Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp rèn đọc cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn tập đọc lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 21 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài:.......................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu:.................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu:................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu: ..........................................................................2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:......................................................3
2.2. Thực trạng việc dạy và rèn đọc cho học sinh.................................................4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..............................................5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:..........................................................16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................18
3.1.Kết luận.....................................................................................................18
3.2. Kiến nghị:.................................................................................................18
Tài liệu tham khảo


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt có vai trị quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất
của con người. Bởi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp đặc trưng của lồi người, là
cơng cụ để tư duy, để thể hiện tư tưởng, tình cảm vào bất kỳ một lĩnh vực, hoạt
động nào trong xã hội thì địi hỏi con người có một sự hiểu biết sâu sắc về Tiếng
Việt. Ngồi ra mơn Tiếng Việt cịn có chức năng thẫm mĩ giúp người học thấy
được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ. Đồng thời xây dựng phẩm chất của con
người hiện đại trong xã hội hiện đại. Con người có tri thức, thấm nhuần truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, ưa chuộng lối sống lành mạnh, ham thích làm việc và
biết rèn luyện với khả năng thích ứng với cuộc sống xã hội sau này. Do đó, trẻ
em cần được học tiếng mẹ đẻ một cách khoa học, cẩn thận trong các giờ học
Tiếng Việt. Đặc biệt là phân môn Tập đọc, để sử dụng công cụ này trong những
tháng năm ở nhà trường, cũng như trong suốt cuộc đời.


Đúng vậy, dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành đòi
hỏi cơ bản đối với những người đi học. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó
phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập. Nó là cơng cụ để học tập các mơn học khác. Nó tạo ra hứng thú
và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần
học tập suốt đời. Đó là một khả năng khơng thể thiếu được của con người thời
đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới trình độ ngơn ngữ cũng
như tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ
một cách lơgíc, cũng như tư duy trìu tượng.
Những điều trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát triển
một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Là người giáo
viên nếu chỉ bằng lịng với những kiến thức mình đã có được ở trong trường học
và lượng kiến thức đã được tiếp thu chun đề thì đó sẽ là một điều đáng tiếc.
Theo tôi, một mặt phải nắm chắc được yêu cầu của cả cấp học, lớp học. Mặt
khác, phải tiếp tục tìm tịi phương pháp, hình thức tổ chức cụ thể cho từng tiết
học của mỗi phân môn. Sau một tiết dạy, phải tự đúc rút được kinh nghiệm để
rồi tìm ra những cái hay hơn và mạnh dạn tổ chức các hoạt động dạy - học theo
quy trình hợp lý, linh hoạt có sáng tạo nhằm đổi mới phương pháp dạy - học đạt
hiệu quả cao trong giảng dạy.
Trong quá trình dạy môn Tập đọc lớp 5, tôi thấy chất lượng đọc của học sinh
cịn yếu. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, xã hội ngày càng phát triển thì nhu
cầu đòi hỏi tri thức con người ngày càng cao. Trong đó, ngơn ngữ nói và viết là
rất cần thiết cho mỗi người. Mỗi thành cơng khơng phải tự nhiên có được, mà
phải trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu. Trong thực tế, nhiều
giáo viên đã tìm ra những giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Tập đọc nhưng hiệu quả chưa cao. Bản thân là giáo viên chủ nhiệm
lớp 5B, dạy các mơn văn hóa, cụ thể dạy phân mơn Tập đọc với mong muốn hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ và nâng cao chất lượng cho học sinh. Vì lý do đó, tơi đi

1


sâu nghiên cứu: “Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh nhằm nâng cao chất
lượng phân môn Tập đọc ở lớp 5”, hy vọng phần nào có thể đáp ứng được yêu
cầu trên.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp cho các em ở lớp 5 nói chung, lớp 5B nói riêng, rèn được kỹ năng đọc
và cảm thụ tốt bài văn, bài thơ, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các kỹ năng đọc đối với yêu cầu cần đạt của học sinh lớp 5 theo chuẩn kiến
thức - kỹ năng.
Nghiên cứu kỹ các giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5B ở trường Tiểu học
Hưng Lộc 2, huyện Hậu Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người” ( LêNin). Khơng có ngơn ngữ thì xã hội khơng tồn tại. Mục đích nghiên cứu ngơn
ngữ trong nhà trường là phải để cho học sinh có thể sử dụng ngơn ngữ làm
phương tiện sắc bén để giao tiếp. Ngôn ngữ luôn gắn chặt với tư duy “Ngôn ngữ
là hiện thực trực tiếp của tư duy”( Mark). Tư duy của con người không thể phát

triển nếu thiếu ngôn ngữ, việc chiếm lĩnh ngôn ngữ là tiền đề phát triển tư duy.
Hệ thống dạy học Tiếng Việt cần đảm bảo mối quan hệ giữa dạy nói và tư duy.
Ngơn ngữ học nói chung, Tiếng Việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
phương pháp dạy học. Có ý kiến cho rằng phương pháp dạy học Tiếng Việt là
ngôn ngữ học ứng dụng. Phương pháp dạy học Tiếng Việt phải phát hiện những
quy luật riêng, đặc thù của dạy học Tiếng Việt. Tất cả các giờ Tiếng Việt phải đi
theo hướng: Cả dạy Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính
tả và Tập viết.
Bên cạnh đó cịn có thể kể đến cơ sở văn học. Phương pháp dạy học dựa trên
cơ sở văn học, lý thuyết văn học, trong q trình học sinh phân tích các tác
phẩm, mặc dù chưa học những kiến thức về lý luận văn học mà khả năng đọc
của học sinh phát triển. Việc đọc những bài văn, bài thơ ở tiết Tập đọc đã được
xây dựng trên cơ sở những quy luật chung nhất về tác phẩm và sự tác động của
nó đến người đọc.
Mặt khác, quan hệ giữa phương pháp dạy học Tiếng Việt và tâm lý học, đặc
biệt là tâm lý học lứa tuổi rất chặt chẽ, khơng có những hiểu biết về q trình
tâm lý con người nói chung, về học sinh tiểu học nói riêng thì khơng thể dạy
học tốt và phát triển lời nói cho học sinh. Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận
dụng rất nhiều kết qủa của tâm lý học. Đó là quy luật tiếp thu tri thức, hình
thành kỹ năng, kỹ xảo. Người thầy phải biết sản phẩm của lời nói được sản sinh
ra như thế nào? Quá trình đọc được thiết lập từ những yếu tố nào? Từ đó định ra
phương pháp dạy đạt hiệu quả cao.
Tất cả những vấn đề trên là cơ sở vững chắc và có ý nghĩa to lớn đối với học
sinh Tiểu học. Nắm vững được điều này giáo viên sẽ tạo điều kiện để học sinh
tiếp thu kiến thức một cách thoải mái, chủ động và nắm chắc các kĩ năng dạy
phân mơn Tập đọc, từ đó phát huy tính tích cực của các em, nâng cao hiệu quả
giờ học. Hơn nữa, tuổi của các em ở Tiểu học là tuổi chơi mà học, học mà chơi.
Các cơ quan trong cơ thể chưa phát triển hoàn thiện nên mức độ tập trung chú ý
lâu chưa bền vững, ngồi lâu trong một tiết học nếu khơng thay đổi hình thức tổ
chức dạy học chắc các em sẽ không thấy thoải mái. Bởi vậy, cần có những biện

pháp tổ chức hoạt động dạy và học linh hoạt để các em có cơ hội vừa học, vừa
vận động cơ thể. Thông qua trò chơi để học và trong một giờ học, mỗi em được
gọi ít nhất hai lần đứng dậy phát biểu ý kiến để có cơ hội thay đổi tư thế.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết
với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc diễn
cảm được tốt. Ngược lại việc đọc diễn cảm giúp cho cảm thụ bài văn thêm sâu
sắc.
3


2.2. Thực trạng việc dạy và rèn đọc cho học sinh ở trường Tiểu học Hưng
Lộc 2.
+ Thực trạng việc dạy của giáo viên qua môn học:
Qua dự giờ các tiết Tập đọc của đồng nghiệp, tôi nhận thấy trong việc rèn
đọc cho học sinh có những ưu nhược sau:
* Ưu điểm:
- Giáo viên nắm rõ tầm quan trọng của việc dạy Tập đọc ở Tiểu học. Giáo
viên đã chú trọng phương pháp dạy học mới.
- Đảm bảo quy trình tiết dạy, chú ý luyện phát âm cho học sinh, đã giúp học
sinh hiểu nội dung bài học.
* Nhược điểm:
- Trên thực tế ở các trường Tiểu học vẫn còn một số giáo viên lại đi sâu vào
giảng từ ngữ, biến giờ Tập đọc thành giờ “Giảng văn” nặng nề, không phù hợp
đối tượng học sinh. Giọng đọc của nhiều giáo viên chưa thực sự hay, còn mang
nặng giọng địa phương, chưa chú trọng việc nhấn giọng ở những từ ngữ mang
tính gợi tả, gợi cảm. Thời gian luyện đọc ít, áp đặt cách đọc để học sinh phải đọc
thụ động, ít gợi ý để học sinh khám phá, tìm hiểu cách đọc, dẫn đến hiệu quả
trong giờ tập đọc chưa cao.
- Phương tiện trực quan chủ yếu trong tiết Tập đọc là ngôn ngữ của giáo viên
và bài tập đọc trong sách giáo khoa, tranh màu phóng to minh họa và một số vật

thật hoặc mơ hình để giảng từ và ý chưa được sử dụng thường xuyên, triệt để.
- Chưa chú ý đến việc dạy cho học sinh ngắt, nghỉ và giọng đọc của bài, đặc
biệt là chưa dành thời gian cho học sinh được đọc diễn cảm bài văn, bài thơ.
+ Thực trạng việc đọc của học sinh:
- Đa số học sinh biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ. Trả lời tương đối các
câu hỏi trong sách giáo khoa.
- Tuy nhiên ở trường Tiểu học hiện nay, trong một lớp trình độ học sinh
khơng đồng đều. Có học sinh đọc đúng, nhanh, diễn cảm nhưng cũng khơng ít
học sinh đọc cịn ngắc ngứ, lý nhí, khơng biết ngắt nghỉ khi gặp dấu câu, không
hiểu được sắc thái tình cảm điều đó dẫn đến việc cảm nhận văn bản còn hạn chế.
Đặc biệt học sinh lớp 5 ở trường tôi, học sinh thường phát âm sai ở những tiếng
có âm đầu như l/n, s/x, tr/ch…
- Phần đọc hiểu nắm nội dung bài ở một số học sinh cịn khó khăn.
* Kết quả thực trạng:
Ngay từ đầu năm (năm học: 2020 – 2021), sau quá trình tìm hiểu thực tế tôi
tiến hành điều tra kết quả học tập của học sinh lớp 5B (tôi chủ nhiệm) trường
Tiểu học Hưng Lộc 2, tôi nhận thấy: Đa số các em mới chỉ dừng lại ở việc đọc
to nhưng mức độ đọc lưu lốt cịn một số em vẫn chưa đạt yêu cầu, các em còn
đọc nhát gừng, đọc lặp từ, thêm từ, bớt từ… Mức độ đọc diễn cảm chỉ có rất ít
em đạt được. Các em chưa thể hiện rõ giọng đọc của từng thể loại như thơ, văn
bản kịch… Đặc biệt vẫn cịn một số học sinh khơng biết thế nào là đọc diễn
cảm.
Sau quá trình tìm hiểu thực tế, tơi đã phân loại để nắm được trình độ của
học sinh, từ đó có kế hoạch luyện đọc cho từng em. Tôi đã thống kê chất lượng
đọc của học sinh lớp 5B của tôi như sau:
4


Lớp



số

Chất lượng, mức độ đọc

Số lượng

Tỷ lệ

Trôi chảy, rõ ràng, ngắt nghỉ đúng
23/30
76,6%
5B 30 Đọc hiểu
12/30
40%
Đọc diễn cảm
5/30
16,6%
Như vậy chất lượng đọc thực tế cho thấy còn thấp. Đặc biệt là kỹ năng đọc
hiểu và đọc diễn cảm. Để khắc phục tình trạng này, tơi đã tìm ra một số giải
pháp rèn đọc nhằm nâng cao kỹ năng đọc cho học lớp 5B trong tiết Tập đọc đạt
hiệu quả cao. Để giải quyết vấn đề này, tôi khảo sát năng lực đọc của học sinh
trong lớp 5B, tìm ra nguyên nhân và giải pháp rèn kỹ năng đọc qua mỗi tiết dạy,
giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm, hiểu và cảm thụ được bài văn, bài thơ. Giúp
cho giáo viên dạy tốt phân môn Tập đọc trong lớp 5B tôi chủ nhiệm và nhân
rộng trong khối 5 của trường tôi.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Từ cơ sở lý luận đến kết quả thực trạng nghiên cứu, tơi đã tìm ra một số giải
pháp để rèn đọc cho học sinh lớp 5B nhằm nâng cao chất lượng như sau:
* Giải pháp 1: Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung chương trình SGK

Tiếng Việt lớp 5 đặc biệt là phân môn Tập đọc.
Trong dạy học, để tổ chức các hoạt động dạy học tốt thì phải xác định đúng
mục tiêu của phân mơn đó, của từng bài cụ thể. Xác định càng rõ ràng, đúng đắn
thì tổ chức các hoạt động sẽ tốt.
Để tổ chức các hoạt động dạy - học phân môn Tập đọc thì trước hết phải bố
trí thời gian nghiên cứu hệ thống chủ điểm trong SGK Tiếng Việt, nghiên cứu kĩ
từng tiết học, sự phân bố các bài tập đọc ở mỗi đơn vị học, phải xác định rõ vị trí
của từng bài trong chương trình, bài đó thuộc thể loại văn bản nào (Văn xi,
thơ, văn bản hành chính) bài đó thuộc chủ đề gì? Bài trước đó là bài nào? Bố trí
như vậy sẽ tạo nên một số thuận lợi sau:
+ Xác định rõ được vị trí của từng bài sẽ giúp người giáo viên xác định rõ
được mục tiêu đúng, giọng đọc của từng bài và mức độ yêu cầu học sinh học
xong bài đó đọc với giọng như thế nào? Với bài học này học sinh thường phát
âm sai tiếng nào (Do ảnh hưởng của phương ngữ) và cần hướng dẫn học sinh
luyện đọc như thế nào cho chuẩn.
Ví dụ: Bài “ Kỳ diệu rừng xanh ” là bài dạy thuộc tiết thứ nhất, tuần 8, chủ
đề “Con người với thiên nhiên” - Chủ đề thứ ba của TV5 (Tập một). Chính vì
thế, u cầu học sinh đọc thành tiếng ở mức độ: Biết thể hiện giọng đọc như:
Đoạn 1: đọc giọng khoan thai, thể hiện thái độ ngỡ ngàng, ngưỡng mộ. Đoạn 2:
đọc nhanh ở những câu miêu tả hình ảnh thoắt ẩn, thoắt hiện của muông thú.
Đoạn 3: đọc thong thả ở những câu cuối miêu tả vẻ thơ mộng của cánh rừng
trong sắc vàng mênh mông, biết đọc thầm nắm ý cơ bản. Chú ý đọc các từ ngữ
mới, các từ dễ sai do ảnh hưởng phương ngữ như: Loanh quanh, lúp xúp, len
lách, sắc nắng… (do phương ngữ sai giữa n/l)
SGV có thể yêu cầu các từ khác như: màu sắc rực lên, lâu đài kiến trúc tân
kỳ, rừng rào rào chuyển động… giáo viên cần chắt lọc từ ngữ khó đọc theo đặc

5



điểm của địa phương lớp mình phụ trách khơng nhất thiết theo SGV, biết nghỉ
ngơi hợp lý sau dấu chấm, dấu phẩy và các cụm từ.
Nhưng tới bài “Lập làng giữ biển” (Tiết thứ nhất, tuần 22, thuộc chủ đề: Vì
cuộc sống thanh bình) ở mức độ bài này yêu cầu học sinh ở mức độ cao hơn đó
là biết đọc phân biệt lời dẫn chuyện với các lời nhân vật (bố Nhụ, ông Nhụ,
Nhụ), đọc đúng lời thoại giữa bố Nhụ ( nói với ơng của Nhụ) lúc đầu: rành rẽ,
điềm tĩnh, dứt khốt; sau hào hứng, sơi nổi khi nghĩ về một ngôi làng mới như
mọi ngôi làng trên đất liền. Lời ơng Nhụ (nói với bố Nhụ): kiên quyết, gay gắt.
Lời bố Nhụ ( nói với Nhụ): vui vẻ, thân mật: “Thế nào con, đi với bố chứ ?”.
Lời đáp của Nhụ: nhẹ nhàng. Giọng kể của người dẫn chuyện: rõ ràng, dễ đi vào
nội dung cốt chuyện.
+ Nghiên cứu được mục đích, yêu cầu của từng bài dạy thì sẽ lựa chọn được
các biện pháp, hình thức tổ chức phù hợp với tiết dạy, lựa chọn được đồ dùng
nào sẽ phục vụ cho từng hoạt động trong tiết dạy.
* Giải pháp 2: Rèn luyện giọng đọc mẫu của giáo viên.
Trong giờ Tập đọc giáo viên đọc mẫu tốt cũng góp phần đáng kể trong việc
rèn đọc cho học sinh rất nhiều. Bởi vì, các em ln luôn lấy giọng đọc của thầy
cô giáo làm mẫu. Bởi vậy, trước giờ Tập đọc, giáo viên phải nghiên cứu nội
dung, cách đọc và tập đọc nhiều lần.
+ Có thể đọc mẫu trong các trường hợp:
- Đọc mẫu toàn bài để gây hứng thú cho học sinh.
- Đọc mẫu âm, vần, tiếng khó.
- Đọc câu, đoạn giúp học sinh nhận xét, giải thích tìm ra cách đọc.
Tùy theo từng bài mà giáo viên đọc mẫu cả bài hoặc một đoạn, nhưng trước
hết người giáo viên phải đọc đúng, ngoài ra còn phải đọc diễn cảm tốt bài văn,
bài thơ. Muốn vậy giáo viên phải rèn luyện kỹ năng đọc cho mình một cách
nghiêm túc, giáo viên phải nghiên cứu kỹ cách đọc từng bài, và luyện đọc nhiều
lần trước khi đến lớp. Luyện đọc diễn cảm sao cho mỗi bài đọc của giáo viên
xứng đáng là bài đọc mẫu cho học sinh.
Ví dụ: Đọc bài: “Lịng dân” tiết thứ nhất, tuần 3 (Trang 24 - TV5 -T1) giọng

đọc thay đổi, linh hoạt, phù hợp với tính cách nhân vật và tình huống căng
thẳng, đầy kịch tính của vở kịch. Đọc diễn cảm đoạn kịch theo cách phân vai,
đúng ngữ điệu, giọng đọc (Giọng cai và lính: hống hách, xấc xược. Giọng dì
Năm và chú cán bộ ở đoạn đầu: tự nhiên. Ở đoạn sau: dì Năm rất khéo giả vờ
than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trối trăng với con khi bị dọa bắn
chết…).
+ Phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ,
hành động của nhân vật. Ví dụ:
Cai: ( Xẵng giọng) // Chồng chị à?
Dì Năm: - Dạ, chồng tui.
Cai: - Để coi. (Quay sang lính) // Trói nó lại cho tao // (chỉ dì Năm). Cứ trói
đi. Tao ra lịnh mà // (lính trói dì Năm lại).
Hoặc trong bài: “Chuyện một khu vườn nhỏ” tiết thứ nhất, tuần 11(Trang
102-TV5-T1). Giọng đọc nhẹ nhàng, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, biết nhấn giọng ở
6


những từ ngữ gợi tả ( khoái, rủ rỉ, ngọ nguậy, bé xíu, đỏ hồng nhọn hoắt,…); đọc
rõ giọng hồn nhiên, nhí nhảnh của bé Thu:
- Ơng ơi, đúng là có chú chim vừa đỗ ở đây bắt sâu và hót nữa ơng nhỉ!
Giọng hiền từ, chậm rãi của người ơng:
- Ừ, đúng rồi! Đất lành chim đậu, có gì là đâu hả cháu?
Hay là bài: “Luật tục xưa của người Ê- đê” tiết nhứ nhất, tuần 24 (Trang
56-TV5-T2). Đây là một văn bản hành chính nên giáo viên đọc thể hiện tính
nghiêm túc của văn bản. Tồn bài đọc với giọng rõ ràng, rành mạch, dứt khoát
giữa các câu, thể hiện tính chất nghiêm minh, rõ ràng của luật tục. Nhấn giọng ở
những từ ngữ: nhỏ, nhẹ, lớn, nặng, như vậy, chịu chết, không hỏi cha, chẳng hỏi
mẹ…. Đọc liền các cụm từ: gánh không nổi, vác không kham, nhìn tận mặt, bồi
thường gấp đơi…
Qua việc đọc mẫu tốt của giáo viên sẽ giúp học sinh hứng thú học tập và tự

tin hơn khi đọc.
* Giải pháp 3: Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh.
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
khơng có lỗi. Đọc đúng là khơng đọc thừa, khơng sót từng âm, vần và tiếng. Đọc
đúng bao gồm: Phát âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
* Cách thực hiện: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thực hiện:
Trước khi lên lớp, giáo viên dự kiến các lỗi của học sinh trong lớp dễ mắc.
Những từ, những câu khó trong bài để luyện đọc.
- Luyện đọc đúng các tiếng có âm đầu dễ lẫn là l/n, tr/ch: lặng lẽ, lần lượt,
lạnh lùng, len lách, loanh quanh, lúp xúp, sắc nắng, da trắng, đêm trăng, trong
vắt, chiến tranh,…
- Đọc đúng các tiếng có chứa vần khó đọc: Lưu luyến, loanh quanh, loay
hoay, …..
- Đọc đúng các tiếng có thanh ngã và thanh hỏi: gỗ, bão, rong ruổi, nẻo, vỗ,
vỡ,… Phần luyện đọc này phải kết hợp luôn trong phần đọc cá nhân.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Kỳ diệu rừng xanh” tiết thứ nhất, tuần 8 (Trang 85
-TV5 – T1)
Học sinh A đọc đoạn 1, học sinh B nhận xét: Phát hiện bạn đọc sai “noanh
quanh, núp xúp, rực nên, nâu đài, khổng nồ,”. Giáo viên cho học sinh A đọc lại
cho đúng:“loanh quanh, lúp xúp, rực lên, lâu đài, khổng lồ”, sau đó giáo viên
gọi 3 đến 4 em hay mắc lỗi phát âm sai phụ âm đầu l/n như trên đọc lại.
Ngoài việc luyện cho học sinh biết cách phát âm đúng, giáo viên còn phải
chú trọng cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm. Đặc
biệt phải hướng dẫn học sinh ngắt hơi ở các cụm từ ngữ để tách ý. Có nhiều cách
để hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ đúng:
Ví dụ 1: Khi đọc bài: “Hộp thư mật” tiết thứ hai, tuần 24 (Trang 62-TV5-T2).
Học sinh đọc:
“ Bao giờ hộp thư /cũng được đặt tại một nơi/ dễ tìm mà lại ít bị chú ý nhất.//”
+ GV giúp học sinh sửa lại bằng cách cho học sinh nhận xét: trình chiếu câu
văn đã ngắt sẵn như sau:

“Bao giờ/ hộp thư cũng được đặt tại một nơi dễ tìm/ mà lại ít bị chú ý nhất.//”
+ Sau đó yêu cầu học sinh đọc lại để so sánh hai cách đọc cách nào đúng?
7


* Các em đều thống nhất là đọc theo cách thứ hai mà giáo viên đã trình
chiếu câu văn ngăt sẵn trên màn hình.
Ví dụ 2: Trong bài: “Một chun gia máy xúc” tiết thứ nhất, tuần 5 (Trang
45- TV5-T1).
Học sinh đọc như sau: “Thế là A-lếch-xây đưa/bàn tay vừa to vừa chắc ra/
nắm lấy bàn tay đầy dầu mỡ/của tơi lắc mạnh và nói://”
- Giáo viên đọc lại câu văn và yêu cầu học sinh lắng nghe, phát hiện chỗ cô
giáo ngắt giọng:
“Thế là / A-lếch-xây đưa bàn tay vừa to/vừa chắc ra/nắm lấy bàn tay đầy
dầu mỡ của tơi lắc mạnh và nói://”
Sau đó giáo viên u cầu 3 em đọc lại câu văn trên. Từ đó giúp học sinh
phát hiện và ngắt nghỉ đúng .
Ví dụ 3: Đối với câu: “Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo
qủa đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những
thơn xóm Chin San”. “ Mùa Thảo quả” tiết thứ nhất, tuần 12 (TV5-T1)
- Giáo viên treo bảng phụ viết sẵn câu văn yêu cầu một học sinh giỏi lên
bảng đánh dấu chỗ ngắt nghỉ và đọc để các bạn trong lớp nhận xét, thống nhất
cách đọc đúng như sau: “Gió tây lướt thướt bay qua rừng,/ quyến hương thảo
qủa đi,/ rải theo triền núi,/ đưa hương thảo quả ngọt lựng,/ thơm nồng/ vào
những thơn xóm Chin San”//.
Đối với những bài thơ, GV hướng dẫn HS ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Ví dụ 4: Với những bài thơ lục bát, nhịp thơ phổ biến là 2/4 và 4/4. Nhưng
tuỳ từng bài phải phù hợp với âm điệu và nhịp:
“Chất trong vị ngọt/ mùi hương
Lặng thầm thay / những con đường ong bay./

Trải qua mưa nắng vơi đầy.
Men trời đất / đủ làm say đất trời. (Hành trình của bầy ong –TV5. T1)
Với bài : Hạt gạo làng ta, giáo viên cần căn cứ vào ý thơ của tác giả để
hướng dẫn học sinh cách đọc vắt sang dòng sau :
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sơng Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hơm nay”.
Từ dịng thơ 1 (Hạt gạo làng ta) chuyển sang dòng 2 (Có vị phù sa) có ngắt
nhịp tương đương một dấu phẩy. Từ dịng 2 (Có vị phù sa) sang dịng 3 (Của
sơng Kinh Thầy) hai dịng thơ đọc gần như liền mạch. Tương tự đọc vắt sang
dòng sau với các dòng còn lại. Từ cách đọc như vậy, học sinh hiểu rõ được nội
dung khổ thơ.
- Với những bài thơ có thể thơ tự do, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý tới
vần nhịp để ngắt nghỉ đúng và nhấn giọng một số từ ngữ:
“Gió hun hút / lạnh lùng
Trong đêm khuya / phố vắng
8


Súng trong tay im lặng
Chú đi tuần / đêm nay
Hải Phịng / n giấc ngủ say
Cây/ rung theo gió, lá / bay xuống đường...”
(Chú đi tuần – TV5. T2)
Như vậy, từ một số biện pháp trên giáo viên đã giúp học sinh dần dần có ý
thức tìm hiểu giọng đọc, cách đọc đúng và tự tin hơn khi đọc.

* Giải pháp 4: Hướng dẫn tốc độ đọc cho học sinh.
Như chúng ta đã biết, đối với học sinh Tiểu học đọc lưu lốt là nói đến
phẩm chất đọc về mặt tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ. Tốc độ đọc nhanh chỉ
thực hiện khi đã đọc đúng, khi đọc phải chú ý xác định tốc độ để cho người nghe
hiểu kịp được.
Nhưng đọc nhanh ở đây không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ đọc thành
tiếng của lớp 5 yêu cầu tối thiểu là 120 tiếng / phút.
* Cách thực hiện:
- Hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách giáo viên đọc mẫu hoặc
chọn học sinh đã đọc tốc độ chuẩn đọc mẫu để tất cả học sinh đọc thầm theo.
Ngoài ra, dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của
giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ: Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc một khổ thơ, một đoạn văn
tôi đều nhắc cả lớp đọc thầm theo.
Tơi cịn gây hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi như: Thi đọc tiếp
sức, đọc thơ truyền điện,… Kết thúc chơi bao giờ giáo viên cũng cho học sinh
chọn và tuyên dương nhóm đọc đúng nhất, hay nhất, giỏi nhất và gợi ý rút kinh
nghiệm về cách đọc.
Mặt khác muốn học sinh đọc lưu loát, đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài ở
nhà tốt, học sinh phải được đọc trước nhiều lần. Em nào đọc cịn chậm tơi giúp
học sinh đọc tốt hơn.
* Giải pháp 5: Rèn cho học sinh đọc có ý thức (đọc hiểu).
Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì trong giờ Tập đọc
giáo viên phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề cần
thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 5. Có hiểu nội dung bài văn, bài thơ thì
mới có cách đọc đúng, đọc diễn cảm được. Việc luyện đọc hiểu thường được
thực hiện trong bước đọc thầm.
Sự thực đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc
thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn để tiếp nhận, thơng hiểu nội
dung văn bản vì người ta không phải chú ý đến việc phát âm, chỉ tập trung để

hiểu nội dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng
thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý
thức đọc hiểu. Kết quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ,
câu, đoạn, bài tức là tồn bộ những gì mà các em đọc được.
* Cách thực hiện:
- Kết hợp chặt chẽ việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Giáo viên cho học
sinh đọc đến đâu tìm hiểu bài đến đó. Khơng tách rời hai khâu tìm hiểu bài và
rèn đọc.
9


Ví dụ: Khi dạy bài: “Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sơng Đà” (TV5-T1) của
nhà thơ Quang Huy. Sau khi cho học sinh đọc 2 khổ thơ đầu, giáo viên cho học
sinh tìm hiểu nội dung: Tìm câu thơ miêu tả cảnh đẹp đêm trăng trên sông Đà ?
Qua việc 1 học sinh đọc thành tiếng cả lớp đọc thầm theo, các em mới cảm nhận
được nội dung của 2 khổ thơ, mới thấy cảnh đêm trăng trên sông Đà thật là đẹp
và tĩnh mịch: “Một đêm trăng chơi vơi…”
“Cả công trường say ngủ cạnh dịng sơng
Những tháp khoan nhơ lên trời ngẫm nghĩ...”.
Tiếp đó, tơi u cầu cả lớp đọc thầm tồn bài để các em tìm những hình ảnh
đẹp trong bài thơ thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên trong đêm
trăng trên sông Đà. Học sinh đã đọc và tìm được những câu thơ thật đẹp (Chỉ
còn tiếng đàn ngân nga - Với một dòng trăng lấp lống sơng Đà - Chiếc đập lớn
nối liền hai khối núi - Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên.)
Như vậy từ việc đọc văn bản các em mới hiểu được nội dung của văn bản
và ngược lại có hiểu được nội dung của văn bản thì các em mới đọc đúng, đọc
hay được.
- Trong mỗi giờ tập đọc tôi cho HS đọc thành tiếng kết hợp với đọc thầm
nhiều lần. Đồng thời tôi giao nhiệm vụ cho HS trong khi đọc thầm để kiểm tra
kỹ năng đọc hiểu.

+ Đọc thầm lần 1: Kết hợp khi đọc nối tiếp từng đoạn.
+ Đọc thầm lần 2: Kết hợp khi 1 bạn đọc cả bài.
+ Đọc thầm lần 3: Khi giáo viên đọc diễn cảm.
+ Lần 4 đọc thầm kết hợp với thành tiếng khi tìm hiểu bài.
+ Lần 5 đọc thầm kết hợp với khi đọc diễn cảm.
Như vậy việc đọc thầm kết hợp với việc đọc cá nhân thành tiếng được
luyện nhiều lần, kết hợp nhuần nhuyễn trong một tiết học Tập đọc. Hoạt động
“Tìm hiểu bài” có kết hợp luyện đọc đoạn, bài. Các hoạt động được tổ chức diễn
ra một cách nhẹ nhàng, các hoạt động được lồng ghép vào nhau hỗ trợ cho nhau.
- Để giúp học sinh đọc hiểu tốt, tôi chuẩn bị hệ thống câu hỏi bổ sung, thêm
một vài câu hỏi ở trong sách giáo khoa phù hợp với từng bài học để học sinh nêu
được nội dung, nghệ thuật từng bài.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài “Phong cảnh đền Hùng” ( TV5 - T2), giáo viên
đặt các câu hỏi sau:
Em hãy đọc bài, tìm những từ ngữ miêu tả cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đền
Hùng? ( Những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều
màu sắc bay dập dờn, bên trái là đỉnh Ba Vì vịi vọi, bên phải là dãy Tam Đảo
… Những cành hoa đại, những gốc thơng già, giếng Ngọc trong xanh,...)
- Ngồi ra, hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa một số từ mới, giúp học sinh hiểu
nghĩa từ khó trong bài, khơng nên u cầu học sinh đọc từ chú giải trong SGK
mà giáo viên nên cho học sinh phát hiện từ khó giúp học sinh hiểu trong q
trình học sinh luyện đọc đoạn:
Ví dụ: Bài “ Nghìn năm văn hiến” ( SGK trang 15 -TV5 – T1)
Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa một số từ mới xen kẽ các hoạt động, ngay
phần giới thiệu bài đã giúp học sinh hiểu nghĩa “văn hiến”. Trong phần tổ chức
10


đọc đoạn, cần đề cập tới 2 từ khó đó là : “tiến sĩ”, “chứng tích”, các từ cịn lại
chuyển sang hoạt động “Tìm hiểu bài”. Cụ thể:

+ Hoạt động tìm hiểu bài, tổ chức học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi SGK
và bổ sung thêm ý nhằm giúp học sinh phát hiện rõ và minh bạch trong câu trả
lời sao cho phù hợp hợp với đối tượng học sinh, học sinh tìm hiểu nội dung bài
qua các hình thức như : Thảo luận, phiếu học tập, trò chơi...
+ Ngồi ra chụp một số hình ảnh Văn Miếu- Quốc Tử Giám trình lên màn
hình cho học sinh được biết, hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa từ bằng trực quan
cụ thể, giúp học sinh hiểu nghĩa từ:“Văn Miếu, Quốc Tử Giám”:

( Ảnh Văn miếu- Quốc Tử Giám)

Qua bức tranh sinh động được giáo viên trình chiếu ở trên giúp học sinh
khơng những hiểu về từ ngữ mà cịn giúp học sinh rõ được hình ảnh
“Văn Miếu - Quốc Tử Giám”. Rõ ràng học sinh phải động não và nói bằng lời
của mình, thơng qua đó, giáo dục các em tự hào với nền văn hiến lâu đời và tốt
đẹp của truyền thống văn hóa Việt Nam, giúp các em yêu thêm đất nước và con
người Việt Nam.
- Còn trong văn bản nghệ thuật, giáo viên hướng dẫn các em phát hiện
những tín hiệu nghệ thuật và đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt
nội dung.
Ví dụ: Khi học bài : “Đất nước” ( SGK trang 94- TV5 – T2) có 3 câu thơ:
“Gió thổi rừng tre / phấp phới
Trời thu / thay áo mới
Trong biếc / nói cười thiết tha…”
Tơi hướng dẫn học sinh tìm và phát hiện cách sử dụng từ ngữ của tác giả, ở
đây không đơn thuần tác giả dùng từ tả cảnh mùa thu mà đã sử dụng biện pháp
nhân hóa làm cho trời đất cũng thay áo, cũng nói cười như con người để thể hiện
niềm vui phơi phới, rộn ràng của thiên nhiên, đất trời trong mùa thu thắng lợi
của cuộc kháng chiến. Đó là giá trị của biện pháp nghệ thuật.

11



Như vậy, tất cả những cách thực hiện trên nhằm giúp cho học sinh hiểu nội
dung, nghệ thuật của văn bản để có cách đọc đúng và vươn tới mức độ cao hơn
đó là đọc diễn cảm.
* Giải pháp 6: Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh.
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn hoặc các yếu tố
của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ điệu,
chỗ ngừng, nghỉ, cường độ…để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã
gửi gắm trong bài đọc. Đồng thời thể hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của
người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao
và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu lốt.
* Cách tiến hành: Tơi đã thực hiện qua các bước:
Bước1: Nội dung của bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó nên bản thân tơi
khơng bao giờ áp đặt sẵn giọng đọc của mỗi bài mà tơi khuyến khích học sinh tự
tìm hiểu và nêu cách đọc và đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa. Giáo viên chỉ là
người lắng nghe, sửa cách đọc cho từng học sinh. Giáo viên nên khuyến khích,
động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm dưới nhiều hình thức khác nhau để tạo
sự hứng thú cho các em.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Sắc màu em yêu” ( SGK trang 19 - TV5 – T1).
Tôi yêu cầu học sinh đọc nối tiếp và tự phát hiện ra giọng đọc phù hợp của
bài thơ: Toàn bài thơ đọc với giọng nhẹ nhàng, tình cảm, âm lượng vừa phải; trải
dài, tha thiết ở khổ thơ cuối bài:
“…Trăm nghìn cảnh đẹp
Dành cho em ngoan
Em yêu / tất cả
Sắc màu Việt Nam.”
Cứ cuối mỗi giờ tập đọc, tôi yêu cầu học sinh đọc lại đoạn văn (hoặc khổ
thơ) mà em thích và nói lên lí do vì sao mình lại thích đoạn văn, khổ thơ đó.
Hoặc tổ chức thi đọc diễn cảm, đọc phân vai, đóng kịch ( Đối với các tác

phẩm có nhiều lời hội thoại như bài: “Trí dũng song tồn”, hay bài “Phân xử
tài tình” ( SGK trang 46 -TV5-T2).
Bởi thế mà trong giờ Tập đọc của lớp 5B (tôi chủ nhiệm) các em rất thích
tham gia đọc diễn cảm.
Bước 2: Đọc diễn cảm chỉ có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn
cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm… phù hợp với
từng ý cơ bản của bài đọc, với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn
giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả.
Để đọc diễn cảm, người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng làm chủ
được tốc độ đọc, làm chủ được cường độ và ngữ điệu.
Vì vậy, ở mỗi bài tập đọc giáo viên cần quan tâm hướng dẫn học sinh phát
hiện cách đọc diễn cảm, qua ý đồ nghệ thuật, bằng cách tự các em tìm tịi, khám
phá và tranh luận.
Ví dụ: Bài “Bài ca về trái đất” (TV 5 – T1). Các em đã ngắt nhịp và nhấn
giọng như sau:
“Trái đất này / là của chúng mình
Quả bóng xanh/ bay giữa trời xanh
12


Bồ câu ơi,/ tiếng chim gù thương mến
Hải âu ơi, / cánh chim vờn sóng biển
Cùng bay nào, / cho trái đất quay!
Cùng bay nào, / cho trái đất quay!
Trái đất trẻ / của bạn trẻ năm châu
Vàng, trắng, đen... / dù da khác màu ...”
Qua cách đọc ngắt nhịp và nhấn giọng như thế giúp các em cảm nhận được
những câu thơ gợi tả vể hình ảnh đẹp của trái đất: Trái đất giống như quả bóng
xanh bay giữa bầu trời xanh. Có tiếng chim bồ câu và những cánh chim hải âu
vờn trên sóng biển. Mỗi lồi hoa có vẻ đẹp riêng nhưng đều thơm và đáng quý,

như mọi người trên thế giới dù là da vàng, da trắng, da đen đều có quyền bình
đẳng, tự do như nhau, đều đáng quý, đáng yêu. … Nghệ thuật miêu tả của nhà
thơ thật tài hoa. Hoặc trong bài thơ : “ Những cánh buồm” ( TV5- T2) :
“Hai cha con / bước đi trên cát
Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh
Bóng cha / dài lênh khênh
Bóng con / trịn chắc nịch…”
Với cách đọc như thế, học sinh cảm nhận được những hình ảnh đã được gợi
tả trong bài thơ: Sau trận mưa đêm, bầu trời và bãi biển như được gội rửa. Mặt
trời nhuộm hồng tất cả bằng những tia nắng rực rỡ, cát mịn. Biển xanh lơ. Hai
cha con dạo chơi trên bãi biển. Người cha cao, gầy, bóng dài lênh khênh. Cậu
con trai bụ bẫm, bóng trịn, chắc nịch. Cảnh “Những cánh buồm” càng thêm
đẹp.
Hay trong bài: “Cửa sông” ( TV5 – T2).
Học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của hình ảnh, của nghệ thuật dùng từ rất
đặc biệt, tác giả cho ta như thấy: cửa sông cũng là một cái cửa nhưng khác với
mọi cái cửa bình thường, “Khơng khép lại bao giờ”, khơng có then cũng khơng
có khóa. Biện pháp độc đáo đó gọi là lối chơi chữ: tác giả dựa vào cái tên “Cửa
sông” để chơi chữ, qua cách thể hiện:
“Là cửa / nhưng khơng then khóa
Cũng khơng khép lại bao giờ
Mênh mơng / một vùng sóng nước
Mở ra bao nỗi đợi chờ…//”
Đọc diễn cảm còn thể hiện ở cách đọc đúng ở những kiểu câu chia theo mục
đích nói. Vì vậy, giáo viên luôn luôn nhắc nhở học sinh. Mỗi kiểu câu chia theo
mục đích nói đều có ngữ điệu riêng, hạ giọng cuối câu kể, lên giọng ở câu hỏi,
nhấn giọng ở những từ chỉ cảm xúc trong câu cảm.
- Ôi, chữ cơ giáo này ! Nhìn kìa!
( Bn Chư Lênh đón cô giáo – TV5 - T1)
Đây là câu cảm các em đọc giọng bất ngờ, nhấn giọng ở từ “chữ cơ giáo

này!” “Nhìn kìa!” thể hiện sự thán phục.
Luyện cho học sinh giọng đọc đúng những câu lặp đi lặp lại như:
“Trời xanh đây / là của chúng ta…” trong bài thơ “Đất nước” (TV5 -T2) của
nhà thơ Nguyễn Đình Thi với giọng đọc vui, khỏe khoắn, tràn đầy tự hào, thể
hiện niềm hạnh phúc về đất nước giờ đây đã tự do, đã thuộc về chúng ta.
13


Mặt khác thể hiện giọng đọc phù hợp với nhân vật cũng là bước thành cơng
lớn trong q trình đọc diễn cảm.
Các loại hình văn bản trong các bài tập đọc lớp 5 là: Thơ, văn xi thuộc
loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học, kịch… Trong đó truyện kể và kịch
thường xuất hiện nhiều nhân vật. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng đọc cho
học sinh lớp 5, điều không thể xem nhẹ là luyện đọc cho HS có giọng đọc phù
hợp với nhân vật. Sau khi hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài khi mà
các em đã nắm được nội dung bài, hiểu tính cách từng nhân vật, giáo viên cho
học sinh phát hiện cách đọc diễn cảm thể hiện giọng đọc của từng nhân vật.
Ví dụ:
+ Giọng ân hận sót thương: “ - Hôm nay là ngày giỗ cụ tổ năm đời của thần,
nhưng thần khơng có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên!”
+ Giọng cứng cỏi, dõng dạc: “- Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm
năm, sao hằng năm nhà vua vẫn bắt nước tơi cử người mang lễ vật sang cúng
giỗ? “
( Trí dũng song toàn)
+ Giọng kiên quyết, gay gắt: “Tao chết ở đây thơi. Sức khơng cịn chịu được
sóng.”
(Lập làng giữ biển)
+ Giọng vui vẻ thân mật: “Thế nào con, đi với bố chứ ?” (Lập làng giữ biển)
+ Giọng ôn tồn mà đĩnh đạc, uy nghiêm của quan án:
“- Hai người đều có lí nên ta xử thế này: tấm vải xé đôi, mỗi người một nửa.”

( Phân xử tài tình)
+ Hay giọng điềm đạm, nhẹ nhàng, tế nhị:
“Hơm nay là ngày Nơ - en. Tơi khơng có ai để tặng quà. Cho phép tôi đưa
cô về nhà và chúc cô một lễ Nô - en vui vẻ nhé !”
( Chuỗi ngọc lam)
+ Giọng hồi hộp, lo lắng “Còn chỗ cho một đứa bé.”
“ - Đứa nhỏ thôi! Nặng lắm rồi.”
( Một vụ đắm tàu)
+ Giọng tranh luận sôi nổi:
“ Theo tớ, qúy nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai không ăn mà sống
được không ? ”
( Cái gì qúy nhất )
Như vậy để hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng giọng nhân vật, giáo viên
phải giúp các em tìm hiểu bài tốt để nắm được đặc điểm, tính cách nhân vật. Từ
đó luyện cho các em có giọng đọc tốt, phù hợp với từng nhân vật, thay đổi và
đan xen cách đọc để tạo khơng khí sinh động hào hứng cho giờ học.
* Giải pháp 7- Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng :
Chúng ta biết rằng, vốn sống, vốn hiểu biết, vốn từ ngữ của học sinh tiểu
học còn hạn chế. Các bài Tập đọc mà học sinh được học có tác dụng mở rộng
tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên và đời sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và
nhân cách cho học sinh. Việc sử dụng đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng minh
họa cho lời giới thiệu, lời giảng, giải thích cho học sinh các nội dung khi tìm
hiểu bài trong phân môn Tập đọc. Không những các bài tập đọc là truyện kể
hoặc kịch, hay các văn bản thơ, văn bản khoa học, văn bản miêu tả, đều rất cần
đến tranh ảnh minh họa, học sinh sẽ hứng thú hơn và hiểu, cảm thụ bài tập đọc
14


nhanh hơn, tốt hơn. Tuy nhiên trong khi dạy Tập đọc tùy vào nội dung từng bài
mà giáo viên lựa chọn hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp, lựa chọn việc sử

dụng đồ dùng dạy học để hiệu quả giờ dạy cao hơn. Để giúp học sinh hiểu bài và
gây hứng thú khi học, giáo viên cần lựa chọn việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong giờ lên lớp.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc: Tiếng đàn ba-la-lai- ca trên sông Đà ( TV5-T1)
+ Giới thiệu bài: Tôi trình chiếu giới thiệu tồn cảnh hình ảnh cơng trình
thủy điện Hịa Bình sống động và giới thiệu:

Hình ảnh sơng Đà

(Đây là cơng trình lớn, được xây dựng với sự giúp đỡ của Liên Xơ. Xây
dựng cơng trình này, chúng ta muốn ngự trị dịng sơng, làm ra điện, điều hòa
nước cho đồng ruộng và phân lũ khi cần thiết để tránh lụt lội. Bài thơ Tiếng đàn
ba-la-lai-ca trên sông Đà sẽ giúp các em hiểu vẽ đẹp kỳ vĩ của cơng trình, sức
mạnh của những người đang chinh phục dịng sơng và sự gắn bó hịa quyện
giữa con người với thiên nhiên). Lôi cuốn các em vào nội dung bài tập đọc.
15


+ Khi tìm hiểu bài: Những chi tiết nào trong bài thơ gợi hình ảnh đêm trăng
trong bài rất tĩnh mịch? ( Cả cơng trường say ngủ cạnh dịng sơng/ Những tháp
khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ / Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ).
Giáo viên trình chiếu hình ảnh mà học sinh nêu trên để minh họa. Hình ảnh
“Trăng chơi vơi” được minh họa:

Trăng một mình sáng tỏ giữa trời đất bao la.
(Giúp học sinh cảm nhận được sự tĩnh mịch trong đêm trăng … Giúp học sinh
thêm yêu thiên nhiên, cảm thụ tốt bài tập đọc).
Như vậy áp dụng công nghệ thông tin vào dạy tập đọc sẽ giúp cho học giáo
viên minh họa được những hình ảnh mà mình giới thiệu, lời giảng, giải thích
thích cho học sinh một cách dễ dàng hơn, vừa cụ thể, sinh động, thực tế mà

không mất nhiều công sức, không tốn kém về kinh tế… Học sinh hứng thú, thu
hút vào bài một cách nhẹ nhàng hơn và cảm nhận được tình cảm đối với bài thơ,
bài văn, câu truyện, kịch hay văn bản khoa học … từ đó mà thể hiện giọng đọc
diễn cảm tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong một khoảng thời gian không dài, với các giải pháp nêu trên, tôi thấy
kết quả khả quan, hiệu quả giờ dạy của tôi được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng
thú học tập tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc
chưa đạt u cầu khơng cịn nữa. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm và hiểu văn bản
được tăng lên rất nhiều so với đầu năm. Qua việc đánh giá từ những tiết tập đọc
trên lớp, kết quả phân môn tập đọc của lớp 5B do tôi trực tiếp giảng dạy đã đạt
được như sau:
Lớp

Sĩ số

5B

30

Chất lượng, mức độ đọc
Trôi chảy, rõ ràng, ngắt nghỉ đúng
Đọc hiểu
Đọc diễn cảm

Số lượng
30/30
29/30
25/30


Tỷ lệ
100%
96,7%
83,3%
16


* Kết quả thi cuối học kỳ I của môn Tiếng Việt:
Lớp Sĩ số
5B

30

Điểm 9,10
SL
TL
17
56,6

Điểm 7,8
SL
TL
12
40,

Điểm 5,6
SL
TL
1
3,4


Điểm dưới 5
SL
TL
0
0

Kết quả trên cho thấy, những giải pháp mà tôi đã áp dụng trong quá trình
rèn đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc lớp 5 phần nào có giá trị ứng dụng trong
thực tế. Để việc rèn đọc cho học sinh đạt kết quả cao, giáo viên phải biết kết hợp
các giải pháp và sử dụng có hiệu quả, có hệ thống kế hoạch đã vạch ra.
Từ kết quả thực nghiệm trên, tôi tiếp tục đề xuất với tổ khối chuyên môn,
với ban giám hiệu để nhân rộng các giải pháp trên ở phân môn Tập đọc khối 4
và khối 5 trong thời gian tiếp theo để nâng cao chất lượng đọc trong toàn trường.

17


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua thực tế rèn đọc cho học sinh lớp 5, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Người giáo viên phải có trình độ chun mơn vững vàng, vốn ngơn ngữ văn
học phong phú, vốn sống thực tế và đặc biệt là phải luyện cho mình có giọng
đọc hay, truyền cảm.
- Coi trọng việc đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm của học sinh. Trong giờ
Tập đọc không biến giờ Tập đọc thành tiết giảng văn mà chú ý rèn đọc cho học
sinh, tạo cho các em tính tự tin và ý thức rèn đọc. Coi trọng khâu đọc hiểu và
đọc diễn cảm. Không cảm thụ hộ học sinh, không áp đặt cách đọc, giọng đọc mà
các em tự tìm ra cái hay, cái đẹp trong từng văn bản, tự các em tìm ra cách đọc
hay nhất phù hợp với nội dung từng bài.

- Giáo viên tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc khi dạy học, không cảm thụ hộ
học sinh, không bắt buộc học sinh đọc một cách đọc mà giáo viên đưa ra. Ngồi
ra giáo viên cịn giúp học sinh khơi gợi cảm xúc, ý tưởng độc đáo của các em để
các em tự tìm ra cách đọc.
- Người giáo viên phải hết sức coi trọng hoạt động dạy học của học sinh tập
trung hướng vào người học, phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên có
nghệ thuật sư phạm để hướng dẫn mỗi cá nhân học sinh chiếm lĩnh tri thức.
- Không tỏ thái độ nôn nóng, cáu gắt mà ln tạo ra khơng khí vui tươi thoải
mái trong tiết học để các em thấy rằng đó là một “sân chơi” bổ ích và lý thú chứ
không phải là giờ học căng thẳng.
- Giáo viên phải triệt để sử dụng đồ dùng trực quan hỗ trợ cho việc tìm hiểu
bài, tổ chức các hình thức học tập linh hoạt, sáng tạo.
3.2. Kiến nghị:
+ Phòng GD& ĐT nên tổ chức thường xuyên những hội thảo chuyên đề đi sâu
vào từng phân môn.
+ Các cụm trường: Tổ chức chuyên đề để tạo điều kiện cho giáo viên được
thực hành dạy và học hỏi, nâng cao tay nghề.
Trên đây là những giải pháp của bản thân trong quá trình “ Rèn đọc cho học
sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn tập đọc ở lớp 5.” Tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề
tài được hoàn chỉnh hơn, các giải pháp trên mang tính khả thi hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hưng Lộc, ngày 20 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện


18


Hoàng Văn Khuyên

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy Tiếng Việt/ Trần Mạnh Hưởng.
2. Hỏi đáp về dạy Tiếng Việt của Tiểu học/ Lê Phương Nga.
3. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5/ Tập 1. Tập 2.
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5. / Tập 1. Tập 2.
5. Dạy cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học.



×