LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch ngày nay đã trở thành một ngành kinh tế phát triển nhanh và chiếm vị
trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nhiều quốc gia. Việt Nam là một nước được
biết đến với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng được thế giới công nhận là di sản văn
hoá thế giới: Vịnh Hạ Long, Phong Nha, Kẻ Bàng, Thánh Địa Mĩ Sơn, Cố Đô Huế,
Phố Cổ Hội An, Nhã Nhạc Cung Đình Huế, . . . Cùng với điều kiện tự nhiên phong
phú và đa dạng. Nằm trên bán đảo Đông dương ở Đông Nam Á, về đường thuỷ Việt
Nam thuận tiện về địa lý là điểm gặp giữa Thái BìnhDương và Ấn Độ Dương. Về
đường bộ phía Bắc Việt Nam tiếp giáp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; phía tây
tiếp giáp hai nước Lào và Campuchia; phía Đông và Nam tiếp giáp biển Đông và
Vịnh Thái Lan. Tổng chiều dài đường biển trên đất liền của Việt Nam là trên 3. 730
km, thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ biển và du lịch sinh thái như :Bãi Cháy- Hạ
Long, biển Thiên Cầm- Hà Tĩnh, Cửa Lò- Nghệ An, Vũng Tàu, Nha Trang- Khánh
Hoà, biển Phan Thiết. . . Bên cạnh đó thì Việt Nam còn có một hệ Sinh thái rừng
nguyên sinh còn chưa được khai thác như Cúc Phương- Ninh Bình, Pù Mát - Nghệ
An, . . . Việt Nam đã và đang là điểm đến lý tưởng của bạn bè du khách quốc tế. Để
làm được điều đó thì Việt Nam dần đần đẩy mạnh đầu tư và nâng cấp hạ tầng cơ sở
du lịch ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Một trong những biện pháp cơ bản để thu
hút khách du lịch là tạo ra các sản phẩm dịch vụ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu và sở thích
của du khách, tuy nhiên nếu sản phẩm hấp dẫn nhưng môi trường du lịch kém thì
không tạo được nền tảng vững chắc cho sự phát triển của hoạt động du lịch. Môi
trường du lịch ở đây được hiểu như một khái niệm rộng gồm: môi trường tự nhiên và
văn hoá du lịch. Trong những năm qua cùng với sự phát triển của ngành du lịch nước
nhà, chúng ta đã làm đươc khá nhiều việc, tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực
cũng còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết như nạn ô nhiễm môi trường tự
nhiên tại các điểm du lịch, một số tệ nạn ăn xin, trộm cắp, đeo bám khách mua
hàng.. . vẫn chưa được giải quyết triệt để. Điều này làm giảm hình ảnh của Việt Nam
- một đất nước tươi đẹp và hiếu khách trong con mắt du khách quốc tế.
1
Chính vì mục đích muốn truyền tải một phần nào đấy về tình hình môi trường
du lịch hiện nay ở Việt Nam. Đề tài xoay quanh vấn đề về bảo vệ môi trường du lịch
hiện nay ở nước ta, đã làm được gì và chưa làm được gì? Từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hạn chế phần nào những ảnh hưởng xấu đến môi trường dulịch nói riêng và môi
trường kinh tế xã hội nói chung. Do hạn chế về mặt kiến thức và tài liệu có hạn cho
nên đề tài chỉ phản ánh được tình hình môi trường du lịch ở Thành phố Hà Nội và một
số tỉnh phía Bắc hiện nay ở Việt Nam. Thủ đô Hà Nội - thành phố vì hoà bình đã và
đang trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút ngày càng đông du khách trong nước và
quốc tế. Trong tháng 8 đầu năm 2004, Hà Nội đã đón 600. 000 khách quốc tế, tăng
32% so với cùng kỳ năm ngoái, doanh thu du lịch đạt 3200 tỷ đồng. Những kết quả đó
phần nào khẳng định vai trò quan trọng của ngành Du lịch Hà Nội trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội hướng tới xây dựng Du lịch Hà Nội thành du lịch văn hoá,
du lịch sạch, chủ trương của lãnh đạo ngành du lịch Hà Nội là tăng cường kiểm soát
việc chấp hành các quy định của nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội và tăng
cường bảo vệ môi trường du lịch, hướng tới phát triển bến vững.
2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DU LỊCH MÔI TRƯỜNG
1.1. Khái niệm chung về du lịch và môi trường
Như chúng ta đã biết rằng để phát triển du lịch thì điều kiện đầu tiên không thể
thiếu là tài nguyên thiên nhiên. Trong đó thì môi trường tự nhiên như môi trường
nước, không khí, đất đai đồi núi là yếu tố chính nhằm đem đến sự thoả mãn cho du
khách du lịch. Theo luật bảo vệ môi trường của nước ta công bố ngày10/1/1994: Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và thiên nhiên. Khi du lịch ngày càng phát triển thì đồng nghĩa với tác
động không nhỏ đến môi trường tự nhiên như suy thoái đât đai, nguồn nước, cảnh
quan tự nhiên sẽ bị phá vỡ, dần dần thì vẻ đẹp tự nhiên của nó sẽ không còn nữa và
thay vào đó là các hệ thống xử lý rác thải mà thôi.
1. 1. 1. Du lịch sinh thái (hay con gọi là du lịch tự nhiên) đây là loại hình du
lịch ngày càng được ưa chuộng và phát triển với tốc độ nhanh trên phạm vi toàn thế
giới. Theo định nghĩa của Hiệp hội Du lịch sinh thái thế giới (Ecotorism society): "Du
lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là nơi bảo tồn môi
trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương". Cùng với khai thác tài nguyên
du lịch thì con người phải quan tâm đến sự tồn tại và phát triển cuả môi trường tự
nhiên bằng các biện pháp lâu dài. Khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển,
sự ra đời của các loại máy móc thì mặt trái của vấn đề ô nhiễm môi trường và suy
thoái hệ sinh khí quyển ngày càng cao. Làm cho tài nguyên du lịch ngày bị cạn kiệt,
mất đi thẩm mĩ của nó. . . Loại hình du lịch sinh thái thực chất là loại có quy mô
không lớn, nhưng có tác dụng hoà nhập với môi trường tự nhiên ở điểm du lịch, khu
du lịch và nền văn hoá ở đó. Chính loại hình du lịch nay Tổ chức Du lịch thế giới đã
khẳng định đối với các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách
cùng người dân ổ vùng có du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng vv. . . đồng thời chú
trọng việc tôn tạo nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch để có điều kiện phát
triển hoạt động của du lịch trong tương lai.
3
Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ: bảo tồn tài nguyên của môi trường tự
nhiên; bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ
đang chiêm ngưỡng ;thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương
trong việc quản lý bảo vệ và phat triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm du
lịch, khu du lịch vv. . . Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói lên loại hinh du lịch sinh
thái vừa bảo đảm sự hài lòng đối vơí du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối
với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó
ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lich và
cũng là cơ hội tăng thu nhập từ hoạt động du lịch đối với các nhóm dân cư trong cộng
đồng địa phương, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du lịch.
Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoà hảo về loại hình du lịch sinh thái. Loại hình
du lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm 1997-1998 Tổ chức Du lịch thế
giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm chuyển mạnh sang loại hình du lịch
sinh thái phù hợp với điều kiện mới của sự phát triển du lịch. Nói chung du lịch sinh
thái là loại hình du lịch dựa vào những hình thức truyền thống sẵn có, nhưng có sự
hoà nhập vào môi trường tự nhiên và nền văn hoá bản địa, du khách có thêm những
nhận thức về đặc điểm của môi trường tự nhiên, về nhưng nét đặc thù vốn có văn hoá
cổ điển, vùng, khu du lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn
thất, xâm hại đối với môi trường tự nhiên và nền văn hoá sở tại.
1. 1. 2. Phát triển bền vững trong du lịch.
Theo Hội đồng Thế giới về Môi trường và phát triển thì "Phát triển bền vững là
sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ
tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ". Sự phát triển của một quốc gia phải
được đảm bảo một cách thống nhất và đồng thời trên 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi
trường. Bền vững về kinh tế thể hiện một cách khái quát ở sự ổn định và không ngừng
gia tăng sức sản xuất của quốc gia, thông thường được hiển thị bằng chỉ tiêu tổng sản
phẩm quốc gia trên đầu người (GDP/người). Bền vững ở xã hội thể hiện ở sự phân
chia thu nhập và phúc lợi xã hội, thông thường đươc hiển thị bằng tính công bằng
trong phân bố các tầng lớp giàu nghèo trong xã hội. Bền vững về môi trường thể hiện
ổ sự sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và điều kiện môi trường xã hội,
4
phục vụ nhu cầu các thế hệ hiện tại mà vẫn để lại cho các thế hệ tương lai nhưng tài
nguyên và điều kiên môi trường cần thiết cho sự phát triển của họ. Ngày nay song
song với việc phát triển du lịch là đi đôi với việc tàn phá môi trường tự nhiên xung
quanh. Những việc phá hoại môi trường này chỉ đem lại cho quốc gia và doanh
nghiệp một chút ít lợi ích trước mắt, còn về lâu dài đây chính là mối nguy hại đe doạ
đến sự sống còn của môi trường, từ năm 1990 ý nghĩa của việc phát triển du lịch môi
trường, một xu thế phát triển lâu dài đã được biết tới. Cho nên chủ trương của Tổng
cục du lịch Việt Nam hiên nay khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tập
trung vào phát triển du lịch bền vững hay còn gọi "du lịch sinh thái ", " du lịch xanh".
Ở đây hàm hai ý nghĩa, một là khái niệm về tính" liên tục", hai là khái niệm về tính"
bảo tồn ". Để làm được điều đó thì phải có chiến lược lâu dài về việc bảo vệ môi
trường xã hội nói chung và môi trường du lịch nói riêng. Nhưng trên thực tế cho thấy,
phát triển bền vững đòi hỏi phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất lương
thực, chất đốt trong khi vẫn mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của số dân tăng
nhanh, hay ngày càng nhiều công trình kiến trúc mọc lên ngay khu bảo tồn thiên
nhiên thì thật là mâu thuẫn. Khi mà diện tích đất hoang dã, đất không thích hợp cho
con người sử dụng tiếp tục tăng, thu hẹp địa bàn cư trú của các loài hoang dã. Các
rừng nhiệt đới, hệ sinh thái, rạng san hô, rừng ngập mặn ven biển, các bãi biển và
nhiều địa bàn cư trú duy nhất khác đang bị phá huỷ dẫn đến nguy cơ diệt chủng của
một số loài.
Tóm lại, phát triển du lịch môi trường bao gồm các yếu tố như sau: khai thác và
phát triển tài nguyên, bảo tồn sinh thái, khống chế sự thay đổi của môi trường sinh
thái đồng thời bảo vệ duy trì cân bằng môi trường tự nhiên, đồng thời khôi phục
những nguồn tài nguyên đã bị huỷ hoại. Tức khi có mục tiêu phát triển một khu du
lịch nào đó, chúng ta phải xây dựng kế hoạch phát triển dựa trên những đặc trưng thế
mạnh của khu vực đó, đồng thời phải có quyết định đúng đẳn trong việc có ứng dụng
những yếu tố trên.
5
1. 2. Các tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên và môi trường.
Tác động của hoạt động du lịch đến môi trường sẽ có thể dẫn đến những hậu
quả làm thay đổi đặc điểm sử dụng tài nguyên, hay đặc tính của môi trường. Đầu tiên
là tác động đến tài nguyên thiên nhiên; phát triển du lịch và các hoạt động có liên
quan góp phần làm cho các tài nguyên thiên nhiên bị xuống cấp về mặt môi trường.
Đó là hậu quả của việc sử dụng đất đai, xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch và các
hoạt động liên quan đến việc vận hành và bảo dưỡng các công trình du lịch cần thiết
để duy trì các hoạt động giải trí cho du khách. Tác động về môi trưòng về hoạt động
du lịch đối với tài nguyên thiên nhiên được thể hiện một cách rõ nét nhất là những bộ
phân: tài nguyên nước, tài nguyên không khí, tài nguyên đất, tài nguyên sinh học. Tác
động đến tài nguyên nước. Việc phát triển cơ sở vật chất du lịch chủ yếu tập trung vào
xây dựng các công trình dịch vụ phục vụ nhu câù của du khách. Có thể phân loại các
tác động về môi trườngcủa hoạt động này đối với tài nguyên nước ra làm: tác động
trước mắt và tác động lâu dài. Tác động trước mắt được thể hiện ngay trong giai đoạn
xây dựng, còn tác động lâu dài thường là do việc vận hành và bảo dưỡng các công
trình du lịch. Những tác động trước mắt bao gồm: việc thải bừa bãi các vật liệu xây
dựng, đất đá và các vật liệu nạo vét, đặc biệt là những nơi chặt phá rừng ngập mặn,
làm cho chất lượng nước giảm đi rât nhiều. Việc giải phóng mặt bằng và san ủi đất để
xây dựng các công trình và làm đường có thể sẽ gây ra xói mòn và sụt lở đất, ảnh
hưởng trực tếp đến chất lượng nước mặt. Các hoạt động trong quá trình xây dựng sẽ
làm ô nhiễm nguồn nớc, do việc vứt rác và đổ rác bừa bãi vào các nguồn nước, cũng
như thái một lượng xăng dầu nhất định trong quá trình vận hành các thiết bị xây dựng.
Một số tác động lâu dài bao gồm, đất bị sụt lở hoặc rác rưởi trôi dạt sẽ làm tăng thêm
lượng bùn và các chất cặn, vì thế mà chất lượng nguồn nước kém đi. Một hậu quả
đáng kể là xói mòn, nhiễm bẩn bởi nước thải, ô nhiễm nước mặt bởi rác rưởi và các
thứ khác. Nước thải chưa được xử lý tốt vì không có hoặc không đủ thiết bị xử lý,
hoặc thiết bị làm việc không đảm bảo chất lượng, do đó tác động lâu dài đến chất
lượng nước ngầm cũng như nước mặt. Hoạt động của du khách cũng là nguyên ngân
gây nên ô nhiễm nguồn nước như vứt rác bừa bãi ( khi qua phà ) đổ các chất lỏng. . .
6
Thứ hai là tác động đến tài nguyên không khí. Bụi và các chất gây ô nhiễm
không khí xuất hiện chủ yếu là do hoạt động giao thông, do sản xuất và sử dụng năng
lượng. Tăng cường sử dụng giao thông cơ giới là nguyên nhân đáng kể gây nên bụi
bặm và ô nhiễm không khí. Trạng thái ồn ào phát sinh do việc tăng cường sử dụng các
phương tiện ồn ào như thuyền, phà gắn máy, xe máy. . . cũng như hoạt động của du
khách tại các điểm dịch vụ du lịch như ở các sàn nhảy. . . tạo nên hậu quả trước mắt
và lâu dài. Tiếp theo phải kể đến đó là tác động đến tài nguyên đất, khi một số khu
vực tự nhiên có giá trị như bãi tắm, cánh rừng xanh trong nhiều trường hợp bị ngăn
lại không cho dân địa phương vào vì chúng trở thành tài sẳn riêng của khách sạn hoặc
tư nhân kinh doanh ngành du lịch. Phát triển du lịch kéo theo việc xây dựng kết cấu
hạ tầng khách sạn và các công trình dịch vụ du lịch. Điều này tất yếu dẫn đến việc
xâm lấn những diện tích đất trước đây trồng trọt và chăn nuôi. Đây là bước chuyển
đổi dạng sử dụng đất với hiệu quả sử dụng cao hơn, nhưng lại làm giảm đi quỹ đất
nông nghiệp. Tác động đến tài nguyên sinh vật như : ô nhiễm môi trường sống, cùng
với việc mất đi cảnh quan tự nhiên, những khu đất trồng trọt và chăn nuôi là nguyên
nhân làm cho một số loài thực vật và động vật dần dần bị mất nơi cư trú. Một số hoạt
động thái quá của du khách như chặt cây, bể cành, săn bắn chim thú tại những khu
rừng tự nhiên cũng là nguyên nhân làm giảm sút cả số lượng và chất lượng sinh vật
trong phạm vi khu du lịch. Trong môi trường bảo tồn dã thú, việc vứt rác bừa bãi gây
tác động trực tiếp đến cuộc sống trước mắt cũng như lâu dài của các loaì động vật;
nhiều khi còn ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân viên phục vụ cũng như du khách đến
khu du lịch bởi các dịch bệnh phát sinh từ các chất thải không được xử lý. Hoạt động
của du khách có tác động lớn đến các hệ sinh thái. Các hoạt động du lịch dưới nước
như nhặt sò. ốc, khai thác san hô làm đồ lưu niệm, đi trên bãi đá ngầm, đứng trên bãi
san hô và thả neo tại những bãi san hô, nơi sinh sống của các loại sinh vật dưới nước
cũng sễ bị huỷ hoại. Các khu rừng nguyên sinh đặc biệt dễ bị tổn thương khi có nhiều
du khách. Những hoạt động như sự đi lại của xe, giẫm đạp lên cỏ, hái hoa quả bừa
bãi, c hặt cây laeo núi ồ ạt vv. . . làm mất dần nhiều loại động thực vật. Ở các khu bảo
tồn thú hoang dã, hoạt động của các đoàn xe và khách du lich cũng có ảnh hưởng xấu
7
đến môi trường sống làm cho sự yên tĩnh bị mất đi, các sinh vật phải thay đổi tập
tính, trở nên sợ sệt, thậm chí nhiều con thú bị chết vì tai nạn do con người gây ra.
Mặt khác du lịch cũng là yếu tố không nhỏ tác động đến cộng đồng dân cư sở
tại. Bởi vì du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh
do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở
tại và cộng đồng dân cư địa phương và thu hút kháhc du lịch. Các chủ thể này tác
động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ với các hoạt động du lịch mà du khách là
trung tâm. Đối với công đồng dân cư địa phương, du lịch là một cơ hội để tìm việc
làm, tạo thu nhập; đồng thời họ cũng là những nhân tố hấp dẫn khách du lịch bởi lòng
hiếu khách và phong tục tập quán, bản sắc văn hoá. Mặt khác, cộng đồng dân cư nơi
khác đến du lich cũng chịu tác đông nhiều chiều của hoạt động du lịch. Cộng đồng
được hiểu là một nhóm dân cư cùng sinh sống trên một lãnh thổ qua nhiều thế hệ và
có những đặc điểm chung về sinh hoạt và văn hoá truyền thống, sự dụng các nguồn tài
nguyên, môi trường. Cộng đồng là nền tảng của phát triển xã hội, cuôc sống của cộng
đồng dựa trên viêc khai thác tài nguyên nơi mình sinh sống cùng với việc phát triển
các phong tục, tập quán riêng mang dậm bản sắc của mỗi cộng đồng. Việc khai thác
càng tăng trong sự phát triển chung, vì vậy tác động và ảnh hưởng của nó ở các mức
độ khác nhau đên cuộc sống cộng đồng dân cư cũng ngày một gia tăng.
Tác động của du lịch lên cộng đồng có cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong
bài viết này nhấn mạnh đến tác động không thuận. Trong một số các dự án
phát triển du lịch, người dân địa phương bị buôc phải rời khỏi nơi cư trú và rời bỏ
các ngành nghề truyền thống gắn bó với họ qua nhiều thế hệ. Cộng đồng dân cư
địa phương sẽ không được chia sẻ hoặc chia sẻ không thoả đáng lợi nhuận từ việc
phát triển du lịch
Nếu như các nhà kinh doanh không tuân thủ theo nguyên tắc phát triển du lịch
bền vững. Những mâu thẫn xã hội sẽ được nay sinh giữa các thành viên của cộng
đồng do có sụ tranh chấp các lợi thế để có được nguồn thu tốt hơn từ du lịch. Điều
này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó đặc trưng cho cuộc sống truyền thống của
cộng đồng. Bên cạnh đó, các lối sống mới được khách du nhập sẽ có tác động nhiều
8
mặt đến cộng đồng nhất là giới trẻ. Các xung đột mới có thể nảy sinh và gây ra chia rẽ
cộng đồng. Truyền thống văn hoá của địa phương có thể sẽ bị thương mại hoá để đáp
ứng nhu cầu của du khách. Đã có người cảnh báo những hiệu ứng như vậy và gọi là
sự xâm lăng văn hoá, thông qua hoạt động du khách không được quản lý tốt. Ngoài
ra, chất lượng cuộc sống cộng đồng cũng có thể bị ảnh hưởng do giá cả sinh hoạt tăng
vì cầu tăng vượt khả năng cung.
Những tác động không thuận lợi nói trên sẽ là những nguyên nhân gây ra xung
đột du lịch và kết quả là quá trình phát triển du lịch không bền vững và sẽ không đem
lại hiệu quả kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường như mong muốn. Ngay cả khi
không xảy ra xung đột giữa cộng đồng và phát triển du lịch nhưng nếu thiếu kiểm soát
và không có sự tham gia tích cực của cộng đồng thì sự suy thoái môi trường tự nhiên
và các thay đổi giá trị văn hoá sẽ làm mất dần tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch.
Để loại trừ được những tác động ngược chiều của sự phat triển du lịch đối với cộng
đồng dân cư và ngược lại, rất cần phát triển du lịch bền vững. Mục tiêu của phát triển
du lịch bền vững là đem lại lợi ích cho cộng đồng và phát triển du lịch bền vững chỉ
có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cộng đồng. Để phát triển du lịch bền
vững cần có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên để thoả mãn các nhu cầu kinh
tế, xã hội và thẩm mỹ của con người trong khi vẫn duy trì được sự phát triển lâu dài
cho thế hệ mai sau.
Nhưng chung quy thi khi nói đến con người và tổng thể mối quan hệ giữa nó và
con người thì chúng ta phải quan tâm đến cả hai khía cạnh, tích cực và tiêu cực mà
các yếu tố đem lại. Sự sống của con người chỉ có thể duy trì khi sống trong môi
trường không khí trong lành, có cây xanh và tính cộng sinh giữa các loài mà thôi.
Cũng như du lịch và các yếu tố liên quan đến nó như khách du lịch, Cộng đồng dân
cư, nhà cung cấp, chính quyền nhân dân sở tại. Tất cả đều nhằm mục đích phát triển
ngành du lịch, ngành được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói.
1. 3 Nhận định chung về phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi trường.
Theo tổ chức du lich thế giới (WTO) thì : " phát triển du lịch bền vững là việc
phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu về hiện tại của du khách và
người dân bản địa, trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài
9
nguyên cho phát triển du lịch trong tương lai ". Phát triển du lịch bền vững là đáp
ứng đầy đủ nhất, tiện nghi nhất các nhu cầu của khách du lịch, tạo sức hút du khách
đến các vùng, điểm du lịch ngày nay đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng cho
tương lai.
Sự phát triển với quy mô lớn và tốc độ nhanh, mạnh của nganh Du lịch Việt
Nam trong những năm gần đây (đặc biệt là cuối những năm của thế kỷ 20) đã và
đang gây ra những bất cập, những hạn chế về môi trường. Theo quan điểm chung,
môi trường du lịch được hiểu là các điều kiện, các điều kiện cac yếu tố tự nhiên, kinh
tế xã hội va nhân văn của từng vùng lãnh thổ cụ thể, mà trong đó các hoạt động du
lịch tồn tại và phát triển. Rõ ràng sự phát triển ngành Du lịch luôn có mối liên hệ mật
thiết, chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của từng vùng và của cả nước,
liên quan đến các công việc cụ thể, các quá trình khai thác tài nguyên môi trường.
Trên thực tế ở nước ta, tại rất nhiều vùng, điểm du lịch truyền thống, nổi tiếng và có
nhiều tiềm năng đã và đang phải chịu những áp lực khá lớn từ phía các khía cạnh môi
trường. Đặc biệt là những khu vực đó xuất hiện ngày càng mạnh các hiện tượng, các
quá trình ô nhiễm, sự xuống cấp nhanh chóng của điều kiện môi trường kinh tế, xã hội
và nhân văn, sự suy giảm tới mức báo động của nhiều dạng tài nguyên, các yếu tố môi
trường tự nhiên, sinh thái. . . Đứng trước một thực tế như vậy, để có thể phát triển
ngành kinh tế này thì những vần đề về môi trường cũng cần phải được đạt ra và giải
quyết một cách nghiêm túc, đầy đủ sao cho vừa phát triển , vừa khai thác với hiểu
quả cao nhất về du lịch nhưng lại phải đảm bảo sự phát triển lâu dài .
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận nghiên cứu tổng hợp, áp dụng các tiêu chí,
các nguyên tắc và những giải pháp phát triển bền vững kinh tế xã hội chung, môi
trường du lịch nói riêng. Môi trường du lịch có hâp dẫn khách du lịch hay không
trước tiên phải kể đến các yếu tố tài nguyên du lịch. Khách du lịch đến mục đích của
họ là tham quan, để thoả mãn" con mắt" của họ. Khi mà đời sống của con người ngày
càng tăng thì nhu cầu đi du lịch của ngưòi ta càng cao. Quanh năm suốt tháng phải
tiếp xúc với bụi bẩn, ồn ào của chốn đô thị, những ngày nghỉ con người ta muón
thoát khỏi cuộc sống bình thường đó, và họ đi du lịch. Chỉ đến những nơi có thiên
nhiên đẹp, trong lành. và yên tĩnh sẽ thoả mãn được nhu cầu của họ. Chính vì điều đó,
10
môi trường rất quan trọng trong kinh doanh du lịch. Sự suy giảm về trữ lượng và chất
lượng của các tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa cơ bản đối với cuộc sống của con
người như: đất đai, nước, rừng, thuỷ sản, khoáng sản và các dạng tài nguyên năng
lượng. Sự suy thoái này trong thập kỷ 21 có khả năng dẫn tới tình trạng thiếu thốn
nghiêm trọng về lương thực, hay về các nhu câu cần thiết của con người nói chung. Ô
nhiễm môi trường sống của con người với tốc độ nhanh và phạm vi lớn hơn trước.
Không khí, nước, đất đai, cac đô thị, khu công nghiệp, vùng ven biển, đại dương ngày
càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến không chỉ ngành du lịch, mà còn nguy hai hơn
đó là sức khoẻ, đời sống của con người cũng như sự suy tồn và phát triển của các
sinh vật khác trên trái đất. Để phần nào khắc phục được những bất cập trên thì cần
đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa phát triênr du lịch với các kế hoạch, các phương án
quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác theo một nội dung thống nhất trong phat
triển kinh tế xã hội chung của từng vùng, nghiên cứu và cho toàn lãnh thổ của đất
nước. Trong nguyên tắc này cần chú ý tới việc xem xét tỷ trọng của ngành du lịch,
đánh giá thực trạng cũng như dự kiến khả năng phát triển trên quan điểm kiểm soát,
khống chế chung, xuất phát từ khía cạnh quản lý khai thác hợp lý nguồn tài nguyên
và môi trường du lịch.
Du lịch và môi trường có mối quan hệ rất gắn bó với nhau, cũng như mối quan
hệ giữa con người và môi trường. Môi trường cung cấp nơi cư trú và các điều kiện
cho cuộc sống con người và muôn loài sinh vật; môi trường cũng là nơi tiếp nhận, lưu
trữ và xử lý những gì mà con người và các sinh vật khác thải ra. Chừng nào còn giữ
được sự cân bằng giữa các quá trình đó thì sự sống trong thiên nhiên và cuộc soóng
của con người vẫn có thể tiếp tục duy trì bình thường. Nhưng nếu sự cân bằng đó bị
phá vỡ mà chủ yếu do con người gây ra, thì việc duy trì sự sống và cuộc sống bị đe
doạ. Hoạt động du lịch có tác động đến môi trường về nhiều mặt. Do nhu cầu phát
triển du lịch, nhiều diên tích đất đai bị khai phá để xây dựng cơ sở hạ tầng, như làm
đường giao thông, khách sạn, các công trình thể thao, các khu vui chơi giải trí. . . Điều
đó gây phá hoại hoặc làm tổn hại tới cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái. Các
sân golf có thể gây nên tình trạng suy thái đất, ô nhiễm nguồn nước, thậm chí gây nên
sự cạnh tranh trong việc sử dụng nước cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là ổ những nơi
11
hiếm nước. Hoạt động du lịch luôn ngắn liền với việc khai thác các tiềm năng tài
nguyên môi trường tự nhiên như cảnh đẹp hùng vĩ của núi sông, biển. . và các giá trị
văn hoá nhân văn. Trong nhiều trường hợp, hoạt động du lịch tạo nên những môi
trường nhân tạo như công viên vui chơi giải trí, nhà bảo tàng, làng văn hoá. . . trên cơ
sở của một hoạc tập hợp các đạc tính của môi truờng tự nhiên như một hang động,
một quả đồi, một khúc sông, một khu rừng. . . hay một đền thờ, một quần thể di tích.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại của nó gắn liền với môi trường, nên
môi trường du lịch có tác động qua lại với tất cả các yếu tố của môi trường chung. Sự
suy giảm của môi trường nói chung ở một khu vực đồng nghĩa với sự đi xuống của
hoạt động du lịch cũng như chất lượng của môi trường du lịch ở khu vực đó.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước đặc biệt là các
chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn nhà hàng, các hoạt động vận tải thuỷ
và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta , tình trạng rác thải bừa bãi tại các địa
điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó không những ảnh hưởng tới vệ
sinh công cộng và môi trường, mà còn gây cảm giác khó chịu cho du khách. Khi hoạt
động du lịch nhộn nhịp lên, thì khi đó cũng là điều đe doạ tới chất lượng không khí.
Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Tổ chức du lịch thế giới đã
thống kê có khoản 37%-45% du khách tới bằng đường bộ và khoảng 40%-45% du
khách tới bằng máy bay. Không giống như đối với ô tô, ô nhiễm từ máy bay ( trừ
tiếng ồn ) ít khi được nhân thấy trực tiếp. Thế nhưng riêng trong năm 1990, ngành
hàng không đã tiêu thụ hết khoảng 176 triệu tấn xăng máy bay, từ đó thải ra 550 triệu
tấn khí nhà kính CO2 và 3, 5 triệu tấn ôxy nitơ, gây mưa axit và ô nhiễm quang - hoá.
Không chỉ có không khí mà còn nhiều vấn đề khác như ô nhiễm tiếng ồn, lượng
nước thải mà sự phát triển du lịch còn tạo ra mối đe doạ tới các hệ sinh thái, như phá
những khu vực rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mát hoạc chia cắt nơi
cư trú các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản xuất các
sản phẩm phục vụ cho khách du lịch như tiêu bản các thú rừng, hoa lan rừng, tắc kè,
đồi mồi, san hô. . . tại nhiều điểm du lịch của nước ta. Hàng năm tren thế giới có
khoảng 200. 000 ha rừng bị cháy, trên 500 loài thực vật Địa trung hải, cùng một số
động vật biển quý hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng. Hiện có rất nhiều chương trình,
12
dự án của các nước và tổ chức quốc tế đangg được tiến hành để cứu sự đa dạng sinh
học tại nơi đây. Tuy du lịch mang lại lợi ích kinh tế _ xã hội to lớn nhưng các tác
động tiêu cực của du lịch đối với môi trường càng ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Các
quốc gia đều nhận thấy mối nguy hại này và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để
ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêuu cực của du lịch đối với môi trường, cả môi
trường tự nhiên, nhân tạo và các đối tượng ý nghĩa về lịch sử, văn hoá, khảo cổ học.
Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến bảo vệ môii
trường, bản sắc văn hoá và thần phong mĩ tục trong hoạt động du lịch. Ngoài Luật bảo
vệ môi trường, Luật bảo vệ và phat triển rừng, Luật tài nguyên nước có các quy định
chung, trong chương 2 của pháp lệnh du lịch có 6 điều về bảo vệ, tồn tạo, khai thác
và sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững, có quy định
nghiêm cấm mọi hoạt động du lịch làm ảnh hưởng xấu tới môi trường. Ngoài ra, còn
có mọt số nghị định và chỉ thị của chính phủ về việc bảo đảm trật tự trị an, vệ sinh
môi trường, an toàn thực phẩm tại các cơ sở lưu trú, các địa điểm du lịch, mà còn
nhằm bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch . Vấn đề cấp bách hiện nay là phải
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, vì thực tế đây là một trong các
khâu yếu nhất, đặc biệt thể hiện rõ tại các cơ sở và địa điểm du lịch.
13
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ MÔI TRƯỜNG Ở HÀ NỘI
2. 1. Thực trạng phát triển du lịch tại Hà Nội hiện nay.
Hà Nội, với vai trò là Thủ đô-trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học-
công nghệ và giao lưu của cả nước, thành phố hoà bình của thế giới -với tài nguyên tự
nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng, với bề dày lịch sử gần 1000 năm, đã trở thành
một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Hà Nội nằm ở trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, ở vị trí trong khoản từ 20 25'
đến 21. 23' vĩ độ Bắc, 105. độ 15' đến 106 độ 03' kinh đông, tiếp giáp với các tỉnh :
Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hung Yên ở phía Đông Nam, Hà Tây và Vĩnh
Phúc ở phía tây. Hà Nội có khoảng cách dài nhất từ phía Bắc xuống phía Nam là trên
50 km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim
cao 462m(huyện Sóc Sơn);nơi thầp nhất thuộc phường Gia Thuỷ (quận Long
Biên)12m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bơ sông Hồng, giữa vùng đồng
bằng Băc Bộ trù phú và lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi là một trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Khí hậu
Hà Nội cho kiểu khí hậu Băc Bộ với đặc điẻm là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa
hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lanh và mưa ít. nằm trong vùng nhiẹt đói, Hà Nội
tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trơi rất dồi daò và cónhiệt độ cao, nhiệt độ không
khí trung bình hàng năm là 23, 6độ c do chịu ảnh hưỏng của biển và lượng mưa khá
lớn. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm 79%. lượng mưa trung bình hàng năm và
mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Đặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét nhất là sự thay
đổi và khác biệt nóng, lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng và mưa còn những
tháng còn lại thời tiết khô ráo. Giữa hai mùa lại có tiếp tháng 4 và tháng 10 cho nên
có thể nói rằng Hà Nội có đủ 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn mùa như vậy đã làm
cho khí hậu Hà nội thêm phong phú, đa dạng, mùa nào cũng đẹp, cũng hay. Mùa tham
quan Hà Nội là mùa thu, rất thích hợp với du khách ở những vùng hàn đới. Hà Nội có
dãy Sóc Sơn(núi Sóc)là đợt kéo dài của khối Tam Đảo, với ngọn núi cao nhất là
308m. Núi này khác nhau như Mã, núi Đền. Núi Sóc toạ lạc tại xã Phù Linh, huyện
14