Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN sử dụng trò chơi trong dạy học môn ngữ văn lớp 10 và lớp 11 ở trường THPT tĩnh gia 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, vấn đề đổi mới giáo dục theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh khơng cịn là vấn đề xa lạ. Nó đã được khởi động từ nhiều năm
trước đây, từ bậc học mầm non đến bậc đại học và cả sau đại học. Nhưng việc thay
đổi chương trình sách giáo khoa theo hướng hiện đại, tích hợp là chưa đủ mà điều
quan trọng hơn là phải đổi mới người thầy, đổi mới phương pháp giảng dạy để mỗi
bài học là một sự khám phá, mỗi tiết lên lớp là những niềm vui, cuốn người học
vào các hoạt động giảng dạy tích cực và hữu ích.
Mơn Ngữ văn là một trong những môn học chủ đạo ở các bậc học nhằm
hướng học sinh đến đỉnh cao của giá trị chân, thiện, mĩ. Tuy nhiên xu hướng học
sinh quay lưng với môn văn đang diễn ra ngày càng nhiều. Nếu khơng thay đổi
phương pháp thì việc dạy học văn sẽ chẳng khác gì“ búa đập trên sắt nguội”.
Qua thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông Tĩnh
Gia 4 tôi luôn trăn trở làm sao để các em yêu thích, hứng thú học tập môn Văn, làm
sao để việc dạy và học văn không trở thành một bài diễn thuyết nhàm chán giữa cô
và trị nên tơi đã thử nghiệm nhiều cách dạy, trong đó, tơi nhận thấy những tiết dạy
sử dụng một số phương pháp mới để tổ chức hoạt động học tập sẽ kích thích hứng
thú học tập của học sinh, làm giảm đi khơng khí mệt mỏi, nhàm chán, căng thẳng
trong giờ học. Chính vì lý do đó, tơi đã mạnh dạn viết đề tài “Sử dụng trò chơi
trong dạy học môn Ngữ Văn lớp 10 và lớp 11 ở trường THPT Tĩnh Gia 4
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh” để chia sẻ với đồng nghiệp nhằm
nâng cao hiệu quả đổi mới trong dạy học văn theo hướng phát huy tính tích cực và
sáng tạo của học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tơi nghiên cứu đề tài này nhằm những mục đích sau:
- Tìm hiểu về các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp dạy
học bằng trị chơi nói riêng.
- Đưa ra được quy trình xây dựng một số trò chơi phục vụ dạy học chương trình
Ngữ văn 10 và 11 tại trường Trung học phổ thông Tĩnh Gia 4.
- Đánh giá được ưu, nhược điểm cũng như rút ra một số kinh nghiệm khi áp dụng


phương pháp dạy học bằng trò chơi vào thực tế giảng dạy.
1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài được tôi thực hiện tại trường THPT Tĩnh Gia 4 trong năm học 2020-2021
với đối tượng thực hiện là học sinh lớp 10 và 11.
- Phạm vi thực hiện: Ứng dụng vào khởi động các tiết học văn bản, Tập làm văn,
Tiếng Việt.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tơi sử dụng chủ yếu các nhóm phương pháp sau:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận nhằm phân tích tổng hợp các quan
điểm khoa học trong các tài liệu có liên quan.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm điều tra thực trạng dạy học.
- Nhóm các phương pháp thống kê nhằm xử lí kết quả điều tra.

1


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số lí luận về dạy học tích cực
a. Quan niệm về phương pháp dạy học tích cực
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ
những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học.
“Tích cực trong PPDH được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động trái
nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng trái nghĩa với tiêu cực”.
Hình 1: Sơ đồ dạy học tích cực [ 6 ]
INCLUDEPICTURE
" />\*
MERGEFORMATINET
INCLUDEPICTURE

" />\*
MERGEFORMATINET
INCLUDEPICTURE
" />\*
MERGEFORMATINET
INCLUDEPICTURE
" />\*
MERGEFORMATINET

b. Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực
* Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh
Mối quan hệ giữa học và làm đã được nhiều tác giả nói đến“ suy nghĩ
tức là hành động” (J. Piagiê), “ cách tốt nhất để hiểu là làm” (Kant), “Học để
hành; học và hành phải đi đơi. Học mà khơng hành thì vơ ích; hành mà khơng
học thì hành khơng trơi chảy” (Hồ Chí Minh).
Trong PPDH tích cực, người học và hoạt động học được cuốn hút vào
những hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo. Thơng qua đó, HS được tự
lực khám phá những cái mình chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những
tri thức đã sắp đặt sẵn.[ 1- trang 10]
* Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
2


PPDH tích cực xem việc rèn luyện phương pháp tự học cho HS không
chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Nếu rèn luyện cho người học có được kĩ năng, phương pháp, thói quen tự học,
biết linh hoạt ứng dụng những điều đã học vào những tình huống mới, biết tự lực
phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra thì sẽ tạo cho họ lịng ham học, khơi
dậy tiềm năng vốn có của mỗi người.
* Tăng cường học tập cá thể, phối hợp học tập hợp tác

PPDH tích cực địi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi HS
trong quá trình tự lực giành lấy kiến thức mới. Ý chí và năng lực của HS trong
một lớp không thể đồng đều tuyệt đối. Vì vậy, buộc phải chấp nhận sự phân hóa
về cường độ và tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là bài học được thiết
kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Mặt khác, lớp học là môi trường giao tiếp thầy- trò, trò- trò, tạo nên mối
quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới chân lí. Qua đó, người
học nâng mình lên một trình độ mới, bài học vận dụng được vốn hiểu biết và
kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của cả lớp. [ 1- trang 11]
* Kết hợp đánh giá của thầy với sự tự đánh giá của trò.
Trước đây, quan niệm về đánh giá còn phiến diện: GV giữ độc quyền về
đánh giá, HS là đối tượng được đánh giá. Trong dạy học theo hướng phát huy vai
trị tích cực chủ động của người học. Nếu xem việc rèn luyện phương pháp tự
học để chuẩn bị cho HS khả năng học tập liên tục suốt đời như một mục tiêu
giáo dục thì GV phải hướng dẫn HS phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều
chỉnh cách học.
* Vai trò chỉ đạo của giáo viên.
Từ dạy học thông báo, giải thích, minh họa sang dạy học theo phương
pháp tích cực, GV khơng cịn đóng vai trị đơn thuần là người truyền đạt kiến
thức mà trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc
theo nhóm nhỏ để HS tự chiếm lĩnh các kiến thức mới, hình thành các kĩ năng,
thái độ mới theo yêu cầu của chương trình.
Dưới đây là những điểm khác biệt cơ bản giữa PPDH thụ động và
PPDH tích cực:
Hình 2. So sánh dạy học truyền thống và dạy học tích cực [ 6 ]

Thực hiện dạy và học tích cực khơng có nghĩa là gạt bỏ các PPDH truyền
thống. Chính vì thế, trong đổi mới phương pháp cần kế thừa, phát triển những
mặt tích cực trong hệ thống PPDH đã quen thuộc. Đồng thời phải học hỏi, vận
3



dụng những phương pháp mới, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học ở
nước ta để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường,
nhằm đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
2.1.2. Một số lí luận dạy học bằng trị chơi
a. Trị chơi là gì?
Một số nhà tâm lý- giáo dục học theo trường phái sinh học như K.Gross,
S.Hall, V.Stern... cho rằng, trò chơi là do bản năng quy định, chơi chính là sự
giải tỏa năng lượng dư thừa.
Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng trò chơi là một thuật ngữ có hai nghĩa
khác nhau tương đối xa. [ 2- trang 209]
- Một là, kiểu loại phổ biến của chơi. Nó chính là chơi có luật (tập hợp
quy tắc định rõ mục đích, kết quả và u cầu hành động) và có tính cạnh tranh
hoặc tính thách thức đối với người tham gia.
- Hai là, những thứ công việc được tổ chức và tiến hành dưới hình thức
chơi, chẳng hạn: Học bằng chơi, giao tiếp bằng chơi, rèn luyện thân thể dưới
hình thức chơi...
Các trị chơi đều có luật lệ, quy tắc, nhiệm vụ, yêu cầu tức là có tổ chức
và thiết kế, nếu khơng có những thứ đó thì khơng có trị chơi mà chỉ có sự chơi
đơn giản. Như vậy, trị chơi là tập hợp các yếu tố chơi, có hệ thống và có tổ chức,
vì thế luật hay quy tắc chính là phương tiện tổ chức tập hợp đó.
b. Trị chơi học tập
* Quan niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về trị chơi dạy học:
Trong lí luận dạy học, tất cả những trị chơi gắn với việc dạy học như là
phương pháp, hình thức tổ chức và luyện tập... khơng tính đến nội dung và tính
chất của trị chơi thì đều được gọi là trò chơi dạy học.
Còn theo tác giả Đặng Thành Hưng thì những trị chơi giáo dục được lựa
chọn và sử dụng trực tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các ngun

tắc và PPDH. Chúng có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên trẻ hay HS
tìm kiếm và lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện kỹ năng, tích lũy và phát triển
các phương thức hoạt động và hành vi ứng xử xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm
mỹ, pháp luật, khoa học, ngơn ngữ, cải thiện và phát triển thể chất, tức là tổ chức
và hướng dẫn quá trình học tập của học sinh khi họ tham gia trò chơi gọi là trò
chơi dạy học.[ 2- trang 210]
Tóm lại, trị chơi học tập được hiểu đơn giản nhất là các hoạt động gây
hứng thú cho học sinh bằng các hình thức thi đua giữa các cá nhân hay các tập
thể nhằm đạt được hiệu quả về kiến thức hay kĩ năng liên quan đến việc học tập
bộ mơn.
c. Phân loại
Trị chơi học tập nói chung hay trị chơi trong mơn Ngữ văn nói riêng rất
đa dạng.
- Dựa vào cách thức tổ chức hoạt động trong giờ học, trị chơi có thể chia
thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm trị chơi giới thiệu nội dung mới
4


Những trị chơi này có thể sử dụng khi bắt đầu vào 1 tiết học, nó có tác
dụng khởi động tư duy của HS, dẫn dắt học sinh tìm hiểu nội dung, học tập một
cách tự nhiên, thoải mái và vui vẻ. Tuy nhiên, nội dung trò chơi cần thiết phải
hướng đến nội dung bài học, dựa trên những hiểu biết sẵn có của HS.
Nhóm 2: Nhóm trị chơi lĩnh hội tri thức mới
Trò chơi được tiến hành trong giờ học, được coi như là một nội dung
bài học. Trò chơi được tiến hành nhằm mục đích giúp HS hào hứng với việc
khám phá kiến thức mới và chính bản thân nội dung trò chơi cũng là những kiến
thức mới. Để sử dụng loại trò chơi này, giáo viên phải linh hoạt trong q trình
tổ chức vì mỗi em có sự nhận thức khác nhau.
Nhóm 3: Nhóm trị chơi củng cố, ơn tập

Những trị chơi trong nhóm này được sử dụng sau khi HS đã được học
một nội dung hoặc kỹ năng nào đó, những kiến thức hoặc kỹ năng đã học là cơ
sở để học sinh thực hiện những trò chơi này.
- Dựa vào phương tiện và cách thức thực hiện, trị chơi được chia thành 3
nhóm lớn: [ 8 ]
+ Nhóm trị chơi dùng lời
Với nhóm trị chơi dùng lời, GV lúc này chủ yếu có nhiệm vụ là đọc câu
hỏi, HS trả lời và giáo viên sẽ là người công bố đáp án, hỏi đáp để giúp HS tái
hiện hoặc củng cố kiến thức. Ở trò chơi này, GV là người linh hoạt trong việc
dùng ngôn ngữ, động tác cơ thể hoặc di chuyển liên tục nhằm thu hút sự chú ý
của học sinh, giúp tiết học trở nên sinh động.
Các loại trò chơi dạng này rất phong phú, có thể kể tên một số trị chơi
phổ biến như: trị chơi trả lời nhanh, trị chơi đốn từ, ai là chun gia...
+ Nhóm trị chơi có sử dụng phương tiện trực quan
Các phương tiện trực quan trong Ngữ văn phổ biến là tranh ảnh, phim...
Với các phương tiện này, giáo viên kết hợp dùng lời để mô tả, yêu cầu học sinh
quan sát, ghi chép và trả lời nhằm tái hiện kiến thức.....vấn đề trong bài học.
+ Nhóm trị chơi có sử dụng cơng nghệ
Trong nhóm trị chơi này, GV và HS đều phải sử dụng máy tính, điện
thoại thơng minh có kết nối mạng để phục vụ cho việc tìm kiếm và tổng hợp kiến
thức. Các trò chơi phổ biến bao gồm:
+ Trò chơi kahoot
+ Trò chơi lật hình, ghép hình
+ Trị chơi ơ chữ
d. Tác dụng của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng trị chơi
Trong q trình dạy học mơn Ngữ văn, các trò chơi nếu được sử dụng
hợp lý sẽ thúc đẩy một cách tự nhiên tính năng động và tính tích cực tham gia
học tập của học sinh.
Sử dụng trò chơi trong dạy học nói chung và trong dạy học mơn Ngữ
văn nói riêng sẽ tạo được mơi trường, khơng khí học tập vui vẻ, giờ học văn sẽ

khơng cịn tẻ nhạt mà cũng khá lý thú.
Trị chơi có tác dụng hoà đồng sâu rộng và thu hút mức độ tập trung
của học sinh. Hơn thế nữa, mối quan tâm và hoạt động của học sinh thể hiện qua
các tiết học có trị chơi làm nảy sinh tình cảm của các em đối với môn học.
5


2.2.Cơ sở thực tiễn.
2.2.1. Chương trình mơn Ngữ văn lớp 10 và lớp 11- THPT.
- Chương trình mơn Ngữ văn lớp 10: Khơng tính các tiết trong phần giảm tải của
Bộ giáo dục, tổng cả năm có 105 tiết. Trừ các tiết kiểm tra và hướng dẫn học hè thì
số tiết của các phân môn như sau:
+ Đọc văn: 65 tiết
+ Tiếng Việt: 9 tiết
+ Làm văn: 18 tiết
- Chương trình mơn Ngữ văn lớp 11: Khơng tính các tiết trong phần giảm tải của
Bộ giáo dục, tổng cả năm có 123 tiết. Trừ các tiết kiểm tra và hướng dẫn học hè thì
số tiết của các phân mơn như sau:
+ Đọc văn: 77 tiết
+ Tiếng Việt: 14 tiết
+ Làm văn: 18 tiết
2.2.2. Thực trạng thiết kế và sử dụng trị chơi trong dạy học mơn Ngữ văn
lớp 10 và lớp 11 ở trường THPT Tĩnh Gia 4
a. Thực trạng về nhận thức của giáo viên đối với việc sử dụng trò chơi trong dạy
học Ngữ văn lớp 10 và lớp 11.
Hiện nay, tôi nhận thấy rằng hầu hết giáo viên nhận thức đúng đắn về sự
cần thiết của việc tổ chức các trị chơi dạy học trong q trình dạy học nói chung
và mơn Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 nói riêng. Theo thống kê, có 6/8 GV cho rằng sử
dụng trị chơi để phát huy tính tích cực của HS là rất cần thiết (chiếm 75%), có 2
giáo viên cho rằng điều này là cần thiết (25%), khơng có giáo viên nào thấy việc

này là khơng cần thiết. [ Phụ lục 1]
b. Thực trạng về tình hình xây dựng và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy
học Ngữ văn 10 và 11.
Bảng 1. Tình hình xây dựng và sử dụng trị chơi trong dạy học mơn
Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 ở trường THPT Tĩnh Gia 4
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không
Mức độ Số
Tỉ lệ
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
Trường
lượng
(%)
giáo viên (%)
giáo viên (%)
GV
THPT TG 4
2
25
6
75
0
0
Như vậy, có 2 GV (25%) thường xuyên sử dụng phương pháp dạy học bằng
trị chơi và có 6 GV (75%) thỉnh thoảng sử dụng. Các thầy cơ giáo đã có những cố
gắng nhất định trong việc xây dựng và sử dụng trị chơi dạy học nhằm tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh và hoạt động này đã cho được một số kết quả. Tuy
nhiên, trong quá trình xây dựng và sử dụng trò chơi cũng còn nhiều tồn tại cần phải
giải quyết.

c. Thực trạng về nguyên nhân khiến giáo viên ngại khi xây dựng và sử dụng trò
chơi trong dạy học Ngữ văn lớp 10 và lớp 11
Sau khi tổng hợp phiếu điều tra cũng như phỏng vấn các giáo viên, tơi nhận
thấy rằng những khó khăn mà các giáo viên tại các trường THPT Tĩnh Gia 4 gặp
phải khi xây dựng và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học Ngữ văn 10 và
6


11 là vấn đề thiết kế trò chơi còn gặp khó khăn và cơng tác tổ chức trên lớp cịn
gây ra nhiều tiếng ồn cũng như thiếu thời gian cho HS hoạt động.
Bảng 2. Khó khăn khi tiến hành xây dựng và sử dụng trị chơi trong q trình
dạy học môn Ngữ văn lớp 10 và lớp 11
Xây dựng
Chưa biết cách
Gây ra tiếng
Kĩ năng sử
Nguyên
mất thời
xây dựng các trò ồn và cháy
dụng CNTT
nhân
gian
chơi
giáo án
Số
Tỉ
Số
Số
Số
Tỉ lệ

Tỉ lệ
Tỉ lệ
lượng lệ
lượng
lượng
lượng
Trường
(%)
(%)
(%)
GV
(%) GV
GV
GV
THPT TG 4 0
0,0 6
75
6
75
4
50
Từ những thực trạng điều tra được, tôi rút ra một số kết luận chung như sau:
- Việc xây dựng và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học Ngữ văn lớp 10
và lớp 11 là việc làm cần thiết, nó tạo ra hứng thú học tập hơn và góp phần thực
hiện đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học theo hướng lấy HS làm trung
tâm.
- Đa số GV nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng và sử dụng phương
pháp trò chơi trong dạy học Ngữ văn lớp 10 và lớp 11. Nhưng vấn đề về thời gian,
tiền bạc, trình độ cùng với hạn chế về công nghệ thông tin nên thực tế việc xây
dựng và sử dụng trò chơi trong dạy học Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 chưa mang lại

hiệu quả cao.
2.3.Các giải pháp sử dụng trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn lớp 10 và lớp
11 ở trường THPT Tĩnh Gia 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
2.3.1. Cơ sở xây dựng trò chơi
- Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, phương pháp của bài học.
- Căn cứ vào logic của quá trình dạy học trên lớp.
- Căn cứ vào đặc điểm của học sinh trong quá trình học tập ở trường THPT.
- Căn cứ vào chương trình dạy học mơn Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 tại
trường THPT Tĩnh gia 4.
2.3.2. Nguyên tắc áp dụng trị chơi
Mơn Ngữ văn có ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn. Mỗi phân
môn có đặc thù riêng. Vì thế việc vận dụng lồng ghép trị chơi có những điểm khác
nhau:
+ Đọc văn: Tuỳ thuộc dạng bài( bài khái quát; ôn tập; đọc- hiểu văn bản…)
lượng kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trị chơi: Trị
chơi nhỏ dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Do đặc
thù của phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương,
đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa phải.
+ Tiếng Việt: Lồng ghép trị chơi đối với phân mơn này là khá phù hợp, đặc
biệt là đối với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần gắn với các bài tập,
hoặc các hình thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận dụng tốt
giải pháp này, giờ học Tiếng Việt sẽ khơng cịn khơ cứng, học sinh sẽ cảm thấy
thoải mái, hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em, quan trọng hơn là góp
phần phát triển năng lực sử dụng ngơn ngữ ở học sinh. Qua trò chơi, tư duy và khả
7


năng ngôn ngữ của các em sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và
uốn nắn kịp thời những mặt cịn hạn chế.
+ Làm văn: Chính là phần thực hành của Đọc văn và Tiếng Việt. Có thể vận

dụng trị chơi trong một số tiết học và khơng nên thực hiện hình thức này trong cả
tiết, với phân mơn này, việc lồng ghép hình thức trị chơi không thể thay thế được
các phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành, luyện
tập, hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng… Do đó khơng nên
gượng ép để cố tình đưa trị chơi vào tất cả các giờ học làm văn.
2.3.3. Lựa chọn nội dung tổ chức trò chơi
Nội dung phải vừa sức học, phải đảm bảo đủ thông tin kiến thức mà học
sinh đã nắm được, khơng dễ q và cũng khơng khó q.
Nội dung cần phù hợp với cuộc sống thực tế của học sinh, giúp các em dễ
vận dụng vào thực tiễn. Nội dung trị chơi phải có tính khả thi, trị chơi đưa ra phải
phù hợp với thực tế trường, lớp.
2.3.4. Sử dụng phương tiện khi tổ chức trò chơi.
Thực tế, qua các tiết dự giờ đồng nghiệp ở trường, tôi thấy thường khi
cho học sinh chơi trò chơi, đa số GV chỉ tổ chức“ sng” mà thiếu sự chuẩn bị
như: Khơng hóa trang nhân vật, khơng đủ phiếu cá nhân, khơng có thẻ xanh, thẻ đỏ
để phục vụ đánh giá, khơng có phần thưởng… Chính vì điều đó, mà mỗi lần tổ
chức trò chơi là một lần thiếu hấp dẫn học sinh, dẫn đến sự đơn điệu và nhàm chán.
Vì vậy để tổ chức trò chơi trong giờ học văn đòi hỏi giáo viên và học sinh phải
chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cần thiết.
2.3.5. Các bước tổ chức trò chơi
Trò chơi có thể tổ chức theo các bước sau:
Bước 1: Phổ biến trò chơi:
+ Giáo viên giúp học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội
dung, cách chơi, cách phân thắng bại…
+ GV chọn một số HS tham gia trò chơi, bảo đảm qua các giờ học, lần
lượt HS được tham gia tất cả, đặc biệt chú ý những HS nhút nhát, ít phát biểu.
Bước 2: Học sinh thực hiện trò chơi:
+ Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trị chơi.
+ Một nhóm học sinh thực hiện trò chơi trước lớp, cả lớp theo dõi.
+ Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trò chơi.

Bước 3: Tổng kết, đánh giá:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trò chơi: Trị chơi
có được thực hiện đúng quy tắc khơng, có phù hợp với nội dung bài học khơng, có
thể rút ra bài học gì qua trị chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và tuyên
bố nhóm( hay cá nhân) thắng cuộc( nếu có).
- Giáo viên khen thưởng nhóm có kết quả tốt.
Như vậy, với những biện pháp đã vận dụng vào từng thời điểm, mục đích,
nội dung khác nhau thật sự phát huy tác dụng, giờ dạy học thực sự là giờ “vừa học,
vừa chơi”, kết hợp được giữa “học và hành”, hấp dẫn học sinh và gây sự chú ý học
hơn nhiều.
2.3.6. Sử dụng một số trị chơi trong dạy học mơn Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 ở
trường THPT Tĩnh Gia 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
8


Trong q trình dạy học mơn Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 tại trường THPT
Tĩnh Gia 4, tôi đã vận dụng một cách linh hoạt phương pháp sử dụng trò chơi và
đạt được những kết quả nhất định qua một số trị chơi sau:
a. Trị chơi đóng vai
- Vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học: Vào vai nhân vật Mị
Châu kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, vào vai nhân vật
Tấm kể lại truyện cổ tích Tấm Cám…
- Chuyển thể một văn bản thành một kịch bản sân khấu: Chuyển thể
văn bản Chí Phèo( Nam Cao), Số đỏ( Vũ Trọng Phụng), Chữ người tử tù( Nguyễn
Tuân)… thành kịch bản sân khấu và cho học sinh thảo luận về một số vấn đề trọng
tâm được đặt ra. Từ đó học sinh hình thành được các kiến thức, kĩ năng và năng
lực quan trọng qua bài học.
Quy trình vận dụng trị chơi đóng vai trong dạy học mơn Ngữ văn
Bước 1: Giao nhiệm vụ chuẩn bị bài mới
- Giáo viên chia nhóm, gợi ý một số nội dung/ chủ đề cần đóng vai. Trong đó quy

định rõ thời gian chuẩn bị và thời gian đóng vai cho các nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai: Phân vai, dàn cảnh, học lời thoại, cách
thể hiện nhân vật, diễn thử…
Bước 2 : Học sinh trình bày sản phẩm – thảo luận
- HS trình bày sản phẩm nhóm.
- GV định hướng HS thảo luận về những nội dung trọng tâm của bài học được
đặt ra từ các sản phẩm.
- Học sinh thảo luận, nhận xét, đánh giá.
Bước 3: Chốt kiến thức: GV chốt kiến thức, hướng dẫn học sinh tổng hợp và khái
quát những vấn đề trọng tâm của bài học.
b. Trò chơi tiếp sức
Mục đích: Áp dụng trị chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả HS
trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém. Trò
chơi này áp dụng khi GV yêu cầu HS tìm những biểu hiện của một nội dung, khái
niệm của một bài học nào đó các em có thể thảo luận, phát hiện và nêu ra những
biểu hiện đó.
Cách tiến hành trị chơi:
+ Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.
+ Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và cơng bố luật chơi.
+ Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
Ví dụ: Khi dạy bài Chí Phèo – Nam Cao
Hình 3. Vài nét về cuộc đời nhân vật Chí Phèo

9


GV chuẩn bị 3 sơ đồ trống, mỗi nhóm 5 hs luân phiên tiếp sức hoàn thành sơ lược
cuộc đời Chí Phèo.
c. Trị chơi“ Gặp gỡ chun gia” (hoặc người nổi tiếng).
Mục đích: Trị chơi này tập cho các em ln tự tin, mạnh dạn khi trình bày

một vấn đề trước đám đơng. Qua trị chơi, các em tự rút bài học kinh nghiệm cho
bản thân như: Kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi gặp những tình huống cụ thể trong
cuộc sống và nắm bắt bài học một cách cụ thể, dễ dàng.
Cách tiến hành trò chơi:
+ Chọn 1 học sinh dẫn chương trình.
+ Chọn 2- 3 học sinh là khách mời để thực hiện trò chơi. Cả lớp và giáo viên
là khán giả.
+ Khi kết thúc giáo viên tuyên dương các nhân vật thực hiện trò chơi và rút
ra bài học kinh nghiệm.
Ví dụ: Khi dạy bài“ Phong cách ngơn ngữ báo chí”- Ngữ văn 11- tập 1.
Giáo viên chọn 1 học sinh làm người dẫn chương trình, học sinh cịn lại là khách
mời. Khách mời sẽ trình bày nội dung về đề tài đã cho, các học sinh cịn lại vào vai
khán giả có thể đặt những câu hỏi để hỏi những vị khách mời bất cứ câu hỏi nào có
nội dung xoay quanh bài học. Như vậy, đòi hỏi các vị khách mời phải biết sáng tạo,
linh hoạt, nhanh nhạy trong xử lý tình huống khi người dẫn chương trình và khán
giả hỏi.
d. Trị chơi nhìn hình đốn chữ - đuổi hình bắt chữ.
Mục đích: Giúp học sinh phát huy khả năng tư duy nhanh nhạy của mình,
tạo khơng khí sơi nổi trong giờ học, tạo sự hứng thú và bớt căng thẳng ở học sinh.
Cách tiến hành trị chơi: Giáo viên chuẩn bị hình ảnh minh họa liên quan đến
nội dung bài học có sử dụng trị chơi. Giáo viên chiếu hình lên máy chiếu hoặc treo
hình lên bảng phụ và cho cả lớp đốn những hình ảnh ấy thể hiện nội dung gì? Cả
lớp cùng chơi và học sinh nào trả lời được đúng và nhiều hình nhất sẽ được thưởng
tràng pháo tay hoặc cộng thêm điểm. Giáo viên nhận xét rút ra nội dung bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Thực hành về thành ngữ, điển cố”, bài tập 6 SGK Ngữ văn
11- tập 1, ta có thể áp dụng trị chơi sau:

10



Hình 4: Trị chơi“ Đuổi hình- bắt chữ”
e. Trị chơi ơ chữ bí mật.
Hình thức: Trị chơi ơ chữ trong dạy học có nhiều dạng khác nhau, có thể là
giải những ơ chữ hàng ngang rồi tìm từ khóa trong ô chữ hàng dọc, có thể là ô chữ
dưới dạng sơ đồ… Mỗi ơ chữ có lời gợi ý và nội dung ơ chữ có liên quan trực tiếp
đến bài học.
Mục đích: Giới thiệu vào bài mới hoặc củng cố khắc sâu kiến thức của bài
học, phát huy tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh.
Cách chơi: Giáo viên giới thiệu qua ơ chữ gồm có bao nhiêu hàng ngang,
hàng dọc từ chìa khố nằm ở hàng nào, sau đó giáo viên lần lượt đọc từng câu hỏi
gợi ý để học sinh xung phong giải ô chữ. Nếu bạn nào trả lời đúng thì ghi dịng chữ
đó vào ơ chữ và sẽ được cộng điểm hoặc tuyên dương còn nếu trả lời sai thì sẽ
nhường cơ hội cho các bạn cịn lại. Ai tìm ra được ơ từ khóa chính xác và nhanh
nhất sẽ là người chiến thắng.
Với trị chơi này chúng ta có thể áp dụng cho tất cả các bài học đặc biệt là ở
các bài giảng văn, áp dụng chơi vào đầu giờ để giới thiệu bài mới nhằm gây hứng
thú với học sinh hoặc lúc củng cố để các em khắc sâu nội dung bài học. Ví dụ khi
bắt đầu bài“ Ơn tập tiếng việt”- Ngữ văn 10, giáo viên chia lớp thành các nhóm và
tiến hành tổ chức trò chơi để dẫn dắt vào bài học.
Luật chơi
- Lần lượt chọn các từ hàng ngang để trả lời câu hỏi.
- Căn cứ vào kết quả từ hàng ngang để xác định từ khóa của trị chơi. Từ khóa là 1
từ có 9 chữ cái liên quan đến nội dung bài học của chúng ta hôm nay.
11


HÀNG NGANG SỐ 1: 8 CHỮ CÁI( Là hoạt động trao đổi thông tin giữa con
người với con người nhằm đạt được một mục đích nào đó).
HÀNG NGANG SỐ 2: 7 CHỮ CÁI(Đây là phương tiện giao tiếp phổ biến, quan
trọng nhất của con người).

HÀNG NGANG SỐ 3: 9 CHỮ CÁI( Là tên 1 truyện thơ Nôm nổi tiếng nhất Việt
Nam).
HÀNG NGANG SỐ 4: 6 CHỮ CÁI(" Tiếng nói là một thứ rất quý báu
của.........................................." - Hồ Chí Minh).
HÀNG NGANG SỐ 5: 7 CHỮ CÁI( Điền từ còn thiếu vào chỗ trống:
Như nước …. ta từ trước.
Vốn xưng nền Văn hiến đã lâu.
từ khóa: TIẾNG VIỆT

Hình 5: Ơ chữ bí mật
g. Trị chơi ghép hình
Trị chơi xếp hình đúng có thể là xếp các mảnh ghép khác nhau thành một
hình hồn chỉnh, có thể là xếp các hình với những mảnh ghép ghi nội dung có
chung đặc điểm vào một nhóm, một thể loại. Để tổ chức trị chơi này, giáo viên cần
có sự chuẩn bị sẵn các mảnh ghép. Những mảnh ghép đó có thể là hình ảnh, có thể
là chữ viết thể hiện nội dung.
Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, giúp học sinh nhớ lại nội
dung bài học một cách lôgic.
Cách chơi: Giáo viên treo một số hình ảnh và một số mảnh ghép ghi nội
dung liên quan đến bài học lên bảng. Tuỳ vào mục đích bài học mà giáo viên cho
học sinh xung phong lên xếp những mảnh ghép thành một hình hồn chỉnh hoặc
xếp những mảnh ghép có ghi nội dung tương ứng với một hình ảnh nào đó theo
u cầu của giáo viên, đội nào xếp các mảnh ghép đúng hoàn thành trong thời gian
ngắn hơn sẽ là đội chiến thắng.
Ví dụ: Khi dạy bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Tiết 83-84- Ngữ Văn
11- tập 2. Khi tìm hiểu phần Tiểu dẫn, mục 1- tác giả thì giáo viên có thể cho học
sinh chơi trị chơi này bằng cách cho các mảnh ghép gồm hình của 3 tác giả Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và các mảnh ghép có đánh dấu theo số thứ tự 1, 2, 3...
( làm bằng giấy tô ki) ghi các thông tin liên quan về ba tác giả trên. Giáo viên chia
12



lớp làm các nhóm tự thảo luận, lắp ráp các hình và các mảnh ghép ghi thơng tin lại
với nhau. Đội nào xung phong lên ráp đúng các thông tin tương ứng với mỗi tác
giả thì đội đó chiến thắng. Nếu không đúng sẽ nhường phần cho các đội khác. Giáo
viên nhận xét và kết thúc trò chơi.
Với việc áp dụng trị chơi này các em sẽ ơn tập được kiến thức cũ về tác giả
Xuân Diệu, Huy Cận mà các em đã học ở các tiết học trước đồng thời cũng hình
thành được kiến thức mới về tác giả Hàn Mặc Tử. Như vậy, giáo viên vừa tiết kiệm
được thời gian- chỉ mất 7 phút( vừa dò bài cũ vừa dạy được kiến thức mới), lại tạo
được hứng thú cho các em khi học bài mới. Vì thế tiết học sẽ trở nên sơi động
hơn... Trị chơi này chúng ta có thể áp dụng cho rất nhiều tiết giảng văn, đặc biệt là
phần tìm hiểu về các tác giả...
Sau đây là hình ảnh minh họa cho trị chơi: Giáo viên treo lên bảng những
mảnh ghép như sau:
a/ Hình ảnh của 3 tác giả: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử.
b/ Các mảnh ghép ghi thông tin liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của 3 tác giả
trên và được đánh dấu theo thứ tự từ 1-13.
1/ (1916 – 1985) bút danh Trảo Nha. Quê quán: Hà Tĩnh
2/ Tác phẩm chính: Tập“Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ cuộc
đời”…
3/ Gia đình: Viên chức nghèo, cha mất sớm, sống với mẹ ở Quy Nhơn
4 / Năm 1936, mắc bệnh phong. Mất tại trại phong Quy Hoà.
5/ Tên khai sinh: Nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940). Quê: Đồng Hới - Quảng Bình.
6/ Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say,
yêu đời thắm thiết.
7/Tác phẩm: Thơ thơ (1938), “Gửi hương cho gió” (1945), Riêng chung (1960)...
8/ Thơ ơng hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
9/ Ơng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình thơ, nhà dịch thơ, nhà bình
thơ, nhà văn hố lớn của Việt Nam thế kỷ XX.

10/ (1919 - 2005). Xuất thân: Gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh
11/ Ơng là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới
với hồn thơ ảo não.
12/ Ông là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất phong trào Thơ
Mới.
13/ Các tác phẩm chính: Gái quê, Thơ điên, Xuân như ý....
3/ Đáp án chúng ta sẽ có 3 hình sau( Học sinh có thể ghép theo hàng dọc như ở
dưới hoặc ghép theo hàng ngang)
* Chân dung 1: Tác giả Xuân Diệu

13


1/ (1916 – 1985) bút danh Trảo Nha. Quê quán: Hà Tĩnh
6/ Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say,
yêu đời thắm thiết.
7/ Tác phẩm: Thơ thơ (1938), “Gửi hương cho gió” (1945), Riêng chung (1960)...
9/ Ơng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình thơ, nhà dịch thơ, nhà bình
thơ, nhà văn hố lớn của VN thế kỷ XX.
* Chân dung 2: Tác giả Huy Cận

10/ (1919 - 2005). Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh
2/ Tác phẩm chính: Tập “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời…
11/ Ông là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới
với hồn thơ ảo não.
8/ Thơ ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
* Chân dung 3: Tác giả Hàn Mặc Tử

14



5/ Tên khai sinh: Nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940). Quê: Đồng Hới - Quảng Bình.
3/ Gia đình: viên chức nghèo, cha mất sớm, sống với mẹ ở Quy Nhơn
4 / Năm 1936, mắc bệnh phong. Mất tại trại phong Quy Hồ.
13/ Các tác phẩm chính:Gái q, Thơ điên, Xn như ý....
12/ Ơng là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất phong trào thơ
Mới.
h.Trò chơi trả lời nhanh
Trị chơi này có thể tổ chức dưới dạng các gói câu hỏi. Mỗi gói câu hỏi đều
liên quan đến kiến thức của các bài học trước.
Mục đích: Giúp học sinh tích cực huy động trí nhớ, tư duy và khả năng phản
ứng nhanh về các nội dung đã được học.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các gói câu hỏi và đáp án cho các đội chơi, thẻ
điểm… Hoặc chọn cá nhân đại diện 4 tổ sử dụng chng lắc để bắt tín hiệu nhanh.
Ví dụ bài:“ Thực hành về Thành ngữ và điển cố”- Ngữ văn 11

Cách chơi: Chia nhóm. Mỗi đội cử đại diện người để lên trả lời câu hỏi. Cuối
cùng giáo viên tổng kết đội nào có nhiều câu trả lời đúng và số điểm cao nhất thì
đó là đội chiến thắng.
Bên cạnh các trị chơi đó, giáo viên có thể sáng tạo thêm nhiều trị chơi khác
như: Tập làm phóng viên, trị chơi ghép đơi, trị chơi đố vui…chủ yếu phải phù
hợp bài học, phù hợp với thực tế học sinh, thực tế ở địa phương.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Qua việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh trong một số giờ học Văn tôi
thấy đã đạt được một số kết quả sau:
2.4.1. Đối với giáo viên
15


Không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết dạy mà giáo viên và

học sinh vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức của bài học.
Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để giáo viên khắc sâu
kiến thức. Từ đó làm cho khơng khí lớp học sơi nổi, giảm sự đơn điệu, tăng hứng
thú học tập cho học sinh nhờ đó nâng cao hiệu quả việc dạy và học, đặc biệt với
những em sức học yếu, chậm, nhút nhát.
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và hiệu quả.
2.4.2. Đối với học sinh
a. Kết quả định lượng
Tôi đã tiến hành một bài kiểm tra thường xuyên với nội dung như nhau( hình
thức là viết trong thời gian 15 phút) ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng:
Khối 11:
Khối lớp Lớp TN
Lớp ĐC
Tên bài kiểm tra TX
A1 (TN1)- 44 HS
A3 (ĐC1)- 35 HS
KT1
11
A5 (TN2) - 42 HS
A4 (ĐC2)- 39 HS
KT2
Kết quả thu được tôi đã mô hình hóa thành biểu đồ để dễ dàng so sánh hơn.

Hình 6 : Biểu đồ cơ cấu điểm của lớp 11A1 (TN) và lớp 11A3(ĐC)
Lớp 11A5 và 11A4 [ Phụ lục]
Khối 10:
Khối lớp Lớp TN
Lớp ĐC
Tên bài kiểm tra TX
10

B4(TN1)- 42HS
B5(ĐC1)- 42HS
KT1
B2(TN2)- 43HS
B6(ĐC2)- 43HS
KT2
16


Hình 7: Biểu đồ so sánh điểm của lớp 10B4( TN) và lớp 10B5( ĐC)
Lớp 10B2 và 10B6 [ Phụ lục]
b. Kết quả định tính
Thơng qua phiếu khảo sát HS sau khi áp dụng trò chơi trong dạy học Ngữ văn
10 và 11, tôi đã rút ra một số thay đổi sau:
Thứ nhất, thái độ của học sinh khi tham gia học tập bằng trò chơi:
Bảng 3. Thái độ của HS lớp 10 và 11 khi tham gia học tập bằng trị chơi mơn
Ngữ văn ở trường THPT Tĩnh Gia 4 năm học 2020 - 2021
Thái độ
Số lượng HS
Tỉ lệ (%)
Rất thích, hào hứng
68
80
Thích
12
14,1
Bình thường
5
5.8
Khơng thích

0
0
Khơng quan tâm
0
0
Tổng
85
100
Như vậy, hầu hết HS đều thích và rất thích trị chơi trong các tiết học khi có tới
94.2% HS được hỏi đều tỏ ra thích và rất thích và chỉ có 5.8% HS thấy bình
thường khi có trị chơi. Việc sử dụng trò chơi thường xuyên ở trên đã tạo được tác
động tích cực đối với HS.
c. Tác động của trị chơi đối với học sinh
Kết quả được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 4. Tác động của trò chơi trong việc học tập Ngữ văn 10 và 11 ở trường
THPT Tĩnh Gia 4 năm học 2020 - 2021
Tác động
Hồn tồn
Đồng ý
Khơng đồng ý Hồn tồn
đồng ý
khơng đồng ý
Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ
lượn
lượng
lượng

lượng
lệ
g
u thích học 85
100
0
0
0
0
0
0
bộ mơn hơn
Hiểu bài hơn 67
78.9 8
15.7 3
5.26 0
0
5
9
17


Hào hứng học 85
100
0
0
0
0
0
0

tập
Nhớ bài lâu
69
84.2 6
13.1 1
2.63 0
0
hơn
1
6
Tăng cường
71
86.8 8
7.89 2
5.26 0
0
hợp tác
5
Qua bảng trên, có thể nhận thấy, trị chơi đang có tác động rất tích cực đến
các em học sinh.
Tất cả 100% đều yêu thích học tập bộ mơn hơn vì có trị chơi. Trong khi đó,
có 15.79% học sinh đồng ý và có tới 78.95% học sinh hoàn toàn đồng ý với việc
hiểu bài hơn nhờ có các trị chơi.
Có 100% học sinh cho rằng, trị chơi giúp cho các em hào hứng tham gia
việc học tập và tới 84.21% học sinh hoàn toàn đồng ý với việc sẽ nhớ bài lâu hơn
sau khi chơi trò chơi liên quan đến phần kiến thức. Trò chơi cũng góp phần giúp
học sinh tăng cường tính hợp tác thơng qua các hoạt động thảo luận, trao đổi và
liên kết lẫn nhau nhằm thực hiện các yêu cầu của trò chơi.
.
3. Kết luận và đề xuất

3.1. Kết luận
Tóm lại, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong môn Ngữ văn
ở nhà trường là hết sức cần thiết và quan trọng. Nó góp phần thay đổi phương pháp
dạy học truyền thống bằng phương pháp mới nhằm phát huy tính tích cực, tự giác,
tính độc lập, sáng tạo của học sinh. Đồng thời nó cũng góp phần làm thay đổi cách
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh- từ kiểm tra, đánh giá bằng lý
thuyết suông chuyển sang kiểm tra, đánh giá cả kỹ năng và khả năng vận dụng kiến
thức
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học mơn Ngữ văn ở bậc THPT có rất nhiều
tác dụng. Tuy nhiên khi sử dụng nó khơng nên quá lạm dụng, chúng ta chỉ nên sử
dụng trong thời gian ngắn như: Khởi động giờ học, giới thiệu một nội dung mới
hoặc để củng cố một vấn đề... giúp học sinh say mê với môn học đồng thời vẫn có
những điểm tựa để ghi nhớ kiến thức của bài học thông qua nội dung chơi.
3.2. Ý kiến đề xuất
3.2.1. Đối với học sinh
- Học sinh phải có đủ tài liệu( sách giáo khoa, sách tham khảo…) để học tập,
nghiên cứu môn học.
- Học sinh phải ý thức được tầm quan trọng của mơn Ngữ văn đối với sự hồn
thiện, phát triển nhân cách cũng như nghề nghiệp của bản thân. Phải tích cực học
tập để trang bị các tri thức cần thiết cho cuộc sống và công việc tương lai.
3.2.2. Đối với giáo viên
- Giáo viên cần thường xuyên sinh hoạt chuyên môn hơn để trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau trong việc xây dựng và sử dụng trị chơi trong dạy học mơn Ngữ
văn cũng như các biện pháp dạy học khác nhau nhằm tích cực hóa q trình học
tập của học sinh. Với vai trị là người hướng dẫn học trò nên thầy phải nghiên cứu,
18


soạn giáo án kĩ, có hệ thống câu hỏi dẫn dắt phù hợp khi khai thác kiến thức qua
các hoạt động liên quan đến bài, rèn cho học sinh tính chủ động tiếp cận bài mới.

- Từ kết quả đạt được trong giảng dạy tôi nhận thức được rằng người giáo viên cần
phải có sự say mê với nghề, nghiên cứu kỹ tài liệu, sưu tầm tư liệu, tìm tịi phương
pháp đặc trưng đối với từng bài, từng nội dung và kiến thức cần thiết.
- Giáo viên phải tìm hiểu kỹ từng đối tượng HS, khơi dậy sự say mê u thích mơn
học, giúp các em có phương pháp học tập đúng đắn.
3.2.3. Đối với nhà trường
- Tăng cường bồi dưỡng các phương pháp dạy học mới cho giáo viên bộ môn để
chất lượng dạy học ngày càng được nâng cao.
- Động viên khuyến khích kịp thời cả về vật chất lẫn tinh thần đối với giáo viên có
thành tích, tích cực tìm tịi, sáng tạo trong đổi mới phương pháp.
- Tăng cường cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi
mới phương pháp dạy học.
Trên đây là cách làm của bản thân tơi. Những phương pháp tơi đưa ra chỉ là
số ít trong số các phương pháp dạy học tích cực trong mơn Ngữ văn cho học sinh
THPT nói chung và các em học sinh khối 10 và 11 nói riêng. Bên cạnh những ưu
điểm thì phương pháp dạy học bằng trị chơi tơi đưa ra vẫn có những nhược điểm
nhất định. Nhưng những hạn chế đó có phần do yếu tố khách quan, trong q trình
dạy học tơi sẽ cố gắng khắc phục.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu chưa được nhiều nên chắc chắn đề tài của
tôi không tránh khỏi thiếu sót. Tơi kính mong được các đồng nghiệp, các cấp quản
lí giáo dục góp ý để đề tài của tơi được hồn thiện hơn nữa.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.


Lê Thị Hương

19


20



×