Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tài liệu trau_cau_voi_tinh_yeu_doi_lua_trong_ca_dao_321 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.22 KB, 15 trang )

Trầu cau với tình yêu đôi lứa trong ca dao
Cập nhật ngày: 22/01/2010 10:59:30
Trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình ảnh miếng trầu đã trở
nên hết sức quen thuộc, gần gũi và mời trầu, ăn trầu là một phong tục phổ biến trong
cuộc sống thường ngày, đặc biệt là trong các lễ cưới hỏi. Trầu cau luôn tượng trưng
cho tình yêu thủy chung, thắm nồng và hạnh phúc bền chặt của lứa đôi. Ngay từ thời xa
xưa, trầu cau đã có mặt trong các truyện cổ tích Trầu cau, Tấm Cám… và đặc biệt, lễ
vật dân dã này xuất hiện khá nhiều trong ca dao về tình yêu đôi lứa.

Trầu cau có mặt trong suốt chặng đường nhân duyên, từ lúc làm quen, tỏ tình đến lễ
đặt trầu, xin dâu, lễ cưới sum họp hay chia ly. Trong giao tiếp, các chàng trai, cô gái
thanh lịch bao giờ cũng rất ý tứ mà tinh tế, khéo léo, đặc biệt là giai đoạn làm quen, tỏ
tình. Khi đó, miếng trầu là một bức thông điệp, là “vật đưa tin” của các chàng trai, cô gái.
Họ nhờ miếng trầu để bày tỏ tình cảm của mình:

Sáng ngày em đi hái dâu
Em gặp anh ấy ngồi câu thạch bàn
Và anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô đã vội vàng đi đâu
Thưa rằng em đi hái dâu
Và anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người

Cô gái vốn con nhà nền nếp, trọng gia phong khuôn phép nên chẳng dễ nhận trầu
ngay. Và hơn nữa, nhận trầu là nhận lấy một sự ràng buộc nhất định về tình cảm, trong
khi đây mới là buổi mới làm quen, cô chưa có nhiều hiểu biết về chàng trai nên cô thận
trọng, khéo léo từ chối là lẽ đương nhiên. Nhưng đó lại chính là cơ hội để cho chàng trai
giới thiệu về miếng trầu của mình:

Trầu này trầu quế trầu hồi


Trầu loan trầu phượng, trầu tôi trầu mình
Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình, trầu ta
Trầu này têm tối hôm qua
Trầu cha, trầu mẹ đem ra mời nàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao nàng không ăn?
Hay nàng chê khó, chê khăn
Xin nàng đứng lại mà ăn trầu này
Đây quả là miếng trầu “đặc biệt” được đưa ra mời trong một thời điểm “đặc biệt”. Nó
hội tụ tất cả những gì đẹp đẽ, sang trọng nhất bởi miếng trầu đó được têm bằng tấm
lòng chân thành, tình cảm trong sáng của chàng trai. Cô gái biết được lai lịch, giá trị của
miếng trầu mà qua đó biết được lai lịch, giá trị của người mời trầu. Lời mời trầu của
chàng trai rất tình tứ và có duyên khiến cô gái cũng dần phải xiêu lòng. Nhưng chẳng lẽ
lại đồng ý ngay! Vì vậy, cô đành tỏ thái độ lững lờ nửa vời, cũng là để “báo hiệu” cho
chàng trai:

Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn

Được lời như cởi tấm lòng, chàng trai tiến tới khẳng định một lần nữa giá trị của
miếng trầu và ngầm ý bảo với cô gái rằng việc mời trầu, nhận trầu là hoàn toàn tự
nguyện và chàng luôn tôn trọng ý kiến của cô:

Trầu này têm những vôi Tàu
Giữa thêm cát cánh hai đầu quế cay
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên nghĩa vợ chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương


Sau buổi làm quen đó, hai người dần có cảm tình với nhau và tình yêu bắt đầu
chớm nở. Để đến khi chàng trai sang nhà chơi thì cô gái đã có thể chủ động mời trầu:

Ra vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu cho anh xơi trầu

Cau bổ làm sáu là loại cau vừa đủ độ chín, không non cũng không già. Qua việc mời
trầu này, cô gái đã kín đáo bày tỏ thái độ ưng thuận trước chàng trai. Và ngọn lửa tình
yêu nhen lên đã giúp cô gái vượt qua những ràng buộc gò bó của lễ giáo phong kiến để
chủ động ướm hỏi chàng trai:

Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em vun ké dây trầu một bên
Chừng nào trầu nọ bén lên
Cau kia bén trái lập nên cửa nhà
Và đôi khi cô gái cũng không kém phần bạo dạn, tinh nghịch:
Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm…

Được cô gái “mở đường chỉ lối”, chàng trai sung sướng như mở cờ trong bụng, nói
thẳng ước muốn của mình mà không cần e ngại:

Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên

Tình yêu đã khiến cho cuộc đời của đôi lứa trở nên đẹp hơn và giúp họ lạc quan,
càng tin tưởng vững chắc vào tình yêu của mình. Trên cơ sở tình yêu đó, họ tiến tới hôn
nhân “trúc mai sum họp một nhà”. Chỉ có tình yêu chân thành, nồng thắm thì mới có thể
giúp họ “một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, thông cảm và vị tha cho nhau:


Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?

Hỏi là hỏi thế thôi chứ thực ra cô gái đã ngầm khẳng định tình yêu của mình với
chàng trai mà cô đã nguyện gắn bó suốt đời. Tình yêu đó sẽ giúp họ vượt qua khó khăn,
vất vả để xây dựng hạnh phúc bền vững…

Đọc lại những bài ca dao về tình yêu đôi lứa, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn những
vẻ đẹp của nền văn hóa dân tộc, vẻ đẹp trong đời sống tình cảm của ông cha ta. Trong
cuộc sống hiện đại hôm nay, việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, trong đó có
phong tục mời trầu và ăn trầu, càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, để tình yêu mãi
được trong sáng, đẹp đẽ và thắm nồng như tình trầu duyên cau…
Sự tích trầu cau
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và
giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em.
Năm hai anh em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã
thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn trước.
Không còn được cha dạy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai
anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Thầy Lưu có
một cô con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng
không người nào sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến,
muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là
em.
Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai
người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là
anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm
chồng.
Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa.

Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.
Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng
vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là
chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy,
người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng
hững hờ với em hơn trước.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa
xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào
rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối
rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ.
Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm
mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt
chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ
biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối
xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi
bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình!
Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc
than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên
tảng đá.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng
thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh
biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên
tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và
sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của
nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng
vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài
lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi

qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua
bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì
thấy mùi vị cay cay. Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi
nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo
kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho
miệng thơm, môi đỏ.
Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi
sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt
đầu mối lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên
tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.
Tục Trầu Cau Việt Nam
Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt. Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền
với một câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Chuyện Trầu Cau.
Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc
đáo. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Với thôn dân Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng
cau bổ tám bổ tư , vỏ chay rể quạch luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu làm
người với người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Và với các nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội
nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu hát, để vào với hội làng hội nước.
Cây cau thẳng, dây trầu mềm, khắp xứ sở Việt Nam đâu mà không thấy, hàng cau phía trước
bên bể nước mưa và giàn trầu trong mỗi ngôi nhà nơi thôn dã luôn là biểu hiện của sự thái bình.
Trong Nam có 18 thôn vườn trầu, tổng diện tích hàng trăm cây số vuông. Ngoài Bắc, dọc các
thôn xóm ven sông Hồng, ngày xưa tới đâu mà chẳng nghe câu hát:
"Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh."
Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau bên cạnh bóng dừa và văng vẳng
đâu đây câu hát:
"Bồng em mà bỏ vô nôi,
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,

Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An."
Sách xưa thì ghi: "Ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm" những vật dụng cho việc ăn trầu
hôm nay vẫn thấy, đó là cơi trầu (gắn liền với câu: đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu), là dao bổ
cau (gắn liền với câu: mắt sắc dao cau), là chiếc âu trầu, là bình vôi, chìa vôi, ống vôi, là khăn, là
túi đựng trầu. Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp. Như thế
đủ thấy trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời biết dường nào.
Trầu dùng tiếp khách hàng ngày, như bát chè xanh, như điếu thuốc lào. Trầu làm sính lễ trong
đám hỏi, trầu thay cho thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui
buồn của làng quê, Xuân đến, Tết về, trầu cau còn là quà tặng. Thơ Nguyễn Khuyến có câu:
"Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ
Xin đôi câu đối để mừng ông."
Hơn thế, trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ. Dân gian có câu "Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ"
để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân. Trầu cau gần
gũi với sinh hoạt của người Việt như thế nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn
học dân gian. Sự tích Trầu Cau là một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng
khó quên cây cau-người chồng, dây trầu-người vợ và hòn đá (vôi)-đứa em trai chồng... Rồi đến
cả trăm câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian mà tập trung nhất là những bài,
những câu của trai gái nói, hát với nhau gọi là những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. Hát
mời trầu có tới hàng trăm câu hát khác nhau nhưng câu nào cũng nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc
nói về cái tài của người bổ cau, têm trầu. Câu hát mời trầu cũng là câu hát bày tỏ lòng mình. Bên
cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm
giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân,
trầu ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng". Tục ăn trầu còn gắn với
phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở
nào. Người thôn nữ má hồng răng đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng
trai, như câu ca xưa:
"Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười

Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen."
Nhuộm răng, nét văn hóa xưa của người Việt
Hàm răng đen là một trong 10 nét đẹp tiêu chuẫn của người phụ nử Việt Nam xưa:
Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua.
Không phải đàn bà mới nhuộm răng mà cả đàn ông, tục nhuộm răng đen được phổ biến khắp
nơi từ nông thôn cho đến thành thị , từ người giàu có sang trọng cho đến kẻ nghèo hèn, từ giai
cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, từ vua chúa cho đến dân đen.
Ngừơi ta chỉ nhuộm răng sau khi đã thay toàn bộ răng sữa, đó là lúc thích hợp nhất để nhuộm vì
lúc ấy răng vừa mới thành hình đang trong thời gian hoàn chỉnh, độ thấm cùa thuốc nhuộm dễ
gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng
giới thượng lưu hay quý tộc, quan lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp
gia truyền khác nhau.:smile 61:
Nhuộm răng là tục cổ của dân tộc Việt, có từ thời Hùng Vương cùng với tục ăn trầu đã trở thành

×