Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng phòng chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh, thông qua nhân vật người đàn bà làng chài trong tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.52 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRƯỜNG THI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KỸ NĂNG PHÒNG
CHỐNG BẠO LỰC TRÊN CƠ SỞ GIỚI CHO HỌC SINH
THÔNG QUA NHÂN VẬT “NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI”
TRONG TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU – SGK NGỮ VĂN 12, TẬP 2.

Người thực hiện: Trịnh Thị Ánh Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Ngữ Văn

THANH HĨA, NĂM 2021

0


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Báo cáo điều tra quốc gia về Bạo lực đối với phụ nữ Việt Nam do Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổng cục thống kê thực hiện năm
2019 cho thấy, gần 6.000 phụ nữ trong độ tuổi từ 15 - 64 được phỏng vấn và kết
quả là ở Việt Nam hầu hết bạo lực đối với phụ nữ thường do chồng gây ra. Gần
63% bị một hoặc hơn một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần và kinh
tế, cũng như kiểm sốt hành vi. Trong đó, 26% phụ nữ từng bị bạo lực thể xác
do chồng gây ra trong đời, 5% trong 12 tháng qua; 13% từng bị bạo lực tình dục
trong đời và 6% trong 12 tháng qua; 47% từng bị bạo lực tinh thần. Hệ quả, phụ
nữ bị chồng hoặc hoặc bạn tình bạo lực thể xác, tình dục có nguy cơ về vấn đề


sức khỏe tâm thần cao gấp 3 lần, thu nhập hàng năm của họ cũng thấp hơn đến
31% so với những phụ nữ không chịu bạo lực.
Bạo lực trên cơ sở giới phổ biến ở các không gian riêng tư và kể cả nơi
công cộng - hơn một nửa phụ nữ ở Việt Nam (58%) bị bạo lực về thể xác, tinh
thần và tình dục trong cuộc đời mình. Việc di chuyển và tham gia ở các không
gian công cộng của các em gái bị hạn chế so với các em trai do lo sợ của các em
hoặc của cha mẹ về vấn đề bạo lực giới và an toàn nơi cơng cộng: “Con gái khi
đi ra ngồi sẽ gặp nhiều nguy hiểm hơn so với con trai; Tôi không lo lắng về
con trai vì con trai dũng cảm hơn con gái và con gái yếu đuối hơn con trai” (mẹ
của Uyên, Việt Nam, 2018). Các em gái cũng phải đối mặt với nguy cơ bị quấy
rối tình dục ở nơi công cộng - 31% các em gái báo cáo rằng các em bị quấy rối
tình dục ở nơi cơng cộng và trên phương tiện giao thông công cộng 1 [ Gần 37%
người trả lời khảo sát đường phố đã từng chứng kiến các loại quấy rối khác nhau
ở địa điểm khảo sát trong năm vừa qua; 18% đã từng chứng kiến nhiều lần (2 tới
5 lần hoặc nhiều hơn). Cá biệt có 9% cho rằng các em khơng được an toàn một
chút nào. 62% cán bộ của các cơ quan ban ngành, 45% nam giới và 49% nữ giới
tham gia vào khảo sát cho biết quấy rối tình dục là một nguy cơ đối với em gái.
Mặc dù hậu quả nặng nề là vậy, tuy nhiên hoạt động giáo dục kỹ năng
phòng chống bạo lực trên cơ sở giới vẫn cịn bỏ ngỏ hoặc nếu có thì xuất hiện ít
ỏi trong một số tiết Giáo dục công dân. Với tôi như vậy là không đủ và cần phải
lồng ghép trong bài học của nhiều môn, đặc biệt là bộ môn bắt nguồn từ hiện
thực cuộc sống như văn học. Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu, qua nhân vật người đàn bà làng chài người đọc lại có thể nhận thấy
những cảnh báo đau đớn của nhà văn về hậu quả nghiêm trọng của bạo lực gia
đình đối với tình thần, nhân cách, tư tưởng của người phụ nữ. Đó chính là lí do
tơi quyết định nghiên cứu và trao đổi “Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng
phòng chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh thông qua nhân vật người
1 Khảo sát được thực hiện bởi tổ chức Plan Quốc tế tại Việt Nam

1



đà bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu – SGK Ngữ văn lớp 12, tập 2”
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu để đúc rút những sáng kiến, phương pháp mới trong việc giáo
dục kỹ năng phòng chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh trường
THPT Trường Thi nói riêng và góp phần giáo dục thế hệ trẻ hơm nay nói
chung.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy, hình thành một số kỹ năng sống cần
thiết cho học sinh, đồng thời, tăng tính hấp dẫn cho bài học, đáp ứng mục
tiêu bài học, phát huy giá trị của văn chương đối với đời sống.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài, tôi chỉ trình bày kinh nghiệm của cá nhân áp dụng
cho một đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Trường Thi
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tự nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tơi chủ động tìm
hiểu các tài liệu về nội dung phịng chống bạo lực trên cơ sở giới, những thực
trạng và giải pháp của vấn đề để đúc rút kinh nghiệm cho đề tài này.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thơng tin: Để có cơ sở
cho việc áp dụng phương pháp và kinh nghiệm này, tôi đã tổ chức điều tra, khảo
sát, thu thập thông tin về thực tế dạy học liên quan đến đề tài của mình ở các lớp
12 trường THPT Trường Thi và một số lớp 12 trường THPT khác gần nhà
trường. Ngồi ra tơi đã gặp gỡ chuyên gia về giới Th.s Trần Lê Linh – Viện Phát
triển sứ khỏe cộng đồng Ánh Sáng (LIGHT) – Một tổ chức phi chính phủ Việt
Nam để trao đổi về những giải pháp phòng chống bạo lực trên cơ sở giới.

2



NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Định nghĩa về Bạo lực trên cơ sở giới của Liên hợp quốc năm 1993 cho
hay“…Bất kỳ hành động bạo lực trên cơ sở giới dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn
đến, hoặc có khả năng đều đến tổn hại hoặc đau đớn về mặt thể xác, tình dục
hoặc tâm lý cho phụ nữ…” Trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực
giải quyết vấn đề bình đẳng giới trong một số luật và chính sách, trong đó quan
trọng nhất là Luật về Bình đẳng Giới được thơng qua năm 2006 (Quốc hội
2006). Điều 10 của Luật nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử về giới dưới mọi
hình thức, hành vi bạo lực giới và bất kỳ “hành vi nào cản trở nam giới và phụ
nữ thực hiện bình đẳng giới”. Luật cũng có các quy định nhằm thúc đẩy bình
đẳng giới trong giáo dục, như Điều 18 quy định: “Các em trai và em gái được
chăm sóc, giáo dục bình đẳng và được trao các cơ hội như nhau để học tập, làm
việc, giải trí và phát triển từ phía gia đình”. Quan trọng hơn nữa, luật quy định
rằng bình đẳng giới được thúc đẩy trong các môi trường thể chế, bao gồm cả
trường học. Giáo dục về giới và bình đẳng giới được yêu cầu đưa vào chương
trình giảng dạy ở trường học (Điều 23) và sách giáo khoa không được chứa
thông tin được coi là sai lệch về giới (Điều 40). Luật Trẻ em cũng thúc đẩy bình
đẳng giới ở trẻ em. Điều 4 của luật quy định rằng trẻ em, dù là nữ hay nam, […]
tất cả đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, và được hưởng các quyền theo
quy định của pháp luật (Quốc hội 2016). Ngồi ra, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Chỉ thị 18/CT-TTg vào ngày 16 tháng 5 năm 2017 về Tăng cường các Biện
pháp Phòng chống Bạo lực và quấy rối Tình dục đối với Trẻ em. Các biện pháp
cụ thể để giải quyết vấn đề quấy rối tình dục cũng được quy định trong Bộ luật
Lao động 10/2012/QH13, Điều 8 và Điều 183.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang triển khai các chương trình và dự án, bao
gồm Chương trình Phịng ngừa và Ứng phó với Bạo lực trên Cơ sở Giới trong
giai đoạn 2016-2020 và Tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch hành động quốc gia
về Phòng chống Bạo lực Gia đình giai đoạn 2014-2020; Dự án phịng ngừa Bạo
lực Gia đình ở khu vực Nơng thơn Việt Nam giai đoạn 2015-2020…

Luật Trẻ em đã được Quốc hội khóa 13 thơng qua vào tháng 4 năm 2016,
đã có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 2017, với việc sửa đổi và bổ sung một số
điều để cụ thể hóa Hiến pháp và cơng ước. Luật này quy định các quyền và
nghĩa vụ của trẻ em, các nguyên tắc và biện pháp để đảm bảo việc thực thi
quyền trẻ em và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tổ chức giáo dục, gia đình
và cá nhân trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của trẻ em. Luật có một
3


chương để đề cập về vai trò và trách nhiệm của các cơ quan quản lý liên quan
trong việc thúc đẩy sự tham gia của trẻ em.
Luật Giáo dục nhấn mạnh: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [2] Tuy nhiên, nội dung và phương
pháp giáo dục trong các nhà trường hiện nay là còn xem trọng việc dạy chữ,
chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
- Chỉ thị số 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: Những năm gần
đây, cơng tác phịng, chống bạo lực gia đình đã đạt được những kết quả nhất
định: nhận thức của cộng đồng, chính quyền và tổ chức, đồn thể ngày một nâng
cao, các biện pháp phòng, chống, phê phán, lên án hành vi bạo lực gia đình đã
và đang triển khai ở cộng đồng ngày càng phát huy hiệu quả; số vụ bạo lực gia
đình có xu hướng giảm, nhận thức của người dân đang dần thay đổi theo hướng
tích cực và xuất hiện những tấm gương điển hình, tiên tiến. Tuy nhiên, vẫn tồn
tại những hạn chế, bất cập như: tình trạng bạo lực gia đình cịn diễn ra ở nhiều
nơi với các đối tượng khác nhau; tính chất của các vụ bạo lực gia đình ngày
càng tinh vi, phức tạp, khó lường. Bạo lực gia đình đã và đang ảnh hưởng đến

thuần phong, mỹ tục, đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử, an ninh, trật tự xã hội,
gây bất bình trong dư luận xã hội.
- Về thực trạng giảng dạy Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu:
Đa phần giáo viên sẽ tập trung vào bố cục tác phẩm, vào tình huống truyện, các
nhân vật chính. Đặc biệt là nhân vật người đàn bà làng chài giáo viên sẽ tập
trung làm rõ về số phận bất hạnh, bị chồng bạo hành và tính cách phẩm chất của
chị. Nếu có thì chỉ nói về hậu quả của bạo hành đối với người đàn bà làng chài
chứ chưa lồng ghép vào nội dung giáo dục kỹ năng phòng chống bạo hành trên
cơ sở giới cho học sinh nữ.
Từ thực trạng này, tôi đã nghiên cứu, kết hợp phương pháp, sử dụng
phương tiện phù hợp để phát huy hiệu quả nội dung dạy về “Nhân vật người
đàn bà làng chài” trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu và
hướng tới giáo dục Kỹ năng phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh
nữ. Do vậy, tôi mạnh dạn trao đổi cùng đồng nghiệp sáng kiến: “Một số kinh
4


nghiệm giáo dục kỹ năng phòng chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh
nữ thông qua nhân vật người đà bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – SGK Ngữ văn lớp 12, tập 2”
3. Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng phòng chống bạo lực trên cơ sở
giới cho học sinh thông qua nhân vật người đà bà làng chài trong tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – SGK lớp 12, tập 2
3.1. Giáo viên trang bị kiến thức cho học sinh
- Công tác chuẩn bị:
+ Chuẩn bị video có các hành vi bạo lực (Minh họa)
+ Soạn bài bằng Powepoint
+ Thẻ màu (4 loại vàng, xanh, cam, hồng), băng dính 2 mặt, bút dạ
+ Cờ, biển tên các nhóm
+ Đối với học sinh: Chuẩn bị trước các câu hỏi giáo viên đã giao cho từng nhóm

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và
tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Sự tinh anh và tài năng ấy trước hết thể
hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong văn học cách mạng trước
1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hi sinh cho cách
mạng. Sau 1975, văn chương trở về đời thường và Nguyễn Minh Châu là một
trong những văn văn đầu tiên của thời kì đổi mới đi sâu khám phá sự thật đời
sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có
khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp,
chằng chịt, thì ít nhiều văn chương đã đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn
thiện nhiều mặt nhân cách con người. Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện đời
sống và con người theo hướng đó. Đồng thời, qua tác phẩm, nhà văn cịn cảnh
báo về bạo lực gia đình mà nạn nhân tiêu biểu ở đây là người đàn bà làng chài.
Người đàn bà làng chài bị chồng bạo hành cả thể xác và tinh thần nhưng
chị cam chịu tất cả vì các con. Tuy nhiên do hậu quả của sự lạc hậu và thất học
nên người đàn bà ấy không thể chấm dứt chuỗi bi kịch của đời mình.
- Giới thiệu về nhân vật người đàn bà làng chài:
+ Bối cảnh xuất hiện: Phùng người nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhận được yêu cầu của
trưởng phòng cần chụp bức ảnh về chủ đề thuyền và biển bổ xung cho bộ lịch
năm sau. Phùng đã quay trở về vùng biển nơi trước đây là chiến trường cũ của
anh. Sau nhiều ngày phục kích anh đã khám phá được cảnh đắt trời cho, một con
thuyền ngư phủ đẹp như mơ, từ đường nét đến ánh sáng đều mang vẻ đẹp toàn
5


bích. Tuy nhiên, chỉ sau đó Phùng thấy từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ một
người đàn ông xuất hiện cùng một người đàn bà. “Người đà bà trạc ngồi bốn
mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường
nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới,
tái ngắt và dường như buồn đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng

rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát,
bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy
vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới, nửa thân
dưới ướt sung của người đàn bà” [4]. Người đàn bà bị chồng đánh đập tàn bạo.
+ Tên gọi, ngoại hình, số phận:
 Người đàn bà khơng có tên, nhà văn gọi là “mụ, chị ta, người đàn bà”.
Không phải nhà văn không đủ ngôn từ để đặt cho một nhân vật một cái tên
mà Nguyễn Minh Châu muốn người đàn bà làng chài trở thành nhân vật
điển hình cho những người đàn bà lam lũ ở vùng biển miền Trung nói riêng
và trên khắp các miền quê của cả nước nói chung.
 Người đàn bà ấy trạc ngồi bốn mươi, thân hình cao lớn thô kệch đặc trưng
của đàn bà vùng biển. Mụ mặt rỗ. Khn mặt tái nhợt, buồn ngủ vì thức
đêm kéo lưới. Thân hình ướt sũng, quần áo bạc phếch. Ngoại hình xấu xí,
thơ kệch gợi lên cuộc đời lam lũ, cực nhọc. Đơi mắt chị ta ln nhìn xuống
chân hé mở đời sống tâm hồn nặng nề của người đàn bà. Cuộc sống dường
như dồn hết thua thiệt cho người đàn bà, chị có một số phận nghèo khó, nhà
đơng con, chồng bạo hành cả thể xác lẫn tinh thần.
3.2. Cung cấp kiến thức nền về giới, giới tính, bình đẳng giới và bất bình
đẳng trên cơ sở giới:
- Giới và giới tính:
+ Giới: Là những đặc điểm thể hiện những quan niệm, momg đợi, niềm tin của
xã hội về vai trò, trách nhiệm, giá trị và khả năng của con gái/ nữ và của con
trai/ nam, những đặc điểm này do một mơi trường xã hội quy định. Ví dụ: Xã
hội thường cho rằng đã là đàn ông phải mạnh mẽ, phụ nữ phải dịu dàng, bé gái
mặc màu hồng, bé trai mặc màu xanh…[3]
+ Giới tính: Là đặc điểm về mặt sinh học. Ví dụ như: con trai có tinh hồn, con
gái có trứng, đàn ơng khơng mang thai, phụ nữ mang thai…[3]
Như vậy, giới và giới tính không hề giống nhau.

6



Lànhữngđặcđiểm
đểchỉ vai trị, vị trí
củanamvànữvề
mặt XÃHỘI

Làđặcđiểmđể
phânbiệt giữanam
vànữvềmặt SINH
HỌC

Thayđổi theothời
gian, khơnggian

Khơngthayđổi
theothời gianvà
khơnggian

Khácnhaugiữacác
dântộc, vănhóa,
tơngiáo

Giốngnhauởmọi
nơi

Giới
tính

Giới


- Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. (Nguồn:
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam Điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006). Tuy
nhiên để hiểu đúng về Bình đẳng giới chúng ta cần lưu ý: Bình đẳng giới khơng
phải là sự hốn đổi vai trị, vị trí của phụ nữ sang nam giới và ngược lại. Bình
đẳng giới cho rằng những khác biệt giữa nam, nữ khơng nên có ảnh hưởng tiêu
cực đến điều kiện sống của họ và chia sẻ quyền lực cơng bằng ở mọi khía cạnh
của cuộc sống. [3]

7


Phân biệt đối xử về
giới

Bình đẳng giới

Nam nữ có
vai trị, vị trí
ngang nhau

Được tạo
điều kiện
phát huy
năng lực của
mình

Được thụ

hưởng như
nhau về
thành quả

Là hạn chế,
loại trừ,
khơng cơng
nhận hoặc
khơng coi
trọng vai trị,
vị trí của nam
và nữ

Gây ra bất
bình đẳng
giữa nam và
nữ trong các
lĩnh vực của
đời sống và
XH

Hình ảnh 1: Hoạt động phân biệt giới và giới tính cho học sinh
- Bạo lực trên cơ sở giới:
 Bạo lực trên cơ sở giới nói đến bạo lực thể chất, tình dục, tinh thần và đôi
khi là kinh tế mà một người phải chịu chỉ vì họ là nam hay là nữ.
 Trẻ em gái và phụ nữ thường xuyên là đối tượng bị bạo lực trên cơ sở giới.
 Nhưng trẻ em trai và nam giới cũng là nạn nhân, đặc biệt là những người
không hợp với khuôn mẫu nam giới chiếm ưu thế về hành vi hoặc vẻ bề ngoài

8



Hình ảnh 2: Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh về
bạo lực trên cơ sở giới
- Bạo lực trên cơ sở giới trong trường học:

Hình ảnh 3: Minh họa bạo lực học đường
 Gây tổn hại đối với các học sinh nam và nữ về phương diện thân thể, tinh
thần, tình dục. Bao gồm mọi hình thức bạo lực hay lạm dụng nào đó đối với học
sinh trên cơ sở những định kiến giới hoặc nhắm đến học sinh trên cơ sở giới tính
của các em.
- 4 hình thức bạo lực trên cơ sở giới:
Giáo viên tổ chức hoạt động nhóm, cho các em ghi vào thẻ đã chuẩn bị sẵn
các hành vi bạo lực về thể chất và tinh thần, sau đó lên trình bày

9


Hình ảnh 4: Học sinh lớp 12K1 phân loại các hành vi bạo lực
 Bạo lực thân thể
 Bạo lực tinh thần/tâm lý
 Bạo lực tình dục
 Bạo lực kinh tế
3.3.

Hậu quả của bạo hành trên cơ sở giới đối với người đàn bà làng chài:
- Về thể xác:

 Người đàn bà làng chài bị chồng đánh đập tàn bạo “Lão đàn ông hung hổ,
mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lình ngụy ngày xưa,

có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dung chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng
người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm rang nghiến ken két, cứ
mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày
chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Người đàn bà với
một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, khơng chống trả, cũng
khơng tìm cách chạy trốn”. [4]

 Người đàn bà bị chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng.

 Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, qua mười lần sinh nở, cuộc sống lam
lũ cũng khiến sức khỏe bị tổn hại nặng nề khơng những thế chị cịn bị chồng
đánh đập tàn bạo khiến người phụ nữ chắc chắn suy kiệt về thể xác.
- Về tinh thần:

 Người phụ nữ đau đớn khi để con chứng kiến cảnh bạo hành. Chị sợ các
con bị tổn thương nên xin chồng mang lên bờ để đánh. “Miệng mếu máo gọi,
10


người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông
ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn
chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang
xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rõ xuống những dòng nước mắt” [4]

 Người phụ nữ trở nên sợ sệt, khúm núm.
 Đơi mắt ln nhìn xuống dưới bộc lộ một tâm hồn trĩu nặng
 Sống trong sự đau khổ nhưng vì con nên chị cam chịu tất cả
Như vậy, bạo hành đã khiến người phụ nữ trở nên kiệt quệ cả về thể xác và

tinh thần. Suy cho cùng, nguyên nhân của hành vi bạo lực giới đối với nhân vật
“người đàn bà làng chài” là do người đàn ơng bạo hành vợ vì cảm thấy q khổ,
bản thân anh ta là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học, lạc hậu, thiên tai. Cịn
người đàn bà chấp nhận bị bạo hành vì nghĩ rằng đó là cách giữ gìn gia đình, vì
những đứa con. Người đàn bà cịn tự nhận lỗi về mình, cho rằng do mình đẻ
nhiều quá nhiều.
Sau khi cung cấp kiến thức cho học sinh tôi lồng ghép phần cung cấp kỹ
năng sống phòng chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh. Ngồi ra giáo viên
có liên hệ với mơn Giáo dục cơng dân
3.4.
-

Kỹ năng phịng chống bạo lực trên cơ sở giới cho học sinh:
Khi có nguy cơ bị bạo lực:
 Tránh tạo ra mâu thuẫn với đối phương, tìm cơ hội để giải thích mọi hiểu lầm
với đối phương (nếu có) thể hiện thiện chí và sự tơn trọng của bạn với đối
phương
 Khơng nên đi một mình
 Nói chuyện với người mà bạn tin tưởng để được giúp đỡ

- Khi bạo lực đã xảy ra
 Bản thân cần giữ bình tĩnh, cần tránh tạo thêm mâu thuẫn với đối
phương hoặc trong trường hợp bất khả kháng cần khéo léo đáp ứng nhu
cầu của đối phương để tránh bị hại
 Tìm cách thốt thân thay vì chống trả khi mình đang yếu thế
 Hơ to tìm sự giúp đỡ
 Khơng được im lặng, nhẫn nhịn hay tự mình giải quyết, cần mạnh dạn
nói với thầy cơ, bố mẹ hay cơ quan công an biết
11



+ Các nguồn lực hỗ trợ khi gặp phải bạo lực:

Cha mẹ, anh
chị, người
thân

Bạn bè
Giáo viên chủ
nhiệm, giáo
viên bộ môn

Ban giám hiệu

Cơng an

Các nguồn lực hỗ trợ

Trung tâm
chăm sóc,
bảo vệ sức
khỏe trẻ em

Xungquanhcác emlncóngười giúpđỡ

Thơngđiệpdànhchohọc sinh

Nhờsựgiúpđỡkhơngphải làkémcỏi
Các emkhơngcólỗi khi bị bạolực
3.5.


Liên hệ bài học:
Giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời
Câu hỏi 1: “Nếu trong vai người đàn bà làng chài các em sẽ xử lí như
thế nào?”
- Em L.T.T.T phát biểu: “Em Không chấp nhận bị bạo hành. Khi bị chồng
đánh em sẽ bỏ chạy, hô hốn để mọi người giúp đỡ. Sau đó em sẽ báo cơ quan
công an nơi gần nhất”
- Em C.T.L cho rằng: “Nếu em bị đánh một lần thì sẽ có lần thứ hai. Em sẽ
cho người chồng một cơ hội, nếu lần sau có nguy cơ bị bạo hành em nhất định
12


sẽ tìm người giúp đỡ và li dị người chồng đó vì có sống thì con em cũng khơng
hạnh phúc”
- Em Đ.T.P.T khẳng định: “Em sẽ không cam chịu mà tìm mọi cách để
được giúp đỡ. Em khơng thể nói vì con mà bị bạo hành như vậy được vì nếu con
em nhìn thấy cảnh mẹ bị bạo hành thì con em cũng trở thành nạn nhân của cảnh
bạo hành”
Câu hỏi 2: “Nếu em chứng kiến cảnh người khác bị bạo hành em sẽ làm
gì?”
- Em L.T.L trả lời: “Khi chứng kiến người khác bị bạo hành, nếu em không thể
can thiệp trực tiếp em sẽ kêu gọi những người xung quanh để hỗ trợ. Nếu
trong trường học em sẽ tìm các thầy cơ giáo, ban nề nếp, bảo vệ hoặc ban
giám hiệu nhà trường để hỗ trợ. Nếu ở ngồi đường em sẽ báo cơng an theo
số điện thoại nóng”
- Em Đ.N.K cho rằng: “Khi thấy người khác bị bạo hành, khơng thể cho rằng
nó khơng liên quan đến chúng ta mà chúng ta cần phải lên tiếng để bảo vệ
người yếu thế.”
Như vậy, có thể khẳng định rằng sau khi giáo viên cung cấp cho học sinh

những kiến thức về giới, giới tính, bình đằng giới, bất bình đẳng giới, bạo lực
trên cơ sở giới cũng như trang bị cho các em về kỹ năng phòng chống bạo lực
học sinh đã có những kỹ năng đúng đắn để bạo vệ bản thân và người khác.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
4.1. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục của nhà trường.
Tôi đã thực nghiệm phương pháp và ứng dụng để đi đến kết luận tính khả
thi và hiệu quả của phương pháp như sau:
- Nếu tôi thực hiện bài dạy theo cách thông thường, khơng tích hợp nội
dung giáo dục kỹ năng phịng chống bạo lực cho học sinh nữ, bài tập trung vào
tình huống truyện và hai nhân vật chính (người đàn bà và nghệ sĩ Phùng). Kết
thúc bài học, đa phần học sinh nắm bài học theo cách tôi đã truyền đạt nhưng
nhiều học sinh không nhận ra vấn nạn nặng nề của bạo lực gia đình đối với con
người. Học sinh chỉ nhận thấy những phẩm chất của người đàn bà làng chài chứ
không nhận ra được kỹ năng để thốt ra khỏi vấn nạn bạo lực
- Tơi sử dụng phương pháp như đã trình bày ở trên, với yêu cầu trình bày
những nhận thức của em về hậu quả mà bạo lực gia đình gây ra đối với người
đàn bà làng chài và cho biết em sẽ làm gì khi đối mặt với bạo lực gia đình. Kết
13


quả, phần nhiều học sinh đều dễ dàng trả lời và thể hiện được nhận thức, hiểu
biết cũng như biện pháp xử lí cơ bản đối với bạo lực gia đình.
- Về cảm nhận, các em đều có chung cảm nhận là bài học sinh động, dễ
hiểu, thiết thực, gần gũi chứ không chỉ là kiến thức hàn lâm. Thậm chí, các em
cịn được nhập vai vào nhân vật để xử lí tình huống và góp phần hình thành kỹ
năng phịng, chống bạo lực gia đình.
- Như vậy, ở một góc độ nhất định, tơi nhận thấy, bài dạy đã phát huy hiệu
quả, khiến học sinh nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của bạo lực gia đình,
ít nhiều hình thành ở các em ý thức phòng, chống bạo lực gia đình và nhất định

nó sẽ có tác dụng hình thành kỹ năng sống cho các em trong tương lai.
- Kết quả kiểm tra lối tư duy, nhận thức và sự hứng thú trong tiếp nhận bài
học của học sinh ở các lớp như sau:
4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp nhà trường.
- Bản thân tơi nhận thấy mình đã đúc rút được một sáng kiến hữu ích, góp
phần lồng ghép được một nội dung giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm, đó
là giáo dục ý thức phịng, chống bạo lực gia đình, góp phần hình thành những kỹ
năng sống cần thiết cho học sinh.
- Với đồng nghiệp trong nhà trường, sáng kiến của tơi có thể liên hệ tích
hợp trong q trình giảng dạy bộ mơn giáo dục cơng dân lớp 10 bài “Cơng dân
với tình u hơn nhân và gia đình”; Lớp 12 bài “Bình đẳng trong hơn nhân và
gia đình”
- Với nhà trường: Tơi vẫn đang tích cực áp dụng sáng kiến cho các lớp
dạy, sẽ phối hợp với Đoàn thanh niên mở rộng đối tượng giảng dạy để nâng cao
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức phịng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở
giới cho học sinh nữ nói riêng và bạo lực gia đình nói chung cho đồn viên
thanh niên nhà trường và sẽ tiếp tục rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo để
hoàn thiện sáng kiến. Tuy nhiên, hiệu quả ban đầu có thể thấy được, sáng kiến
của tơi đã giúp đồng nghiệp có thêm một phương pháp, một cách tiếp cận khác
đối với “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu nói chung và nhân vật
người đàn bà nói riêng.

14


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận: Đề tài này là kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tại trường THPT Trường Thi, góp phần làm cho
bài học về Chiếc thuyền ngồi xa sinh động, thiết thực và đáp ứng một số yêu
cầu của giáo dục hiện nay cũng như mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh.

Đề tài cũng áp dụng cho một đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Trường
Thi, tôi nhận thấy khi áp dụng đề tài, có nhiều chuyển biến tích cực về nhận
thức, hành vi, tư duy của học sinh. Đề tài là một gợi ý thú vị, một phương pháp
hiệu quả cho đồng nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục lí tưởng, kỹ
năng sống cho học sinh, góp phần vào mục tiêu giáo dục tồn diện cho học sinh
hiện nay. Vì vậy, tơi mạnh dạn trình bày cùng đồng nghiệp để được trao đổi, rút
kinh nghiệm cho việc đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học.
Mong được đồng nghiệp góp ý để được hồn thiện hơn.
Kiến nghị: Theo cá nhân tôi việc lồng ghép giáo dục kỹ năng phòng chống
bạo hành trên cơ sở giới dành cho học sinh nên trở thành một nội dung trong
phần giảng dạy tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do
tơi tự viết, nếu sai, tơi hồn tồn chịu
trách nhiệm.
Tác giả

Trịnh Thị Ánh Tuyết

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO (TLTK)
[1]. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007
[2]. Luật Giáo dục
[3]. Tài liệu của tổ chức Quốc tế Plan
[4]. SGV Ngữ văn 12, tập 2, NXB GD, 2008.


16


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

TT

1.

2.

Cấp
đánh giá
xếp loại

Tên SKKN

Một số kinh nghiệm khi giảng dạy
Sở
hai tác phẩm Cảnh ngày hè
GD&ĐT
(Nguyễn Trãi) và Nhàn (Nguyễn
Thanh
Bỉnh Khiêm) dưới góc nhìn thể
Hóa
loại.
Vận dụng phương pháp đóng vai

Sở
trong giảng dạy một số bài học GD&ĐT
mơn Ngữ văn tại trường THPT.
Thanh
Hóa

17

Kết quả
Năm học
đánh
được đánh
giá xếp
giá xếp loại
loại
C

2013-2014

C

2018-2019



×