Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 rèn kỹ năng sống thông qua môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.12 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HOẰNG HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2
VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU

Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngoan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoằng Trinh
Sáng kiến thuộc lĩnh vực (mơn): Tiếng Việt

THANH HĨA NĂM 2021


MỤC LỤC
STT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.2.1
2.2.2
2.3
2.3.1


2.3.2
2.3.3
2.4
3
3.1
3.2

Tiêu đề từng phần

Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng
Kết quả thực trạng
Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
Vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của
học sinh.
Các giải pháp thực hiện
Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu
hỏi gợi ý.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị


1. Mở đầu

Trang
1
1
2
2
2
3
3
3
4
5
5
5
6
11
12
14
14
14


1.1. Lý do chọn đề tài.
Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặt biệt quan trọng đối với hoc
sinh, giúp các em phát triển tồn diện hình thành những cơ sở thế giới khoa học.
Trong đó Tập làm văn là một trong những phân mơn có tầm quan trong đặc biệt
ở bậc tiểu học nhất là học sinh lớp 2 (vì ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2
học sinh mới bắt đầu được học, được làm quen). Phân môn Tập làm văn trong
môn Tiếng việt hội tụ đủ 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Đối với học sinh

lớp 2 thì đây là một phân mơn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, đang ở bước đầu
rèn nói và viết từ, câu, đoạn, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh
đó cịn có một số khó khăn khách quan như điều kiện, hoàn cảnh sống của học
sinh ở địa bàn dân cư lao động chủ yếu là nhà nơng và con gia đình đi làm cơng
ty, gia đình khơng có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngơn ngữ
cịn hạn hẹp, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo về vốn từ… Điều
này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân mơn Tập làm văn nói
riêng.
Ngồi ra phân mơn Tập làm văn lớp Hai cịn rèn cho học sinh có kĩ năng
diễn đạt lời nói, suy nghĩ bằng cách viết thành đoạn văn ngắn. Ở lớp Một, thông
qua môn Tiếng Việt học âm - vần, các em đã được luyện nói từng câu ngắn. Tuy
nhiên do vốn từ của các em cịn ít nên việc diễn đạt cịn rất hạn chế. Thực tế
sang đầu năm lớp Hai, hầu hết các em chỉ nói được các câu ngắn, trả lời chưa đủ
ý, diễn đạt cịn rời rạc. Do đó nhiệm vụ của giáo viên lớp Hai là tiếp tục rèn
luyện kĩ năng diễn đạt cho các em.
Trong thực tế, phân mơn Tập làm văn có vị trí rất quan trọng, là chìa khóa
mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Hơn
nữa, phân môn Tập làm văn giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt, văn hóa là cơng
cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh khi sử dụng Tiếng việt thì nói,
viết đủ câu có một vai trị quan trọng nó giúp học sinh có đủ điều kiện để sử
dụng Tiếng việt đạt hiệu quả cao trong học tập các mơn văn hóa, trong việc viết
văn bản. Xuất phát từ mục đích u cầu của mơn Tiếng việt trong trường tiểu
học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng việt, văn hóa và hiện đại để
suy nghĩ, giao tiếp học tập. Thông qua việc học tiếng việt rèn cho học sinh năng
lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm trong
sáng. Có như vậy mới thực hiện được nhiệm vụ đào tạo học sinh thành những
con người phát triển toàn diện. Xuất phát từ những yêu cầu rèn luyện kĩ năng
nói, viết đủ câu, rõ ý cho học sinh lớp 2, rèn cho các em một số phẩm chất như:
óc thẩm mĩ, tính kỷ luật, đồng thời bồi dưỡng cho các em lịng u q mơn
Tiếng việt, biểu thị tình cảm tốt đẹp trong việc học và hiểu phân mơn Tập làm

văn .
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được
làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong
quá trình làm bài, tơi nhận thấy các em cịn lúng túng, nhiều học sinh làm bài
chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại tiếng, từ, câu đã viết nhiều lần trong
một đoạn văn dùng từ sai, có em viết khơng đúng u cầu của đề bài hoặc có
những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý.


Là một giáo viên giảng dạy lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế
nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tơi ln cố gắng
để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp
mình. Đây là lý do tơi chọn và áp dụng “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2
viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu”. Sau đây, tôi xin trình bày một số giải pháp
mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Là một giáo viên tiểu học, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm thế nào để
dạy 100% học sinh nói, viết các văn bản được quy định trong chương trình
Tiếng Việt lớp 2 và đạt được yêu cầu kiến thức, kỹ năng đã đề ra. Trên cơ sở dạy
học nói đúng, viết đúng các bài ứng dụng phù hợp với lứa tuổi, giáo viên còn
giúp các em bước đầu mở rộng tầm nhìn ra thế giới xung quanh, rung cảm trước
cái đẹp, trước những buồn vui, yêu ghét của con người. Đồng thời hình thành ở
mức đơn giản trong các em những nhận thức, tình cảm và thái độ đúng đắn của
con người Việt Nam hiện đại, biết phân biệt đẹp/xấu: thiện/ác; đúng/sai; biết yêu
trường lớp, thầy cô, bạn bè, q hương, đất nước; có lịng nhân ái, có ý thức về
bổn phận với ông bà, cha mẹ và người thân; biết bảo vệ môi trường, sống hồn
nhiên, trung thực, ...
Ngay từ khi bước vào lớp 1 học sinh đã được học Tiếng Việt và yêu cầu
đối với học sinh ngày càng cao. Ở lớp 1 chủ yếu nói, viết từng câu văn có nội
dung đơn giản chưa địi hỏi cao. Nhưng lên lớp 2 thì u cầu ngồi nói viết đúng

câu rõ ý cịn phải như nói, viết thành đoạn văn. Vì thế việc luyện kĩ năng viết
đoạn văn cho học sinh là rất cần thiết và quan trọng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng tôi áp dụng nghiên cứu là học sinh lớp 2A - Trường Tiểu học
Hoằng Trinh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát, điều tra;
- Phương pháp luyện theo mẫu;
- Phương pháp luyện tập thực hành;
- Phương pháp vấn đáp gợi mở.


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận.
Bước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta có nhiều đổi mới, đổi mới về kinh
tế, xã hội, giáo dục… Sự phát triển giáo dục của nước ta tăng nhanh giúp cho
những chủ nhân tương lai của đất nước luôn được phát triển tồn diện, đầy đủ về
năng lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức, tri thức khoa học
ban đầu để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết của cuộc sống, hành
động đúng cho bản thân .
Trong trường tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với học sinh bởi nó là mơn học cung cấp cho các em những kiến thức cần
thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển tồn diện, hình thành
ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thơng minh,
hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới.
Ngơn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập làm
văn là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng
dạy mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn lớp 2 nói riêng.
Như chúng ta đã biết, Tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu

học. Nếu học sinh viết tốt bài Tập làm văn, đủ số lượng câu, đủ ý, diễn đạt rõ
ràng, hấp dẫn người đọc thì học sinh đó có điều kiện học tập tốt hơn môn Tiếng
Việt và học tốt tất cả các mơn khác, nhờ đó mà kết quả học tập sẽ đạt cao hơn.
Vì vậy, việc dạy học sinh viết tốt một đoạn văn ngay từ còn ở những lớp nhỏ
cũng là xây dựng cho các em một nền móng vững chắc để tạo hứng thú hơn
trong việc học phân môn Tập làm văn cũng như trong việc học tốt phân môn
Tập làm văn các lớp sau này. Hơn thế nữa, học tốt phân môn Tập làm văn sẽ học
tốt hơn mơn Tiếng Việt. Đó cũng chính là rèn cho các em sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nên nhân cách của con người.
Nhiệm vụ khác: vì việc dạy Tập làm văn khơng thể tách rời khỏi nhiệm
vụ rèn kĩ năng nói, viết, giáo dục lịng u sách, phân mơn Tập làm văn cịn có
nhiệm vụ:
a) Làm giàu kiến thức về ngơn ngữ, đời sống và kiến thức vừa học cho
học sinh.
b) Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
c) Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
(Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 - NXBGD)
Thật vậy, trong q trình cơng tác, tơi nhận thấy, dạy học sinh viết văn tốt
sẽ góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Ta dạy cho các em viết
đúng yêu cầu, viết đủ số lượng câu, viết gọn, rõ ràng, mạch lạc và sáng tạo là
góp phần rèn luyện cho các em ý thức học tập, tính kỷ luật, tính cẩn thận, thận
trọng trong cơng việc, lòng tự tin của bản thân… Đồng thời, học tốt phân mơn
Tập làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác, nhằm thực
hiện đúng mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra nhằm đào tạo con người mới phát triển
toàn diện.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.


2.2.1. Thực trạng.

Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ
sở”.
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy
học sinh sử dụng Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Tập làm văn là
phân mơn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
Phân môn Tập làm văn mang tính chất thực hành ứng dụng tổng hợp, tồn
diện và mang tính chất sáng tạo, bởi vì trong phân mơn Tập làm văn học sinh
khơng thể sử dụng kiến thức nội dung phần học, sử dụng kiến thức tổng hịa của
tất cả các mơn học mà học sinh được trang bị trong nhà trường. Bên cạnh đó, là
sự vận dụng kiến thức từ đời sống thực tế, từ vốn sống, vốn hiểu biết, từ những
khả năng rung động, khả năng cảm động tinh tế tâm hồn học sinh.
Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nơng thơn, một số gia đình bố
mẹ đi làm cơng ty khơng có thời gian, nên việc học của các em ít được phụ
huynh quan tâm. Do vậy, gây khơng ít khó khăn cho giáo viên, địi hỏi người
giáo viên phải tìm mọi cách để giúp đỡ các em. Qua thực tế giảng dạy và làm
công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi nhận thấy rằng, muốn học sinh viết tốt đoạn
văn, trước hết học sinh phải viết đúng yêu cầu và nhận thức được tầm quan
trọng của môn Tập làm văn.
Trong thực tế hiện nay, việc rèn cho học sinh viết đoạn văn tốt chưa được
giáo viên chú tâm nhiều. Bên cạnh đó, nhiều học sinh khi viết bài cịn viết bừa,
viết cẩu thả, không đúng yêu cầu, viết lan man, khơng đủ số câu, sai ý, trình bày
ý lộn xộn, thiếu tự nhiên, sai nhiều chính tả,… Hơn thế nữa, một số em thiếu tự
tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn đến hậu quả là các em chán nản, thiếu quyết
tâm trong học tập. Để khắc phục tình trạng này, địi hỏi người giáo viên phải có
kinh nghiệm và sáng tạo trong giảng dạy, phải thật kiên trì và nhẫn nại, giúp học
sinh nhận thức được tầm quan trọng của mơn học. Từ đó, giáo dục cho các em ý
thức rèn luyện bài viết của mình đạt yêu cầu cao hơn.
Nếu vận dụng tốt một số giải pháp mà tơi đưa ra dưới đây thì việc “Giúp

học sinh lớp 2 viết được một đoạn văn ngắn từ 3- 5 câu”, sẽ đem lại nhiều kết
quả khả quan hơn. Từ đó, rèn luyện cho các em tính cẩn thận, thận trọng trong
cơng việc, lịng tự tin của bản thân. Đồng thời, phân mơn Tập làm văn chính là
cơ sở, là nền tảng để giúp các em học tốt các môn học khác. Phân môn Tập làm
văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ năng nói và viết. Thế nhưng
hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học phân môn Tập làm văn vì
khơng biết nói gì? viết gì? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin
lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác. Do đó khi đứng lớp tơi
ln chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng làm Tập làm văn cho học sinh lớp tơi phụ
trách.
Chính vì vậy, tơi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp đúc rút từ kinh
nghiệm của bản thân về việc giúp học sinh viết đoạn văn ngắn từ 3 - 5 câu để
cùng trao đổi với đồng nghiêp, hi vọng sẽ góp một phần nhỏ bé của mình đem
lại kết quả khả quan cho học sinh. Để từ đó, giúp các em học sinh lớp 2 Trường


Tiểu học Hoằng Trinh ngày càng học giỏi phân môn Tập làm văn hơn, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục.
2.2.2. Kết quả thực trạng.
Lớp 2A của tôi phụ trách trong năm học này có 35 học sinh. Ngay từ đầu
năm học và qua 2 tuần đầu tơi đã tìm hiểu về kiến thức mơn Tiếng Việt nói
chung và trong phân mơn Tập làm văn nói riêng, cụ thể như sau:
Chất lượng đầu năm:
Sĩ số HS
Khả năng viết
Số học sinh
Tỷ lệ %
Viết câu rõ ràng, đủ ý, rõ nghĩa.
7 em
20.0

35
Viết đủ câu, đủ ý
8 em
22.9
Viết thành câu, chưa rõ ý.
12 em
34.2
Viết chưa đủ câu.
8 em
22.9
Chính vì thế, để giúp các em học tốt mơn Tiếng Việt nói chung, phân mơn
Tập làm văn thì giáo viên phải quan tâm đến kĩ năng nói, viết của học sinh trong
phân môn Tập làm văn.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn về viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu
của đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp sau:
2.3.1. Vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh.
2.3.1.1. Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp.
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo
gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo
viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh. Tập trung quan sát đặc điểm nổi bật
của đối tượng, mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Giáo
viên dùng các câu hỏi gợi mở để giúp học sinh vừa quan sát vừa nói bằng lời đủ
câu, đủ ý. Bên cạnh đó, tơi cũng hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác
quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật.
2.3.1.2. Phương pháp thực hành giao tiếp.
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói,
trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều
chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, tơi thường tổ

chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm (HS có thể kết nhóm
theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong
nhóm).
2.3.1.3. Phương pháp phân tích ngơn ngữ.
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thơng qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng
cường sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập
làm văn. Sử dụng phương pháp này để giáo viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra
cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ
hiểu.
Ví dụ:
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “Ai – là


gì?”, “Ai - làm gì?”, “Ai - như thế nào?”, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận
biết những vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm
gì?/ Như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi
hết câu. Mỗi tiết học có kiến thức liên quan, tơi đều gợi mở cho học sinh tự khắc
sâu kiến thức về các mẫu câu và nhắc học sinh áp dụng khi giao tiếp ở gia đình,
trong trường học và nơi cơng cộng. Khi giao tiếp các em phải nói một câu rõ
ràng cho người nghe hiểu được ý mình muốn nói.
2.3.1.4. Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu.
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập
làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa
chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử
dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp

thêm các từ đồng nghĩa để tránh tình trạng sử dụng từ lặp đi lặp lại nhiều lần phù
hợp với bài văn.
Ví dụ:
Khi viết đoạn văn kể về người thân thì học sinh sẽ có nhiều bài làm khác
nhau, Giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là
thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; Viết về tình cảm
của em đối với với cha mẹ, ơng bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của
mình đối với bạn bè; Viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa
như: bình minh, hừng đơng, sớm mai; Viết về gia đình có các từ như đoàn tụ,
sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay
gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa… Giáo viên cần chuẩn bị
kỹ với mỗi bài để hướng dẫn học sinh vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài
viết của mình.
2.3.2. Các giải pháp thực hiện.
2.3.2.1. Về kỹ năng.
Để tránh tình trạng học sinh khơng làm được bài hoặc viết lan man quá
nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để
viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.
 Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng.
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ.
Giáo viên có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn bị,
đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở
nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài khơng có câu hỏi gợi ý, giáo viên có
thể soạn, cung cấp cho các em.
Ví dụ:
* Bài viết về một người thân:
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm cơng việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?



- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
* Bài viết về một loại quả:
- Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở đâu?
- Hình dáng bên ngồi ra sao? Bên trong như thế nào?
- Vì sao em thích loại quả ấy?
* Bài viết về một lồi hoa:
- Lồi hoa ấy có tên là gì? Em đã thấy ở đâu?
- Hoa có những đặc điểm gì (màu sắc, các bộ phận: cánh hoa, nhụy,
hương thơm…)
- Vì sao em thích lồi hoa ấy?
* Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm.
- Em (hoặc bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em (hoặc bạn ấy) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm (hoặc thấy bạn làm) việc tốt đó?
* Bài viết kể về gia đình em.
- Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai?
- Kể từng người trong gia đình em.
- Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
- Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
Khi các em có hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng, các em dễ dàng định hình
những gì cần viết. Và đối với học sinh gặp khó khăn trong học tập các em cũng
có thể bắt nhịp được yêu cầu của bài viết được câu ngắn, đủ ý theo yêu cầu.
 Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn.
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết (Có thể diễn đạt bằng
một câu).
- Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý
có thể diễn đạt 2, 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của

đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật.
- Con vật em định kể là con vật gì? Nó sống ở đâu?
- Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật? Nó đem lại lợi ích gì?
- Tình cảm của em đối với con vật đó?
Câu mở đầu: Giới thiệu
Nhà em có ni một con chó tên là Mi Lu.
con chó
Nó có bộ lơng màu vàng mượt như tơ. Đơi mắt
Phát triển: Kể về con
của nó rất sáng và đơi tai vểnh lên trơng mới đáng
chó
u làm sao! Nó thường nằm trước cửa để giữ nhà.
Câu kết thúc: Tình cảm
Hằng ngày, em thường cho nó ăn. Em rất yêu
của em đối với con chó quý con chó của nhà em.
này.


Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm
các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ
động hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Khơng nên áp
đặt và địi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình
thành. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn, luôn tái hiện và lặp
lại kiến thức cho học sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng
tốt cho việc học tập mơn Tập làm văn ở các lớp trên.
 Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn.
Trong quá trình viết bài, trình bày đoạn văn, nhiều HS thiếu câu mở đầu,
hoặc kể liệt kê, chưa đảm bảo cấu trúc một đoạn văn. Để giúp học sinh nắm

được trình tự các bước khi viết một đoạn văn tôi đã hướng dẫn HS thực hiện như
sau:
Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. (Có thể diễn đạt bằng một
câu).
Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng. Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có
thể diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh.
Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ.
Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
+ Câu mở đầu: Giới thiệu chim cánh cụt
Trong thế giới lồi chim, em thích nhất là chim cánh cụt.
+ Phát triển: Kể về chim cánh cụt
Cánh cụt sống ở những nơi lạnh giá, đầy băng tuyết. Nó có đơi cánh giống
như hai mái chèo. Dáng đi của nó lũn chũn, trơng rất buồn cười. Là một lồi
chim rất dễ thương nhưng em chẳng thấy nó bay bao giờ. Thế nhưng nó lặn sâu
dưới nước để bắt cá rất giỏi.
+ Câu kết thúc: Tình cảm của em đối với lồi chim này
Em thích chim cánh cụt vì chúng là những con vật hiền lành, dễ thương.
 Chú trọng lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt.
Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng.
Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp.
Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của
mơn Tiếng Việt thì mơn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó.

Trong q trình giảng dạy tôi chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết
tập làm văn, yêu cầu học sinh gạch chân hoặc viết ra giấy. Từ đó, học sinh có thể
rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Hoặc trong
các tiết dạy Tự nhiên - Xã hội các em được trực tiếp quan sát các con vật và có


từ ngữ về đặc điểm của chúng. Tôi yêu cầu các em trình bày cụ thể, đây là cơ sở
để các em có thể viết một đoạn văn ngắn về một con vật.
Ví dụ.
Khi học về chủ đề “Ơng bà”, “Cha mẹ”, “Anh em” (từ tuần 10 đến tuần
16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình
học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, giúp các em viết
tốt về chủ đề kề về người thân trong gia đình.Trong bài tập đọc “Ngơi trường
mới”, học sinh có thể rút ra được một số câu văn, từ ngữ tả về ngơi trường:
“Nhìn từ xa, những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong
cây. Tường vơi trắng, cánh cửa xanh, bàn ghế gỗ xoan đào nổi vân như lụa”.
Vận dụng từ ngữ có trong phân mơn Luyện từ và câu như bài: “Từ ngữ về Bác
Hồ. Dấu chấm, dấu phẩy” tôi cho học sinh học thuộc các từ ngữ về Bác và cách
sử dụng dấu chấm, dấu phẩy để vận dụng cho tiết Tập làm văn tả ngắn về Bác
Hồ.
Để cho đoạn văn thêm sinh động, giáo viên cần cung cấp cho học sinh:
Nhiều từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình… Ví dụ: Mặt biển xanh
và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành
những từ ngữ liên kết như: và, thì, nếu, vậy là ….
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự, ví dụ: Bác Hồ thành Bác,
Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt hơn.
Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh. Ví dụ: Anh của em thành
Anh trai của em, thành anh ấy, thành anh Minh (thay bằng gọi tên) …
Ví dụ.

Các em sẽ thành lập một đoạn văn như sau: “Nhà em có ni một chú gà.
Nó có bộ lơng màu đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất yêu nó.” Giáo viên có thể
khuyến khích học sinh là “em làm đúng nhưng chưa hay. Từ những ý tưởng ban
đầu của em, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn hay hơn nhé: “Chú gà trống
nhà em trơng mới oai vệ làm sao! Tồn thân chú phủ một lớp lơng vũ màu đỏ
tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót lên trụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ị ó o.
Mỗi chiều đi học về, em thường rải cho chú trống một ít hạt thóc và vuốt ve cái
đi dài, cong cong của chú.” Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ
nhưng đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho
đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn.
 Các bước thực hiện viết đoạn văn.
Bước 1: Cá nhân thảo luận trong nhóm thơng qua câu hỏi gợi ý (việc này
phát huy được mọi thành viên đều làm việc, giúp đỡ được học sinh gặp khó
khăn). GV gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Bước 2: Tổ chức cho HS trả lời trước lớp. Cho HS nhận xét, đánh giá
chính mình và của bạn kết hợp sửa chữa những câu trả lời chưa đúng.
Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để
hoàn chỉnh bài làm miệng. Tiếp theo cho một số học sinh làm miệng cả bài.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn
văn. Cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ,
có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn


sinh động hơn (khuyến khích học sinh hồn thành tốt vận dụng, không bắt buộc
tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo
viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh, nhân hóa (nhưng khơng
dùng những thuật ngữ này với đối tượng học sinh lớp 2).
2.3.2.2. Về kiến thức.
 Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh.
Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ơn tập

cho học sinh. Có thể tập hợp từ chương trình một số đề bài sau đây:
Viết một đoạn văn ngắn về:
- Gia đình
- Một người thân
- Cô giáo cũ (hoặc thầy giáo cũ) của em
- Về trường của em
- Các mùa trong năm
- Một loài chim
- Một con vật
- Tả ngắn về biển
- Tả ngắn về một loài cây
- Tả về một loài hoa
- Viết về Bác Hồ
- Kể về một em bé
- Kể một việc làm tốt
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc
chắn, phân biệt rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những
nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em.
 Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức
có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về
sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ
ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có
hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ:
Khi học về chủ đề “Ơng bà”, “Cha mẹ”, “Anh em” (từ tuần 10 đến tuần
16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình,
cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ
ngữ cho học sinh, ngoài việc giúp học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của

mình là những ai, ngồi việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thông
qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung
bài, hướng cho học sinh liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tơi
cịn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các
từ ngữ phù hợp với đề tài (ông bà, cha mẹ, anh em) để chuẩn bị cho bài làm văn
sắp tới (viết về người thân), tơi ln nói với các em sự cần thiết phải học thuộc
và lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài Tập làm văn, khơi
gợi và kích thích tinh thần học tập của các em.


2.3.3. Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi
gợi ý.
Các bước hình thành:
Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi.
Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng; cung cấp và gợi ý để các
em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ ngữ các bạn đã dùng, có thể hướng
dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động
hơn (khuyến khích học sinh khá, giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối
tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học. Giáo viên hướng
dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh, cách nhân hóa nhưng khơng đưa
những thuật ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2).
Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để
hoàn chỉnh bài làm miệng.
Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết
liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn ngắn đảm bảo số câu theo yêu cầu.
Hướng dẫn các em cách trình bày một đoạn văn; bên cạnh đó cũng khơng qn
nhắc nhở các em viết chữ rõ ràng, sạch, đẹp. Chú ý không để sai chính tả. Kể cả
việc chọn màu mực khi viết bài cho đẹp hơn.
Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích

thích tinh thần học tập của học sinh.
2.3.3.1. Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài.
Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều
chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập
nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi
sai. Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết
lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay
nhưng chưa hồn chỉnh, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho
bài văn được hấp dẫn hơn.
Khi sửa bài, giáo viên nên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước,
hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo. Từ đó, giúp
các em nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em
hiểu rằng, những bài làm thể hiện sự suy nghĩ độc lập của cá nhân ln được
khích lệ và tôn trọng.
2.3.3.2. Phối hợp với phụ huynh học sinh.
Để học sinh học phân môn Tập làm văn của lớp 2 đạt kết quả tốt, giáo
viên cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để cùng xây
dựng tốt nề nếp tự học và chuẩn bị bài ở nhà. Cụ thể như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi thông báo kết quả học tập cũng
như kết quả khảo sát của các em về mọi mặt nhất là việc học phân môn Tập làm
văn của từng em, sau đó tơi tun truyền cho phụ huynh biết về vai trị quan
trọng của phân mơn Tập làm văn nói riêng cũng như mơn Tiếng Việt nói chung.
- Hướng dẫn phụ huynh trong việc mua sắm đồ dùng học tập của học sinh
về bút, vở viết, sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo cũng như việc đọc thêm
sách, báo ở nhà.



- Phổ biến cho phụ huynh biết các tiêu chuẩn cụ thể khi xếp loại học lực
của học sinh từng học kỳ, cả năm học đối với môn Tiếng Việt mà phân mơn Tập

làm văn đóng vai trị quan trọng.
- Hướng dẫn phụ huynh dựa vào các câu hỏi gợi ý giúp học sinh quan sát,
tìm hiểu bài, chuẩn bị bài ở nhà. Phụ huynh kiểm tra và thường xuyên quan tâm
sửa chữa các sai sót về bài viết cho con em mình.
- u cầu phụ huynh tạo góc học tập yên tĩnh, có đủ ánh sáng, bàn ghế
đúng với tầm của các em khi ngồi học ở nhà. Phụ huynh biết khích lệ tinh thần
học tập của các em,…
Trong đó tơi lưu ý cách viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu và nêu thực
trạng viết đoạn văn của các em trong những năm học trước. Từ đó trao đổi các
biện pháp tại nhà kết hợp với ở trường để giúp các em có kỹ năng viết văn tốt
hơn. Nắm rõ nội dung chương trình các em được học, phụ huynh dễ dàng có
những phương pháp tiếp cận, khơi gợi cảm xúc viết đoạn văn cho các em.
Khuyến khích phụ huynh lựa chọn nhiều sách, báo cho các em đọc.
Ví dụ.
Khi các em chuẩn bị hoc bài kể về người thân thì phụ huynh gợi ý trước
cho em ở nhà bằng cuộc nói chuyện về những người trong gia đình, chuẩn bị
cho các em những tấm ảnh, tạo cho em bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình với
người thân. Từ đó phụ huynh có cơ hội sửa câu từ cho các em. Ngoài ra phụ
huynh cần tạo cơ hội cho các em được trãi nghiệm thực tế cuộc sống như đi
tham quan, tắm biển…
Tóm lại: Từ những giải pháp trên, học sinh lớp tôi đã dần dần có những kĩ
năng quan sát tốt và kĩ năng sử dụng từ ngữ phù hợp với chủ đề. Từ đó tăng dần
kĩ năng viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu theo Chuẩn kiến thức - kĩ năng của khối
lớp đang học. Bên cạnh những giải pháp trên thì bản thân tôi không ngừng cố
gắng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tìm tịi những phương pháp tối ưu để đem
đến hiệu quả cho tiết dạy phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 2A,
Trường Tiểu học Hoằng Trinh - Đối tượng học sinh thuận lợi, chất lượng phân

môn Tập làm văn của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt và thu được kết quả như sau:
- Chất lượng nói, viết đủ câu, đủ ý, rõ nghĩa của lớp tôi ngày càng tiến bộ.
Cụ thể: Chất lượng cuối năm học:
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân
mơn Tập làm văn của lớp tơi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ
đợi đến giờ học Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và cô giáo. Các em
rất tự tin mỗi khi khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Với niềm
đam mê đó, bài viết của các em đạt yêu cầu rất cao. Nhiều em diễn đạt trôi chảy,
gãy gọn, rõ ràng và hấp dẫn, phong phú hơn trong phân môn Tập làm văn.
Nhiều em học giỏi hơn và chất lượng môn Tiếng Việt rất khả quan. Cụ thể tôi
theo dõi kết quả trong 3 năm học liên tục như sau:


Năm học
2018-2019
2019-2020
2020-2021

Sĩ số
32
36
35

Viết câu rõ
ràng, đủ ý,
rõ nghĩa
SL
TL
14
43.7

16
44.4
16
45.7

Viết đủ câu,
đủ ý
SL
14
15
15

TL
43.7
41.7
42.9

Viết thành
câu.

Viết chưa
đủ câu.

SL
4
5
4

SL
0

0
0

TL
12,6
13,9
11,4

TL
0
0
0

So sánh với chất lượng đọc đầu năm học thì số lượng học sinh nói, viết
chưa đủ câu đã được giảm đi nhiều. Số lượng học nói, viết đúng câu, đủ ý, diễn
đạt hay đã tăng lên rõ rệt, đó là dấu hiệu đáng mừng của việc áp dụng các
phương pháp mà tôi đã nêu ở trên.
- Bên cạnh đó trong giờ Tập làm văn, tơi thấy các em ngồi học rất say sưa,
sôi nổi phát biểu ý kiến, hăng say học bài. Rất nhiều em xung phong, phấn khởi
khi được gọi đọc đoạn văn của mình. Điều đó chứng tỏ các em đã hiểu được nội
dung yêu cầu của đề bài và biết diễn đạt câu văn đúng câu, đủ ý, diễn đạt hay.
Chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt về phân môn Tập làm văn.


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Qua quá trình thực hiện áp dụng các giải pháp mới vào dạy học, tôi rút ra
được những bài học kinh nhiệm trong giảng dạy.
- Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học:
Đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu của đề bài, quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng

dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
- Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh ln suy nghĩ, tìm tịi để
phát triển tư duy, khơi gợi niềm say mê ở các em, học cách ghi nhớ để nhớ lâu
kiến thức.
- Sử dụng nhiều hình thức thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em
nỗ lực học tập.
Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài. Trong từng tiết
học cần vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu
kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu và làm bài tập được ngay tại lớp.
Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối tượng học sinh khó khăn và
tìm ngun nhân dẫn đến việc học sinh khơng theo kịp bài để có biện pháp giúp
đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài học sau.
Bất kì mỗi ai nhìn đoạn văn của học sinh với những dòng chữ thẳng, đều
tăm tắp, sạch sẽ, diễn đạt đủ số câu, ý phong phú, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc
thì cả cha mẹ và thầy cơ đều dấy lên một niềm vui, sự hãnh diện và thiện cảm.
Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ. Việc dạy cho học sinh biết cách
học tốt phân môn Tập làm văn cịn là mơi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ
những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, chịu khó, tự tin, óc tư duy, sáng tạo.…
Qua đó, nhằm bồi dưỡng cho các em thế giới quan và nhân sinh quan. Bên cạnh
đó, tơi nhận thấy rằng, những em tiếp thu chậm, việc viết đoạn văn sạch sẽ, rõ
ràng là yêu cầu không quá cao, nhưng muốn viết hay thì u cầu trẻ phải kiên
nhẫn, gắng cơng khổ luyện nhiều hơn.
Tôi nghĩ rằng, để gặt hái được nhiều thành cơng trong mọi việc đều phải
có lịng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện. Chính vì vậy, ngồi những giải
pháp trên thì người giáo viên cịn phải khơi dậy ở các em lòng say mê học tập.
Giáo viên phải thổi vào học sinh luồng sinh khí mới với những ước mơ cao đẹp,
khơi gợi lên ở các em lịng say mê, ham thích học văn. Giáo viên liên tục nhắc
nhở, động viên, khích lệ ở lớp những em học tốt môn học này nhằm động viên
phong trào học tập ngày một tốt hơn trong nhà trường hiện nay.
Cần giữ mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh, vì cha mẹ học

sinh là yếu tố thứ hai sau cô giáo chủ nhiệm, giúp các em thực hiện tốt việc học
tập.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện trong giảng dạy phân môn
Tập làm văn. Tơi nhận thấy học sinh có tiến bộ trong từng năm học. Giái pháp
này được áp dụng cho giáo viên giảng dạy lớp 2 và có thể thực hiện cho các lớp
khác ở bậc tiểu học.
3.2. Kiến nghị.


Nhà trường cần khích lệ, tuyên dương học sinh học giỏi phân môn Tập
làm văn hàng tháng, học kỳ.
Nhà trường phối hợp cùng với giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh
đẩy mạnh phong trào học tốt phân môn Tập làm văn hơn.
Trên đây là “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn từ
3- 5 câu” mà bản thân tôi đã vận dụng vào dạy học đạt hiệu quả. Rất mong nhận
được sự đóng góp, chia sẻ của đồng chí, đồng nghiệp! Do thời gian và khả năng
của tơi có hạn, sáng kiến cịn có những khiếm khuyết, rất mong đồng nghiệp và
hội đồng khoa học các cấp góp ý, để giúp tơi hồn thiện hơn trong cơng tác
giảng dạy của mình nói chung và dạy học phân mơn Tập làm văn nói riêng. Tôi
xin chân thành cảm ơn và ghi nhận sự giúp đỡ của Hội đồng Khoa học các cấp.

Xác nhận của thủ trưởng
đơn vị

Hoằng Trinh, ngày 02 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do bản
thân tôi viết, không sao chép của người
khác.
Người viết


Nguyễn Thị Ngoan


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học (Nhà xuất bản GD);
2. Vở Bài tập Tiếng Việt lớp 2- Tập 1- Tập 2 (Nhà xuất bản Giáo dục);
3. Sách Hướng dẫn Tiếng Việt lớp 2 (Sách giáo viên) - Nhà xuất bản GD);
4. Các tài liệu BDTX môn Tiếng Việt Tiểu học (Nhà xuất bản Giáo dục);
5. Những bài văn mẫu lớp 2 (Nhà xuất bản Giáo dục);
6. Những bài văn hay của học sinh trong những năm học trước.



×