử dụng một số biện pháp mới có tính hiệu quả cao, nhằm hình
thành và phát triển một số kỹ năng sống cơ bản cho trẻ 5- 6 tuổi. Thực hiện tốt
một số biện pháp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giúp trẻ phát
triển một cách toàn diện về nhân cách.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
“Học để cùng chung sống” là một trong những vấn đề then chốt của giáo
dục thế giới. Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90 các tổ chức Liên Hiệp Quốc
như WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp
quốc), UNESCO (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã
chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. Bởi lẽ
những thử thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi
hỏi cao hơn là những kỹ năng đọc, viết, tính tốn tốt nhất.

Ở Việt nam từ năm học 2008 - 2009. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát
động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”
với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các
hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ
động và ý thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm
non (ban hành kèm theo thơng tư số 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016) có
mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu
trên, nội dung quan trọng nhất cần đưa vào giáo dục trẻ là “Giáo dục một số kỹ
năng sống cho trẻ mầm non”.
Trẻ em mầm non tuổi đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách.
Vì vậy những kỹ năng sống của trẻ ở giai đoạn này có những đặc trưng như sau.
Kỹ năng sống phải phù hợp với lứa tuổi, hình thành và phát triển cho trẻ
những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, khơi
dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các
cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời của trẻ.
Do đặc thù của trẻ em lứa tuổi mầm non là đang làm quen với xã hội và
thế giới xung quanh, nên những kỹ năng sống thường gần gũi với cuộc sống của
trẻ và được mở rộng dần trong mối quan hệ qua lại giữa trẻ với gia đình, nhà
trường và cộng đồng xã hội cùng môi trường tự nhiên. Nội dung kỹ năng sống
của trẻ phải phong phú và tồn diện để giúp các bé thích ứng với cuộc sống. Do
vậy, đặc điểm kỹ năng sống của trẻ cũng phù hợp với yêu cầu về nội dung giáo
dục mầm non.
Ở độ tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó
góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học tập,
lĩnh hội những kinh nghiệm sống của xã hội để trẻ vận dụng vào trong cuộc
sống sau này. Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát
triển và mở rộng, từng cá nhân nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin
4



thường xuyên sẽ trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm
sóc, giáo dục trẻ ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ
trong cuộc sống hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về
chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho
trẻ được trải nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau
cùng với các bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp
với nhau trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ
kinh nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ
được tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ
hội để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy
sự phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường tận tình chỉ đạo về cơng
tác chun mơn, cách chăm sóc ni dưỡng giáo dục trẻ. Thường xuyên mở các
lớp chuyên đề, hội giảng để chị em thảo luận. Bên cạnh đó cịn tạo mọi điều kiện
tốt nhất trang bị về cơ sở vật chất và các phương tiện dạy học đầy đủ phù hợp
với yêu cầu của nội dung giáo dục mầm non hiện nay.
Được sự quan tâm của các bậc phụ huynh, các ban nghành đoàn thể ở địa
phương tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học… đồ
dùng đồ chơi tương đối đầy đủ, phù hợp với độ tuổi của trẻ, có khả năng kích
thích trẻ tham gia vào các hoạt động.
Mơi trường ngồi lớp đã xanh sạch đẹp, có khn viên cho trẻ hoạt động.
Tuy nhiên việc tạo mơi trường trong lớp cịn có nhiều hạn chế. Tại các góc tạo ra
các mảng tranh trang trí, nhưng chưa tạo ra mơi trường hoạt động mở, chưa linh
động, chưa thuận tiện trong việc thay đổi theo chủ đề, chủ điểm, để kích thích
trẻ hoạt động, khám phá tìm kiếm, tăng cường các hoạt động trải nghiệm.
2.2.2. Thực trạng của bản thân
Bản thân tôi đã đạt trình độ trên chuẩn và là giáo viên đứng lớp 5-6 tuổi

nhiều năm, ln nhiệt tình tâm huyết với nghề, có tinh thần học hỏi đồng
nghiệp. Yêu nghề mến trẻ nên đã nhận được sự quan tâm chia sẻ của các bậc phụ
huynh.
Bản thân cũng hiểu rõ tâm sinh lý của trẻ và vận dụng các phương pháp,
hình thức đổi mới vào các hoạt động nhằm thu hút trẻ tham gia tích cực vào các
hoạt động từ đó lựa chọn thiết kế các hoạt động khám phá tìm kiếm, tăng cường
các hoạt động trải nghiệm, thiết kế các trò chơi để gây hứng thú trong quá trình
học tập, giúp trẻ hòa nhập nhanh vào cuộc sống, vào sự phát triển của xã hội.
2.2.3. Thực trạng của học sinh
- Năm học 2020 -2021 tôi được phân công dạy lớp lá 2 Trường mầm non
Hà Long với tổng số là 31 cháu, 15 cháu nam, 16 cháu nữ. Trong đó có 22 cháu
là người dân tộc Mường.
- Đa số trẻ chưa có kỹ năng tự phục vụ cho bản thân như kỹ năng rửa tay,
rửa mặt đúng cách, kỹ năng chải đầu buộc tóc…
- Trẻ chưa có kỹ năng tự bảo vệ chưa nhận biết rõ những dấu hiệu có thể
gây ra tai nạn thương tích như: Nước sơi, dao sắc nhọn, ổ điện, ao hồ sông
5


suối… Trẻ chưa có kỹ năng hợp tác, phối hợp với mọi người xung quanh và
thiếu tự tin trong giao tiếp, ứng xử.
- Trẻ hầu hết chưa có các kỹ năng: Giao tiếp, chào hỏi…do phụ huynh đều
là nhà nông và cơ bản là họ chưa có khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu
là nuông chiều con cái với suy nghĩ đơn giản là trẻ còn nhỏ chưa biết gì, chiều
nó một chút cũng khơng sao. Nhưng điều đó đã tạo nên những hành vi và nhận
thức sai lệch của trẻ dần dần sẽ biến thành thói quen khó sửa.
- Đa số phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ.
- Hầu như trẻ được sống trong một môi trường quá bao bọc bố mẹ, ông bà
quá cưng chiều làm hết mọi việc cho trẻ khiến trẻ quen dựa dẫm, khơng có tính

tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.
Bảng khảo sát trước khi thực hiện biện pháp.
Số trẻ chưa
Số trẻ đạt
đạt
Tổng
STT
Nội dung khảo sát
số trẻ Số Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
trẻ
%
trẻ
%
1

Kỹ năng tự phục vụ bản thân

31

18

58,1

13

41,9

2


Trẻ tự tin trong giao tiếp, ứng xử
và các hành vi văn minh, lịch sự.

31

15

48,4

16

51,6

3

Trẻ có kỹ năng hợp tác, giúp đỡ,
chia sẻ

31

15

48,4

16

51,6

4


Trẻ có kỹ năng nhận biết và
tránh nơi nguy hiểm

31

15

48,4

16

51,6

5

Kỹ năng giữ gìn vệ sinh và bảo
vệ mơi trường

31

18

58,1

13

41,9

Từ những số liệu trên cho thấy kỹ năng sống và việc thực hiện kỹ năng
sống của trẻ còn rất thấp. Trẻ đạt chưa được trên 60%, bên cạnh đó số trẻ chưa

đạt đang ở mức cao trên 40%. Vì vậy là một giáo viên mầm non tôi luôn trăn trở
với những thực trạng đó nên đã mạnh dạn tìm cách trang bị kiến thức về kỹ năng
sống và bền bỉ tận tâm rèn luyện những kỹ năng sống cơ bản nhất cho trẻ lớp tôi
thông qua đề tài: “Biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm”. Nhằm giúp trẻ lớp tơi có được những
thói quen và hành vi đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội, góp phần hình
thành nhân cách ban đầu cho trẻ.
Sau khi đã chọn đề tài tôi tổng hợp lại từng tiêu chí, cháu nào chưa đạt thì
lập một danh sách riêng và có kế hoạch rèn trẻ thơng qua các hoạt động vui
chơi, hoạt động học tập, giờ đón trả trẻ...
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
=> Các giải pháp
* Giải pháp 1. Xây dựng kế hoạch khoa học, hợp lý, phù hợp đặc điểm
của trường lớp:
6


* Giải pháp 2: Tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Nội dung 1: Hình thành kỹ năng tự phục vụ bản thân
Nội dung 2: Phát triển sự tự tin, trẻ tự tin trong giao tiếp, ứng xử và có
hành vi văn minh, lịch sự:
Nội dung 3: Hình thành kỹ năng hợp tác giúp đỡ chia sẻ
Nội dung 4: Rèn kỹ năng nhận biết tránh xa nguy hiểm
Nội dung 5: Hình thành kĩ năng giữ gìn vệ sinh - Bỏ rác đúng nơi qui định.
* Giải pháp 3: Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
=> Các biện pháp
* Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch khoa học, hợp lý, phù hợp đặc điểm
của trường lớp và tâm sinh lý của trẻ.
Đây là một biện pháp quan trọng góp phần thành cơng trong q trình

nghiên cứu. Trước hết tôi căn cứ vào điều kiện thực tế của trường, lớp, tình hình
của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, căn cứ vào chương
trình giáo dục mầm non của độ tuổi 5 - 6 tuổi.
Tơi xây dựng hồn chỉnh nội dung kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ trong
đó có cơng tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi.
Về nội dung giáo dục kỹ năng sống tôi bám sát vào nội dung của chương
trình giáo dục mầm non theo thơng tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016 để
xây dựng cụ thể chi tiết.
Căn cứ kế hoạch giáo dục của nhà trường. Kế hoạch chuyên đề của phó
hiệu trưởng
Về mục tiêu căn cứ vào kế hoạch đầu năm để đưa ra mục tiêu phấn đấu.
• Thời gian tôi thực hiện là trong năm học 2020- 2021
• Xin được hỗ trợ kinh phí để thực hiện biện pháp
• Phối kết hợp với phụ huynh cùng thực hiện
* Biện pháp 2: Tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng
sống cho trẻ mầm non.
Nội dung 1: Hình thành kỹ năng tự phục vụ bản thân
Đây là một trong những phương pháp rất quan trọng trong giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ bởi sử dụng phương pháp thực hành, trải nghiệm, hình thức
nêu gương đánh giá để trẻ thấy và thực hiện tốt hơn. Cụ thể ngay từ đầu năm tôi
đã tập cho trẻ ý thức tự cất đồ dùng cá nhân gọn gàng, ngăn nắp trước khi vào
lớp cũng như lúc ra về. Đầu tiên phân công bạn tổ trưởng đi kiểm tra xem bạn
nào chưa thực hiện được, cuối ngày cho các bạn trong lớp nhận xét và nêu
gương những bạn thực hiện tốt và chưa tốt, đồng thời cô giáo động viên những
bạn đã làm tốt và những bạn chưa làm tốt cần cố gắng. Sau đó tơi có thể đưa ra
hình thức khen thưởng như cắm cờ, khen ngợi, động viên trẻ trước lớp để trẻ
thực hiện tốt hơn. Từ đó việc cất đồ dùng khơng cịn là “hành động” mà trở
thành “ý thức”, trẻ tự thực hiện không cần phải đợi nhắc nhở hay kiểm tra.
* Ngồi ra tơi cịn xây dựng góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ chơi
thường xuyên như: Khi hướng dẫn trẻ đi vệ sinh tôi hướng dẫn cho trẻ biết cách

đóng mở cửa khi đi ra vào nhà vệ sinh, cách lấy nước uống và biết lấy đủ nước
để uống khơng lãng phí nước, biết xếp hàng chờ đến lượt, cách tự chải và tết tóc
7


cho mình, cho bạn.

Hình ảnh trẻ đang trải tóc cho bạn
Các kỹ năng tự phục vụ đó như: Trong giờ ăn, ngủ, vệ sinh kỹ năng tự
phục vụ được rèn luyện, được giáo dục thường xuyên. Chẳng hạn trẻ biết trước
khi ăn là phải rửa tay và rủa tay sau khi đi vệ sinh, tự lấy ghế vào bàn ăn, ăn
xong biết cất dọn bàn ghế, tự thay quần áo, xếp quần áo gọn gàng, tự lấy gối và
nệm của mình để ngủ, ngủ dậy tự cất đồ dùng. Biết tự lấy - cất - sắp xếp đồ
dùng đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp sau khi chơi xong vào chỗ qui định của từng
góc chơi.
Ví dụ: Trong giờ ăn trẻ tự chia cơm chia thìa. Trong giờ ngủ trẻ tự lấy
gối xếp xối và cất gối vào tủ đúng nơi quy định.

Hình ảnh trẻ đang trải chiếu và gấp chăn
Cứ như thế ngày này qua ngày khác, trẻ tự thực hiện mà không cần giáo
viên phải nhắc nhở. Kỹ năng sống ấy không những được trẻ thực hiện ở trường
8


mà còn thực hiện ở nhà, hay ở bất cứ đâu khi trẻ đi đến.
Trong giờ ăn cũng vậy tôi đã dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ, rèn tính tự lập như biết
tự đi lấy bát thìa theo số lượng của nhóm mình và biết ăn uống lịch sự, khơng
nói chuyện trong khi ăn và biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn
uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất, không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai

từ tốn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát
thìa đúng nơi quy định, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm
ảnh hưởng đến các bạn. Trước giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài thơ
như: “Giờ ăn, Mời bạn ăn” - Để lồng ghép kỹ năng vệ sinh và giờ ăn cho trẻ.
Đây là cơ hội tốt nhất để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy tơi đã
thường xuyên tổ chức cho trẻ các trò chơi mang tính lành mạnh để trẻ được
tham gia học tập và vui chơi.
Nội dung 2: Phát triển sự tự tin, trẻ tự tin trong giao tiếp, ứng xử và có
hành vi văn minh, lịch sự:
* Phát triển ở trẻ sự tự tin thông qua hoạt động giáo dục.
Theo Dale - một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì “Nếu bạn
thật sự tin tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được ước mơ, bạn có thể bước
trên đường bằng phẳng mà người khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong
những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng
của trẻ.
Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
Nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tơi dùng lời động viên trẻ một
cách chân thành. Và trong mọi việc tơi ln nói “con có thể làm được” để dần
củng cố niềm tin vào bản thân cho trẻ.
Ví dụ: Trong giờ thể dục, một số trẻ sợ độ cao nên không dám trèo lên
xuống thang leo, tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt động đó ngay lập tức
mà sẽ khuyến khích trẻ với lời động viên “con có thể trèo được…”để trẻ tự tin
thể hiện bản thân mình trước các bạn.
- Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ: Tài năng đặc biệt cũng có thể làm
tăng thêm sự tự tin cho trẻ. Tơi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi
đắp sở trường đặc biệt của trẻ.Ví dụ: Trẻ có khả năng vẽ đẹp tơi sẽ tạo nhiều cơ
hội ở lớp để trẻ được thể hiện sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí
lớp cùng cơ... Đồng thời trao đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ
ngoại khóa để nâng cao tài năng cho trẻ….
- Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ đặc

điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tơn, một trẻ khơng có sự tự tơn thì
khơng thể có sự tự tin. Ví dụ: Khi trẻ xung phong lên đọc thơ, hoặc kể chuyện,
hoặc hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất mạnh dạn…để lần sau
trẻ muốn và không e ngại khi biểu diễn trước đám đông…

9


Hình ảnh trẻ tự tin biểu diễn văn nghệ
Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ không
thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai lầm đó
để trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai
lầm nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc phải sai
lầm đó nữa.
Ví dụ: Khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại như
vậy, tơi bày ra các trị chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với nhau.
Kỹ năng tự tin giao tiếp ứng xử đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống
của mỗi người. Ứng xử tốt sẽ giúp chúng ta xây dựng và duy trì mối quan hệ
hữu ích, thành cơng trong cơng việc, xây dựng một hình ảnh cá nhân ấn tượng,
cũng như đạt được những mục đích trong cuộc sống.
Kỹ năng tự tin giao tiếp là nền tảng giúp trẻ nhận biết các giá trị sống và
hình thành các kỹ năng sống. Trẻ của lớp tôi sống ở vùng nông thôn nên bị ảnh
hưởng rất nhiều những từ ngữ không lành mạnh từ phía người lớn hay từ phía
các anh chị lớn tuổi hơn. Để giúp trẻ có kỹ năng tự tin giao tiếp tốt tôi đã tiến
hành dạy trẻ qua các hình thức sau:
- Kỹ năng tự tin giao tiếp với người lớn và mọi người xung quanh trẻ:
Đối với người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép, dạy trẻ nói đủ câu,
khơng nói trống khơng. Làm tốt được điều này tôi phải quan sát, uốn nắn trẻ
thường xuyên, khi thấy trẻ nói chưa đủ câu cần sửa cho trẻ ngay. Vào các thời điểm
đón trẻ, qua giờ học, giờ chơi tôi trao đổi với phụ huynh cùng kết hợp sửa cho trẻ.

- Kỹ năng tự tin giao tiếp với bạn bè:
Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội mà hàng ngày trẻ được
tiếp xúc, là nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng là nơi đa sở thích. Chính vì vậy
tơi có thể dạy trẻ tìm hiểu, khám phá những sở thích của chính bản thân, quan
tâm đến bạn bè. Tơi đã tìm hiểu tính cách của từng trẻ trong lớp để thuận tiện
cho việc dạy và rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Việc rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ
thường thể hiện rõ nhất ở giờ hoạt động góc và nhất là góc chơi phân vai, vì ở
góc chơi phân vai trẻ được chơi đóng vai các nhận vật như: vai bố, mẹ, con,
người bán hàng, cô cấp dưỡng… mà những vai đó cần thể hiện bằng lời nói.
Ví dụ: Qua trị chơi Bán hàng:
Người bán hàng chào hỏi khách hàng: Cơ, chú mua gì ạ?
Người đi mua hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một cân
10


gạo, bao nhiêu vậy cơ?
+ Trị chơi đóng vai Y tá - Bác sĩ:
Bác sĩ biết hỏi thăm bệnh nhân ân cần, “Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt
lắm khơng?...”
Y tá phát thuốc dặn dò bệnh nhân uống thuốc.
Bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá.
Bên cạnh đó tơi giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói: Ví dụ: Hoạt
động“điện thoại bạn bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn (2 bạn ở gần nhau).
Theo dõi q trình trị chuyện của trẻ.
Hay giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác. Ví dụ: Hoạt
động“chúc bạn chóng khỏe”: Nếu trong lớp có trẻ bị ốm khơng đến lớp được,
Tơi sẽ tổ chức cho trẻ cả lớp làm thiệp để gửi lời thăm hỏi và chúc bạn nhanh
khỏe rồi gửi tới bạn bị ốm…
Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ
tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử

trong xã hội. Vì vậy, tơi thường xun tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ
trong lớp như tổ chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt
động góc để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau.
=> Sau khi áp dụng nội dung giáo dục này tôi nhận thấy trẻ dần dần phát
triển sự tự tin, có kỹ năng giao tiếp, ứng xử, chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi
người.Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao
tiếp lịch sự có phần chuyển biến rất tốt.Với những hình thức như vậy dần dần trẻ
lớp tôi đã biết thưa gửi, nói năng lễ phép với cơ giáo, với người lớn và mọi
người xung quanh.
Nội dung 3: Hình thành kỹ năng hợp tác giúp đỡ chia sẻ
Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hịn núi cao”
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác, giúp đỡ và chia sẻ cho trẻ mầm non
là rất cần thiết. Bởi trẻ mầm non cịn nhỏ, có nhiều việc khơng thể tự làm được
nếu khơng có người khác giúp đỡ.
Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và
làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.

Hình ảnh trẻ chơi theo nhóm
11


Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “Con
và bạn đã cùng nhau làm những việc gì? Trị chơi nào con thích hơn khi có bạn
cùng chơi? Qua việc trị chuyện giúp trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng
thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc.
* Thơng qua hoạt động ngồi trời lồng ghép tích hợp kỹ năng giúp đỡ,
chia sẻ tơi sử dụng tình huống “đang đi dạo chơi cùng trẻ thì cơ bị ngã”, lúc này
tôi sẽ dựa vào cách giải quyết của trẻ mà rèn cho trẻ “kỹ năng giúp đỡ chia sẻ”,

phải biết đỡ bạn đậy khi thấy bạn bị ngã, không những vậy mà khi đi bất cứ đâu
nếu có gặp người lớn tuổi, em nhỏ, người tàn tật thì giúp đỡ, cảm thơng với hồn
cảnh của họ.
Kỹ năng hợp tác, chia sẻ như trẻ cùng chơi với nhau, chia đồ chơi với bạn,
cùng với bạn tạo nên sản phẩm, chơi với em để mẹ làm việc nhà...
+ Cho trẻ tập đóng kịch: Theo nội dung các câu chuyện trong chương
trình giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”(có các cảnh mọi người hợp
tác với nhau để nhổ được củ cải)…Đóng kịch theo bài thơ “gấu qua cầu”, theo
truyện “đơi bạn tốt”…
Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử,
chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi người.Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp
tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao tiếp lịch sự có phần chuyể n biến rất tốt.
Với những hình thức như vậy dần dần trẻ lớp tơi đã biết thưa gửi, nói
năng lễ phép với cơ giáo, với người lớn và mọi người xung quanh.
Nội dung 4: Rèn kỹ năng nhận biết tránh xa nguy hiểm
Trẻ em vốn rất nhạy cảm với các điều kiện, yếu tố tác động bên ngoài. Tất
cả các yếu tố xung quanh đều có thể gây tai nạn thương tích cho trẻ nếu như trẻ
khơng có những kỹ năng nhận biết và phịng tránh. Do đó, dạy trẻ nhận biết các
dấu hiệu có thể gây ra tai nạn thương tích là việc làm rất quan trọng và cấp thiết.
Trong trường, lớp mầm non, các dấu hiệu có thể gây ra tai nạn thương tích
cho trẻ xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, tơi cần thường xun trị chuyện với
trẻ để cung cấp và củng cố các kỹ năng nhận biết các dấu hiệu đó. Các tai nạn
thương tích thường gặp đối với trẻ trong trường mầm non đó là: Ngã, hóc, sặc,
bỏng, điện giật, đuối nước, ngộ độc do hóa chất... Để bao quát hết các trường
hợp, tôi đã nghiên cứu, lập kế hoạch để đưa các dấu hiệu nhận biết phịng tránh
các tai nạn thương tích vào các thời điểm trong ngày và các tháng để dạy trẻ.
Trẻ em học nhanh nhất thơng qua trị chơi. Khoa học đã chứng minh, trẻ
em lĩnh hội và tiếp thu kiến thức tối đa là thơng qua các trị chơi. Dựa vào đặc
điểm đó, tơi tổ chức nhiều trị chơi trải nghiệm cho trẻ chơi để giúp trẻ nhận biết
các dấu hiệu có thể gây ra tai nạn thương tích để trẻ phịng tránh.

VD: Trị chơi: Bước nhảy thơng minh
Chuẩn bị: Cơ: Các hình ảnh về đồ dùng an tồn và khơng an tồn.
- Trẻ: 2 ơ vng màu xanh và màu đỏ
Cách chơi: Cô cho trẻ đứng tự do quanh lớp. Khi cơ giơ hình ảnh về các
loại đồ dùng thì trẻ phải quan sát và gọi tên đồ dùng đó.
- Nếu đồ dùng khơng an tồn trẻ nhảy vào ơ màu đỏ.
- Nếu đồ dùng an tồn trẻ nhảy vào ơ màu xanh.
Những tình huống xảy ra tai nạn thương tích là những yếu tố tiềm ẩn nguy
12


hiểm mà khơng phải trẻ nào cũng có thể nhận ra và biết hết về chúng. Bản chất
của trẻ nhỏ là hiếu động, thường xuyên hoạt động với các đối tượng khác nhau;
đặc biệt là với những đối tượng tạo cho trẻ sự hứng thú. Ghi nhớ số điện thoại
của bố mẹ hay người thân để gọi về khi bị lạc, tuyệt đối không đi theo người lạ;
không nhận quà bánh của người lạ vì rất có thể bị bắt cóc...là những kỹ năng mà
trẻ cần được trang bị để đề phịng bất trắc xảy ra. Thơng qua việc đặt các tình
huống giả định giúp trẻ hình thành khả năng nhận biết, phân biệt những tình
huống tốt xấu, nguy hiểm mà trẻ có thể gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Từ
đó, trẻ có thể tự giải quyết, xử lí các tình huống phịng tránh tai nạn thương tích
bảo vệ bản thân khi trẻ cảm thấy khơng an tồn.
Những tình huống tôi lựa chọn thường quen thuộc, hay gặp đối với trẻ
mầm non. Tơi có thể tạo ra các tình huống ở bất kỳ nơi nào, thời điểm nào; có
thể lồng ghép các tình huống phịng tránh tai nạn thương tích ngay cả trong hoạt
động ăn, ngủ và hoạt động học tập.Trong quá trình hoạt động, trẻ gặp nhiều tình
huống nguy hiểm như: Trẻ leo trèo, Trẻ chạy nhảy xô đẩy lẫn nhau (va vào các
vật cản xung quanh..), Trẻ bị người lạ rủ rê và xâm hại bản thân, trẻ vừa ăn vừa
cười đùa...
- Các mối nguy hiểm ngoài xã hội:
Tơi tạo các tình huống cho trẻ: "Có người lạ cho trẻ ăn kẹo",".Khi trẻ ở

nhà một mình có người đến xin nước uống", "Đi chơi trẻ bị lạc bố, mẹ"....Tôi
đưa ra các câu hỏi cho trẻ suy nghĩ, tự đưa ra ý kiến của mình từ đó giáo viên có
thể gợi mở cho trẻ để trẻ tư duy tốt hơn. Sau tơi phân tích, giải thích cho trẻ và
giúp trẻ có phương án giải quyết tối ưu nhất.
VD: Tơi hóa trang thành người lạ cầm gói bim bim vào lớp lại gần trẻ đưa
cho trẻ và dụ giỗ trẻ đi chơi….
Nếu trẻ cầm gói bim bim đi theo tôi, tôi sẽ bế trẻ và đi thật nhanh ra ngồi.
Nếu trẻ khơng nhận và k lại gần tơi có nghĩa là trẻ đã biết cảnh giác trước
nguy cơ bắt cóc.
Sau đó tơi giáo dục trẻ khơng được đi với người lạ, không nhận quà từ
người lạ, nếu bị người lạ bế đi phải la thật to gọi mọi người đến cứu.
Ngồi ra tơi cịn sưu tầm hình ảnh có nội dung về các mối nguy hiểm mà
có thể sảy ra đối với trẻ cho trẻ xem để từ đó giáo dục trẻ, giúp trẻ giải quyết các
tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Nội dung 5: Hình thành kĩ năng giữ gìn vệ sinh - Bỏ rác
đúng nơi qui định.
* Thơng qua hoạt động ngồi trời lồng ghép tích hợp kỹ năng sống biết
giữ gìn cảnh đẹp thiên nhiên, vệ sinh mơi trường, vệ sinh nơi cơng cộng.
Ví dụ: Khi đi dạo chơi vườn hoa lúc “ngắm nhìn hoa đẹp” trẻ thể hiện
cảm xúc vui vẻ, thoải mái cơ hỏi trẻ: Để có được vườn hoa đẹp như thế này là
nhờ có cơng của ai? Các con cần phải làm gì để cho vườn hoa thêm đẹp?.... từ
đó trẻ u thích cái đẹp, khơng được hái hoa vì hoa làm đẹp cho thiên nhiên.
Ví dụ: Trong chủ đề “Nước và hiện tượng tự nhiên” cô giáo cho trẻ dạo chơi
sân trường, tận dụng tình huống “cơn gió thổi làm lá cây rơi xuống sân trường - sân
trường không còn sạch đẹp’, vậy làm thế nào để sân trường lại sạch đẹp? (kích
thích trẻ trả lời bàng hành động nhặt lá cây rơi, nhặt rác bỏ vào thùng rác)… Hình
13


thành được kỹ năng ứng xử văn minh cho trẻ, không những ở trường mà trẻ sẽ thực

hiện việc giữ vệ sinh ở nhà, ở lớp, ở nơi công cộng, trên xe buýt…
* Hay thông qua hoạt động học cô kể cho trẻ nghe một tình huống khác
qua câu chuyện: “Bé hiểu ra rồi”.
Bạn An là 1 bạn suốt ngày chỉ biết xem tivi bạn vô cùng lười biếng và bạn
cũng là người vô cùng tùy tiện vứt rác bừa bãi ra nhà. Tiện đâu là vứt đấy, có lần
ăn chuối xong An ném luôn vỏ chuối ra giữa nhà. Bé Bi em của bạn An đang tập
đi giẫm phải nên ngã oạch ln ra giữa nhà, em bé khóc toáng lên. Mẹ đang ở
dưới bếp hốt hoảng chạy lên ơm em bé vào lịng dỗ dành, mẹ nói với An: Mẹ đã
nhắc con nhiều lần rồi - rác phải bỏ đúng nơi qui định chứ. Sau lần nhắc nhở ấy
có hơm An đi chơi về lúc gần đến nhà thì bất ngờ có 1 túi rác to rơi từ trên tầng
2 xuống ngay trước mặt xuýt trúng đầu An. Khiến bạn giật mình lúc này An bực
lắm, bạn nghĩ: “Ai mà mất lịch sự vậy nhỉ? Quăng rác bừa bãi như vậy thật là
quá đáng, tí trút nữa là túi rác rơi trúng vào đầu mình rồi”. Nghĩ vậy bạn ngước
mắt nhìn lên thì thấy 1 bạn vừa đi vào trong nhà “chắc cậu ta là người vừa vứt
rác thể hiện hành động vừa rồi”. Về đến nhà An kể lại ngay chuyện mình vừa
gặp trên đường đi cho mẹ nghe: Mẹ ơi vừa nãy đang trên đường đi thì có ai đó
ném 1 túi rác xuống đường làm gần rơi trúng đầu con, con sợ hết hồn luôn. Chắc
là bạn đó vứt rác xuống đường, bạn đó mất lịch sự quá phải không me?
Đúng rồi đấy, con đã thấy chưa, thói quen xả rác bừa bãi là 1 thói quen
xấu vừa khơng văn minh lịch sự vừa ảnh hưởng đến môi trường sống. Vậy mà
nhiều lần mẹ nhắc con mà con khơng chịu thay đổi. Thế con có nhặt túi rác bỏ
vào thùng rác ven đường không?
Nghe mẹ phân tích bạn An đã hiểu ra lỗi của mình và bạn ấp úng nói với
mẹ: Mẹ ơi, con muốn là 1 người lịch sự, từ nay con sẽ bỏ rác đúng nơi qui định
mẹ ạ. Bây giờ con xin phép mẹ xuống đường nhặt túi rác bỏ vào thùng rác qui
định mẹ nhé.
Mẹ An ôn tồn bảo: Ừ con hãy đi làm đi. Bạn An vâng lời mẹ đi xuống
đường nhặt túi rác bỏ vào thùng luôn, tiện tay bạn cịn nhặt ln những chiếc túi
li lơng và vỏ sữa mà mọi người vứt ra lòng đường cho sạch sẽ trong khi trời
nắng chói chang mồ hơi trên áo An ướt lấm tấm nhưng bạn cảm thấy vui vì bạn

đã làm được 1 việc tốt có ích bảo vệ môi trường trong lành, sạch sẽ.
Qua bài học của bạn An trẻ đã nhận ra 1 thông điệp lớn là khơng lên vứt
rác bừa bãi đó là thói quen xấu làm ơ nhiễm mơi trường hãy thể hiện mình là 1
người văn minh lịch sự bằng hành động đẹp “Bỏ rác đúng nơi qui định các bạn
nhé”. Mỗi hành động tích cực của các con sẽ làm cho mơi trường sống chúng ta
ngày càng xanh - sạch - đẹp - văn minh hơn.
* Biện pháp 3: Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối
kết hợp với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để
giáo dục trẻ. Gia đình giáo dục tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt.
Ngược lại, trẻ sẽ khơng có gì khi khơng được gia đình quan tâm giáo dục. Như
vậy, xuất phát điểm của trẻ là chưa công bằng. Giáo dục kỹ năng sống trong nhà
trường sẽ xóa đi rào cản đó. Vì vậy, Giáo viên và phụ huynh đều phải tiến hành
14


giáo dục trẻ song song với nhau. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh
dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non, để phụ huynh nhận thức rõ ý nghĩa vấn đề để cùng nhà trường giáo
dục trẻ.
Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về
sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục
rèn luyện cho trẻ ở nhà. Đối với những trẻ mà giáo viên cần lưu ý hơn đó là trẻ
có thể lực yếu, suy dinh dưỡng, trẻ thụ động, trẻ hay nghịch thì tơi ln tranh thủ
đến tận nhà để trực tiếp gặp gia đình của cháu trao đổi về thực trạng của cháu và
cùng với gia đình trẻ có biện pháp giúp đỡ cho trẻ tốt hơn. Những cử chỉ và việc
làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tơi thường nêu ra và tuyên dương trẻ đó
trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác cùng học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đồi với hoạt động giáo dục, bản

thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục
Sau khi áp dụng các giải pháp và các biện pháp trong kinh nghiệm trên
tôi thấy rằng môi trường trong lớp các khu vực hoạt động đã thực sự trở thành
niềm đam mê, cuốn hút đối với trẻ và kích thích tính tích cực, tính độc lập và
hoạt động sáng tạo của trẻ. trẻ đã chủ động với Các hoạt động tìm tịi, khám phá
khoa học, trải nghiệm thực tế, biết sử dụng các giác quan của cơ thể, vận dụng
những hiểu biết của bẩn thân để tìm hiểu sự vật, hiện tượng. Mặt khác tơi tích
cực xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tăng cường tổ chức các
hoạt động trải nghiệm, khám phá tạo ra nhiều, nhiều cơ hội khám phá khác nhau,
từ đó việc phát triển kĩ năng, năng lực của trẻ đã chiếm lĩnh tri thức, trẻ sẽ là
trung tâm trong mọi hoạt động cịn tơi chỉ là người hướng lái trẻ.
BẢNG KẾT QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU
Sau nghiên cứu
TT

Nội dung

TST

Đạt

Chưa đạt Tăng +
%

31

31

100


2

Trẻ tự tin trong giao tiếp, ứng xử
31
và các hành vi văn minh, lịch sự.

30

96,8

1

3,2

+ 48,4

3

Trẻ có kỹ năng hợp tác, giúp đỡ,
31
chia sẻ

29

93,5

2

6,5


+ 45,1

4

Trẻ có kỹ năng nhận biết và tránh
31
nơi nguy hiểm

30

96,8

1

3,2

+ 48,4

5

Kỹ năng giữ gìn vệ sinh và bảo vệ
31
môi trường

31

100

1 Kỹ năng tự phục vụ bản thân


SL

%

Giảm -

SL

+41,9

+41,9
15


Nhìn vào bảng kết quả đánh giá sau khi áp dụng biện pháp thì ở các tiêu
chí số trẻ đạt tăng thêm trên 40% so với khảo sát đầu năm. Tơi thấy rằng trẻ ở
lớp tơi đã có những thay đổi chuyển biến rất rõ rệt.
2.4.2. Đối với bản thân
Với vai trò là một người giáo viên hướng dẫn trẻ hoạt động trải nghiệm
bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm đó là:
- Tự tin, sáng tạo hơn trong các hoạt động trải nghiệm cho trẻ, trong giảng
dạy chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn.
- Biết phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín đối với phụ huynh
và học sinh, biết tự chuẩn bị các nội dung và điều khiển các cuộc họp phụ huynh
học sinh...
- Mạnh dạn tự tin làm mọi việc, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có
được những kỹ năng ngay từ khi cịn nhỏ.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp
Trong q trình thử nghiệm tơi cùng đồng nghiệp trao đổi với nhau rút

được kinh nghiệm để thực hiện giáo dục hoạt động trải nghiệm cho trẻ tốt hơn.
Tạo điều kiện cho chị em học hỏi kinh nghiệm tổ chức các hoạt động trải
nghiệm, tìm tịi khám phá trong sinh hoạt tổ chuyên môn.
2.4.4. Đối với nhà trường
Nhà trường tích lũy được kinh nghiệm tổ chức các hoạt động khám phá
trải nghiệm cho trẻ làm cẩm nang cho các hoạt động của nhà trường.
Có thêm tài liệu tổ chức khám phá trải nghiệm cho trẻ bổ sung vào tủ sách
của nhà trường làm tư liệu tham khảo phục vụ cho môn học, và các nghiên cứu
của giáo viên
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ kết quả đạt được như trên tôi rút ra một số kinh nghiệm và kết luận
rằng trẻ Mầm non vô cùng hiếu động với các hoạt động tìm tịi, khám phá khoa
học, trải nghiệm thực tế. Việc tổ chức cho trẻ tìm tòi, khám phá khoa học, trải
nghiệm là con đường ngắn nhất, hữu hiệu nhất, tích cực nhất để giúp trẻ tích lũy
tri thức, kinh nghiệm sống, làm phong phú thêm cuộc sống, mở rộng thêm hiểu
biết về thế giới xug quanh và ứng dụng vào cuộc sống.
Đối với giáo viên cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Tăng
cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm, khám phá, luôn lấy trẻ làm trung tâm
trong mọi hoạt động. Tạo ra nhiều cơ hội khám phá khác nhau, để phát triển kĩ
năng, năng lực, chủ động tham gia các hoạt động giáo dục
Tăng cường công tác xây dựng môi trường hoạt động “Mở” đa dạng,
phong phú, thân thiện và phù hợp với trẻ. Tích cực sư tầm các nguyên vật liệu,
học liệu, đặc biệt là nguyên vật liệu từ thiên nhiên để hướng dẫn trẻ làm và tự
làm đồ dùng đồ chơi. làm tăng thêm khả năng hoạt động trải nghiệm, tìm kiếm
khám phá mở rộng phạm vi hiểu biết và khả năng lĩnh hội các tri thức trong
cuộc sống, nó bồi đắp thêm tâm tư, tình cảm, cảm xúc, những phẩm chất đạo
đức, những giá trị thẩm mĩ, giá trị văn hoá xã hội, và làm giầu thêm kinh nghiệm
và kỹ năng sống cho trẻ.
Qua việc áp dụng một số biện pháp của bản thân tôi vào việc tăng cường

16


tổ chức các hoạt động trải nghiệm, khám phá nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện trong trường đã được ban giám hiệu, đồng nghiệp đồng thuận, đánh giá cao
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Có được kết quả đó là
nhờ có sự giúp đỡ của ban giám hiệu, của đồng nghiệp đã nhiệt tình ủng hộ, thực
hiện nghiêm túc cũng như có sự linh hoạt sáng tạo, đầu tư nghiên cứu kỹ từng
chủ đề, chủ điểm, tích cực làm đồ dùng đồ chơi, phối hợp và thống nhất quan
điểm giáo dục. Đánh giá được mức độ và nhu cầu hứng thú của trẻ để có những
nội dung giáo dục phù hợp. Để tạo cho trẻ có cảm giác được chăm sóc yêu
thương, gần gũi, để thực sự trẻ “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện trong nhà trường cũng như trong
việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học.
3.2. Kiến nghị
* Đối với phòng giáo dục.
Đề nghị Phòng giáo dục quan tâm đến các hoạt động chuyên môn, chuyên
đề, tổ chức các giờ đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh cho giáo viên các trường học tập.
* Đối với nhà trường.
Tăng cường trang thiết bị giáo dục như máy chiếu đa năng, đàn nhạc. Cài
đặt phần mềm chương trình học vui kitmar Để giáo viên có điều kiện sử dụng và
ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác giảng dạy.
Trên đây là một số biện pháp nhỏ của tôi trong việc tổ chức các hoạt động
khám phá, trải nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ 5-6 tuổi trong
trường. Những nội dung trong bài viết này là tự bản thân tôi đã đúc rút trong q
trình cơng tác và nghiên cứu khơng có sự sao chép. Kính mong các cấp lãnh
đạo, các đồng nghiệp tham khảo góp ý, bổ xung để tơi rút kinh nghiệm trong q
trình nghiên cứu được hồn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Long, ngày 15 tháng 3 năm 2021.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của tôi viết, không sao
chép nội dung người khác.
Người viết bài

Bùi Thị Kim Dung

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tìm đọc tham khảo một số biện pháp khám phá trải nghiệm cho trẻ qua
sách báo, trên mạng, tạp chí mầm non, bạn đồng nghiệp.
Sách hướng dẫn các hoạt động phát trải nghiệm cho trẻ mầm non theo bộ
chuẩn phát triển trẻ.
Sách chương trình giáo dục mầm non theo thông tư 28.
Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo. Sách
phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống…

18


SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN NGHÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Kim Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hà Long

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, C)

Năn học
đánh giá
xếp loại

STT

Tên đề tài SKKN

Cấp
đánh giá
xếp loại

1

Một số biện pháp giúp trẻ học
tốt âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi
trong trường mầm non

Cấp
huyện

C

2017-2018


2

“Một số biện pháp giáo dục
bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi trong trường
mầm non”

Cấp
huyện

B

2019-2020

19



×