Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

35. GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.8 KB, 25 trang )

Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN
GIỮ
GIỮ VỮNG
VỮNG VÀ
VÀ TĂNG
TĂNG CƯỜNG
CƯỜNG SỰ
SỰ LÃNH
LÃNH ĐẠO
ĐẠO CỦA
CỦA ĐẢNG
ĐẢNG CỘNG
CỘNG
SẢN
SẢN VIỆT
VIỆT NAM
NAM ĐỐI
ĐỐI VỚI
VỚI QUÂN
QUÂN ĐỘI
ĐỘI NHÂN
NHÂN DÂN
DÂN VIỆT
VIỆT NAM
NAM TRONG
TRONG
TÌNH
TÌNH HÌNH
HÌNH HIỆN


HIỆN NAY
NAY


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội là một nguyên tắc căn bản, nguồn gốc chủ yếu, quyết định sự
trưởng thành, chiến thắng của quân đội trong mọi thời kỳ cách mạng. Điều đó
khẳng định: đây là, vấn đề có tính quy luật, một trong những nguyên tắc xây
dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, đồng thời là bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam. Ngày nay, tình
BẮC
BẮC NINH,
NINH, THÁNG
THÁNG 5
5 NĂM
NĂM 2013
2013
hình thế giới, trong nước và khu vực có nhiều biến động phức tạp, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu cao, đòi hỏi Đảng phải giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với qn đội, góp phần xây dựng
qn đội ta thành quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây dựng chính trị làm cơ
sở. Thực trạng trong thời gian vừa qua do nhận thức, trách nhiệm của một số
tổ chức đảng và đảng viên cũng như cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với quân đội còn có những vấn đề bất cập;
mặt khác, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch
đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình” chống phá cách mạng
nước ta, mục tiêu hàng đầu của chúng là xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng đối
xã hội Việt Nam nói chung, quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, nhằm vơ
hiệu hố quân đội, làm cho quân đội phai nhạt bản chất giai cấp cơng nhân,
mất phương hướng chính trị, khơng xác định được mục tiêu chiến đấu, từng
bước“phi chính trị hố” quân đội. Việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực
tiễn khẳng định tính tất yếu khách quan Đảng lãnh đạo quân đội, phê phán
những nhận thức lệch lạc, đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, phản động
của kẻ thù, đồng thời tìm ra những giải pháp để giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong điều kiện hiện nay là nhiệm vụ của


3

khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học xây dựng Đảng, xây dựng
quân đội về chính trị. Trong phạm vi bài viết này xin đề cập những vấn đề
chung về lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội,
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm quán triệt và thực hiện tốt nguyên
tắc này trong điều kiện hiện nay.
1.Tính tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và
lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam.
1.1 Cơ sở lý luận - thực tiễn
Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lên và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, về chiến tranh và
quân đội. Chủ nghĩa Mác - Lên khẳng định, lịch sử xã hội loài người từ khi có

sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu
tranh giai cấp thực chất là đấu tranh của những người bị áp bức bóc lột chống
giai cấp thống trị bóc lột. Đấu tranh giai cấp phát triển từ thấp đến cao, đến
một trình độ nhất định thì nhà nước, quân đội ra đời nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ quân đội chưa hình thành rõ
nét, nhưng đến chế độ phong kiến và đặc biệt là chế độ tư bản chủ nghĩa thì
quân đội phát triển mạnh. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là hiếu chiến, xâm
lược, phản động. Để thực hiện được mục đích chính trị của mình, nhà nước
của giai cấp tư sản phải tổ chức ra quân đội, xây dựng quân đội mạnh làm
công cụ bạo lực bảo vệ nền thống trị của mình và tiến hành chiến tranh chinh
phục các nước khác, chiếm lĩnh thị trường, vơ vét tài nguyên, buộc các nước
khác phải phụ thuộc. Chiến tranh bao giờ cũng là sự kế tục của chính trị, buộc
các nước khác phải phụ thuộc. Chiến tranh bao giờ cũng là sự kế tục của
chính trị, gắn với chính trị, khơng có cuộc chiến tranh nào lại khơng gắn với
chính trị. Xét đến cùng thì ngun nhân của chiến tranh bắt nguồn từ kinh tế,
vì lợi ích kinh tế, nhưng chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, mâu thuẫn


4

kinh tế dẫn đến mâu thuẫn chính trị. Trong các cuộc chiến tranh giữa hai
nước, hai lực lượng, hai chế độ dưới các hình thức khác nhau bao giờ cũng
bắt nguồn từ mâu thuẫn kinh tế dẫn đến mâu thuẫn chính trị, mâu thuẫn chính
trị phát triển cao, các hình thức giải quyết khơng cịn hiệu lực đó là lúc các
nhà nước, các lực lượng, các chế độ xã hội dùng đến sức mạnh bạo lực, dùng
đến quân đội để giải quyết mâu thuẫn, đè bẹp ý chí của đối phương. Đây là
hiện tượng phổ biến, mang tính quy luật, cho nên những người cách mạng
không được phép mơ hồ, ảo tưởng. Bởi vì, qn đội là cơng cụ bạo lực của
nhà nước, ra đời cùng với nhà nước, sức mạnh của nhà nước trước hết biểu
hiện ở sức mạnh quân đội, do đó quân đội bao giờ cũng là của một giai cấp,

một nhà nước nhất định, mang bản chất của giai cấp, một nhà nước nhất định,
mang bản chất của giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, ni dưỡng và lãnh đạo
nó. Qn đội của giai cấp thống trị mang bản chất của giai cấp thống trị.
Không có quân đội phi giai cấp, siêu giai cấp, quân đội của nhiều giai cấp,
qn đội đứng ngồi chính trị. Tức là quân đội của giai cấp nào thì mang bản
chất giai cấp ấy, quân đội của giai cấp tư sản mang bản chất của tư sản, còn
quân đội của giai cấp cơng nhân thì mang bản chất của giai cấp công nhân.
Để quân đội mang bản chất giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Bởi vì, Đảng Cộng sản là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của
giai cấp cơng nhân. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen trong xã hội giai cấp nào
nắm quyền thống trị xã hội đều phải tổ chức ra quân đội, quân đội là một hiện
tượng xã hội, một phạm trù lịch sử. Quân đội ra đời khi xã hội phân chia
thành giai cấp và xuất hiện giai cấp, chỉ khi nào xã hội khơng cịn giai cấp,
khơng cịn nhà nước thì quân đội cũng sẽ bị tiêu vong.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì bạo lực cách mạng là
hiện tượng phổ biến, là bà đỡ của mọi cuộc cách mạng. Trong “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản”, sau khi chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản


5

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Để thực hiện được sứ mệnh ấy, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh chặt chẽ với giai
cấp nông dân, dùng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp
tư sản, lập nên nhà nước chun chính vơ sản muốn vậy phải tổ chức và lãnh
đạo lực lượng vũ trang, dùng lực lượng đó làm công cụ bạo lực để bảo vệ
quyền thống trị của mình đối với xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen cơng khai
tuyên bố rằng: “giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật
đổ giai cấp tư sản bằng bạo lực”1 và “những người cộng sản không tự giấu
giếm ý kiến và dự định của mình, họ cơng khai tun bố rằng mục đích của

họ (tức giai cấp vơ sản) chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực cách
mạng, lật đổ toàn bộ trật tự của xã hội hiện có tức xã hội tư bản” 2. Hai ông
cho rằng, để củng cố, giữ vững địa vị thống trị của mình, tiến hành chiến
tranh xâm lược, giai cấp tư sản đã xây dựng một bộ máy khổng lồ bao gồm
quân đội, cảnh sát, nhà tù…, muốn đập tan bộ máy ấy, giai cấp cơng nhân
khơng có cách nào khác là phải dùng đến bạo lực cách mạng để chống bạo lực
phản cách mạng. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen trong khi nhấn mạnh vai
trò của bạo lực cách mạng cũng đề cập đến khả năng giành chính quyền bằng
phương pháp hồ bình, nhưng đây là một khả năng rất quý và hiếm, nó chỉ
xuất hiện khi có các điều kiện khác kèm theo. Để có bạo lực cách mạng, giai
cấp vơ sản tất yếu phải có lực lượng vũ trang, lãnh đạo lực lượng vũ trang đó
cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị và bảo vệ thành
quả cách mạng. Trong thư của Ban Chấp hành Trung ương gửi “Đồng minh
những người cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “công nhân cần
phải được vũ trang có tổ chức, cần phải trang bị súng trường, các bin, đại bác
và đạn dược” rằng “công nhân cần phải tổ chức lại thành những đội quân vô

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb sự thật, Hà nội, 1980, tr. 555
C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 4, Nxb sự thật, Hà nội, 1980, tr. 591


6

sản độc lập”3. Như vậy, quan điểm của các ông là trong cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản tất yếu phải được giải quyết bằng bạo
lực vũ trang.
Kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện

lịch sử mới, V.I.Lênin đã khẳng định: “bạo lực như C.Mác nói là bà đỡ cho
mọi xã hội đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà phong trào xã hội
dùng để mở đường cho mình và phá tan hình thức chính trị cứng đầu” và
“khơng có bạo lực thì giai cấp vơ sản không thể chiến thắng được” 4. Sau cách
mạng tháng Mười Nga, V.I.Lênin cho rằng: một cuộc cách mạng chỉ có giá trị
khi nó biết tự bảo vệ. Như vậy, V.I.Lênin khơng những khẳng định tính tất yếu
khách quan Đảng phải tổ chức ra quân đội mà cả khi giai cấp vơ sản đã giành
được chính quyền. Có thể nói, V.I.Lênin đã khẳng định và phát triển quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen một cách đầy đủ nguyên tắc Đảng lãnh đạo
quân đội. Tính tất yếu của việc xây dựng một tổ chức quân sự của giai cấp vô
sản, đồng thời xây dựng nên hệ thống các nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu
mới của giai cấp công nhân. Một trong những nguyên tắc cơ bản quyết định
nhất là Đảng Cộng sản phải lãnh đạo chặt chẽ quân đội. Đây là tiêu chí để
phân biệt quân đội kiểu cũ với quân đội kiểu mới, quân đội cách mạng với
quân đội phản cách mạng. V.I.Lênin cho rằng quân đội phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng trong mọi tình huống, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là
tất yếu khách quan, là quy luật nhằm làm cho Hồng quân tuyệt đối trung
thành với Đảng với giai cấp công nhân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân,
sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội ở các nước tư sản,
vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, kế thừa kinh nghiệm, truyền thống
đánh giặc mấy nghìn năm của dân tộc. Đảng ta, khi mới ra đời trong cương
3
4

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb sự thật, Hà nội, 1970, tr. 122
V.I.Lênin, Tồn tập, tập 4 Nxb tiến bơ,M 1980,tr357


7


lĩnh chính trị đã chỉ ra con đường đấu tranh vũ trang giành chính quyền.
Trong chánh cương sách lược vắn tắt của Đảng(2-1930), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề việc: “ tổ chức ra quân đội công nông” 5 và tiếp sau đó là Luận
cương chính trị của Đảng(10-1930) đã nêu vấn đề “vũ trang cho công nông”,
“lập quân đội công nông”, “tổ chức đội tự vệ công nông”. Tại Đại hội I của
Đảng năm 1935, Đảng đã ra Nghị quyết về tổ chức và lãnh đạo tự vệ thường
trực, Nghị quyết ghi rõ: công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy
thống nhất của Trung ương, quân uỷ Đảng Cộng sản…luôn luôn phải giữ
quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ. Đảng cho rằng, việc tổ
chức ra quân đội, tiến hành đấu tranh vũ trang là một tất yếu khách quan.
Thứ hai, xuất phát từ mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm tổ
chức thành lập quân đội ta. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội còn do
chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội đòi hỏi.
Ph.Ăngghen cho rằng: quân đội là một tổ chức xã hội có vũ trang nhằm thực
hiện mục tiêu chính trị của một giai cấp bằng thủ đoạn bạo lực. Đối với Quân
đội nhân dân Việt Nam, mục tiêu chiến đấu là mục tiêu lý tưởng của Đảng, đó
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong dự thảo báo cáo chính
trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ: “Kiên định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” 6.
Chức năng của quân đội ta ngay từ khi mới ra đời đã được Đảng, Bác chỉ ra:
quân đội không chỉ có chức năng chiến đấu mà cịn cả chức năng cơng tác,
trong đó, chức năng chiến đấu là cơ bản nhất. Hiện nay, trước yêu cầu mới rất
cơ bản về chức năng nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ đất nước hồ bình và
phát triển, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh xâm
lược bằng sức mạnh mới của chế độ xã hội chủ nghĩa, của toàn dân bảo vệ Tổ
5
6

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà nội 1987,tr295

Báo QĐND số 16158 ra ngày 19.04.2006 tr13


8

quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi loại hình chiến tranh xâm lược của mọi thế lực
thù địch; đồng thời phải làm tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao
động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế, giúp đỡ nhân dân xố đói giảm
nghèo, phịng chống thiên tai, xây dựng chính trị ở cơ sở nhất là ở biên giới, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, đồng bào có đạo góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Đồng thời, cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực chính trị tư tưởng hiện nay hết sức gay go phức tạp. cho nên vấn đề
cấp thiết đặt ra phải xây dựng quân đội về chính trị, Đại hội Đảng tồn quốc lần
thứ X chỉ rõ: “thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an
ninh”7. Có thể nói rằng: sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu là thuộc tính cố hữu
của quân đội, là chức năng nhiệm vụ chủ yếu, là mục tiêu cơ bản xuyên suốt
trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ X nêu rõ nhiệm vụ của quân đội thời gian tới là: “bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, văn hoá - tư tưởng và an ninh xã hội; duy trì trật tự,
kỷ cương, an tồn xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước,
ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ” 8. Ph.Ăngghen viết: qn đội là
một tập đồn người vũ trang có tổ chức do nhà nước xây dựng lên để thực hiện
nhiệm vụ đặc biệt. Muốn thực hiện được mục tiêu, hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ của mình, qn đội khơng thể không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, xuất phát từ bài học kinh nghiệm của cách mạng thế giới và
kinh nghiệm tổ chức lãnh đạo của Đảng ta mấy chục năm qua. Thực tiễn lịch

sử quân đội các nước xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX và gần đây đều cho
7
8

Báo QĐND số 16158 ra ngày 19.04.2006 tr6
Báo QĐND số 16158 ra ngày 19.04.2006 tr13


9

thấy: chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, quân đội mới giữ vững
được bản chất giai cấp công nhân; mới xác định rõ được mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; từ đó mà ln tuyệt
đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa,
không ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu của mình. Nhưng một khi Đảng
cộng sản có những sai lầm trong xác định đường lối cách mạng, đường lối
xây dựng qn đội, xem nhẹ vai trị của cơng tác đảng, cơng tác chính trị,
thiếu quan tâm củng cố sự lãnh đạo hoặc từ bỏ sự lãnh đạo của mình đối với
qn đội, thì qn đội nhanh chóng biến chất, mất phương hướng chiến đấu,
bị kẻ thù vô hiệu hố để khơng cịn là lực lượng chính trị trung thành, công cụ
bạo lực của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong bảo vệ thành quả của
cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa nữa. Sự biến chất của quân đội Xô
Viết và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong thập niên 90 của
thế kỷ XX đã chứng minh chân lý: Đảng Cộng sản cầm quyền không bao giờ
được buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với quân đội. Tức là bất cứ lực
lượng chính trị nào, giai cấp nào, ở một chế độ xã hội nào khi nắm giữ địa vị
thống trị xã hội thì cũng tìm cách nắm quân đội, nắm giữ quyền tổ chức, lãnh
đạo, chỉ huy quân đội; ngược lại, nếu một lực lượng chính trị nào, giai cấp
thống trị nào mà không nắm giữ quyền lãnh đạo, chỉ huy qn đội thì qn
đội đó sẽ biến chất, Đảng đó khó có thể tồn tại và giai cấp đó sẽ bị sụp

đổ.Thực tiễn ở Hunggari năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, Chilê năm 1973, sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô đã chứng minh được chân
lý là Đảng Cộng sản cầm quyền khơng bao giờ được bng lỏng sự lãnh đạo
của mình đối với qn đội. Ví dụ, nhìn vào lịch sử quân đội và Hải quân Xô
Viết khi nào Đảng quan tâm chăm lo thì quân đội vững mạnh được thể hiện
trong chiến tranh vệ quốc. Nhưng, cuối thế kỷ XX do mắc sai lầm nghiêm
trọng những vấn đề có tính chiến lược, cho nên Đảng Cộng sản Liên Xô để


10

bọn cơ hội xét lại thao túng, bỏ hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, bỏ việc
thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên, hạ thấp vai trị lãnh đạo trong quân
đội và hải quân Xô viết dẫn đến Đảng không lãnh đạo được quân đội, đến
năm 1991 khi tác chiến xảy ra, mặc dù quân đông, vũ khí hiện đại nhưng
quân đội mất sức chiến đấu, quay lưng lại với Đảng.
Đối với Đảng ta, quân đội được ra đời từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé, nơng dân là chủ yếu. Thành
phần tham gia quân đội đại đa số xuất thân là thanh niên nông dân sống ở
nông thôn, cho nên sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội quyết định bản
chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Quân đội ta
khi mới thành lập chỉ có 34 chiến sĩ với vũ khí thô sơ, đến nay phát triển đủ
các quân, binh chủng, thực tiễn trong quá trình lãnh đạo của mình, Đảng rất
quan tâm chăm lo xây dựng lượng vũ trang, xây dựng quân đội và giữ quyền
lãnh đạo chặt chẽ quân đội trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong những điều
kiện lịch sử nhất định, về sách lược, có thể có sự liên hiệp nhất định trong
mặt trận, trong chính quyền, nhưng quân đội là một lực lượng vũ trang của
Đảng, cơng cụ chủ yếu của nhà nước chun chính vơ sản thì nhất thiết
Đảng phải nắm lấy, phải lãnh đạo, khơng thể phân quyền lãnh đạo đó cho bất
cứ một giai cấp, một tổ chức, một đảng phái nào khác. Có như vậy, thì sự

lãnh đạo của Đảng đối với quân đội mới vững chắc và mới thích hợp với
tính chất, đặc điểm của quân đội. Chính nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt
chẽ quân đội mà Đảng đã phát huy được sức mạnh của quân đội, làm cho
quân đội luôn mang bản chất giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, không ngừng lớn mạnh, trưởng thành,
đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, hiện nay quân đội ta đang cùng
tồn Đảng, tồn dân tiếp tục cơng cuộc đổi mới,thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc


11

Việt Nam xã hội chủ nghĩa . Từ thực tiễn đó cho thấy Đảng ln chăm lo
xây dựng qn đội về mọi mặt. Hiện nay kẻ thù muốn tách dời, phủ nhận sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một tất yếu khách quan.
Thứ tư, xuất phát từ sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ những năm
tới đặt ra yêu cầu mới ngày càng cao đối với việc giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Nhằm
thực hiện tốt phương hướng xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao sức
mạnh tổng hợp, sức chiến đấu là đòi hỏi tất yếu khách quan. Đây là vấn đề
sống còn của quân đội ta, nó liên quan đến sự mất cịn của độc lập dân tộc và
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Báo cáo chính trị trình Đại hội X có viết:
“những năm tới, trên thế giới, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn
tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Tồn cầu hố kinh tế tạo ra cơ hội
nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức
cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Khoa học và cơng nghệ sẽ
có những bước đột phá mới. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung

đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra
ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp” 9. Vì vậy, phải: “xây dựng quân
đội thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, nhà nước và nhân dân được nhân dân tin cậy, yêu
mến”10.
9
9.

Báo QĐND số 16158 ra ngày 19.04.2006 tr5

10.

Q Báo ĐND số 16158 ra ngày 19.04.2006 tr13

10


12

Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra hết
sức phức tạp. Nước ta mở cửa hội nhập giao lưu quốc tế và phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý
nghĩa quan trọng. Song, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn,
thách thức mới, đó là, mặt trái của cơ chế thị trường đang hàng ngày, hàng
giờ tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ. Bên
cạnh đó là sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang ráo riết
chống phá chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới bằng chiến lược

“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng địi xố bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Địi “phi chính trị hố”
qn đội. Hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng, địi xố bỏ các tổ chức đảng
trong qn đội, địi xố bỏ sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, chúng coi Việt Nam là một trọng điểm. Một trong
những âm mưu cơ bản của “diễn biến hồ bình” là “phi chính trị hố” qn
đội, tách qn đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội phai
nhạt bản chất giai cấp công nhân, mất phương hướng chính trị, khơng cịn
là cơng cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng, nhà nước và của chế độ.
Chúng cho rằng nếu không làm cho quân đội suy yếu, dao động về tư
tưởng, mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ…thì khơng thể giành thắng lợi ở
Việt Nam bằng “diễn biến hồ bình”. Với những luận điệu, quân đội là của
dân tộc làm nhiệm vụ chống ngoại xâm chứ không phải để bảo vệ chế độ,
quân đội chỉ mang bản chất nhân dân chứ không mang bản chất giai cấp
công nhân, …thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của
Đảng, vơ hiệu hố quân đội, nhằm thực hiện âm mưu đen tối của các thế


13

lực thù địch. Một vấn đề nữa là, thời gian tới trên thế giới ít có chiến tranh
thế giới nổ ra song chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc,
tôn giáo, lật đổ xảy ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Do đó,
chúng ta phải chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch, đồng thời sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh hiện
đại có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao. Từ đó đặt ra vấn đề xây dựng quân
đội, muốn xây dựng quân đội thì phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội. Một điểm đáng chú ý, thời gian tới phần lớn cán bộ, chiến sĩ
sinh ra và lớn lên trong thời bình, dù được đào tạo cơ bản, nhưng ít kinh

nghiệm, chưa được rèn luyện, thử thách trong chiến tranh. Cho nên, việc
xây dựng quân đội và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để quân đội trung thành với Đảng,
nhà nước và nhân dân. Như vậy, từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên chúng ta
khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo quân đội
nhân dân Việt Nam là một tất yếu khách quan, do đòi hỏi của cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Lịch sử đã chứng minh bản chất chính trị
và sức mạnh chiến đấu của quân đội gắn liền với sự vững mạnh của Đảng,
người tổ chức và lãnh đạo nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân
đội ta có sức mạnh vơ địch, vì nó là qn đội nhân dân do Đảng ta xây
dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục” 11. Như vậy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt
Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng
không chia quyền lãnh đạo cho ai khác.
1.2. Nguyên tắc - cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với quân đội nhân dân Việt Nam. Để thực hiện sự lãnh đạo của mình đối
với quân đội, Đảng đã định ra nguyên tắc lãnh đạo đó là: Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt
11

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, H 2002, tr.350


14

Nam. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các nguyên tắc xây
dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong các giai đoạn khác
nhau, tên gọi của nguyên tắc có khác nhau, nhưng tư tưởng cơ bản, xuyên
suốt của nguyên tắc là: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất
lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam trên mọi phương diện. Nguyên tắc
này chi phối tồn bộ q trình xây dựng và hoạt động của quân đội, đồng

thời chi phối các nguyên tắc khác, nó quyết định phương hướng chính trị,
bản chất giai cấp, nội dung hoạt động, mục tiêu chiến đấu, đối tượng tác
chiến của quân đội. Nguyên tắc này nhằm xây dựng, giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị xã hội của quân đội,
bảo đảm cho Đảng nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt chẽ quân đội trong
mọi tình huống; bảo đảm cho quân đội mang bản chất cách mạng của giai
cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân,
thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân, có đủ sức mạnh để chiến đấu
và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội còn khẳng định quyền lãnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam là thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam. Quyền
lãnh đạo đó Đảng khơng chia sẻ cho bất cứ một đảng phái, một tổ chức,
một cá nhân nào. Đây là vấn đề có tính quy luật, là trách nhiệm chính trị
của Đảng trước giai cấp, trước dân tộc. Sự lãnh đạo đó là: Đảng Cộng sản
Việt Nam trực tiếp lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam không qua một
khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian nào. Tại sao lại như vậy? Bởi
vì, quân đội là công cụ bạo lực, một tổ chức vũ trang chiến đấu, tính chất
hoạt động khẩn trương, càng trong chiến tranh hiện đại có sử dụng cơng
nghệ cao thì u cầu cũng càng phải cao, do sự thành bại trong chiến đấu
phụ thuộc rất lớn vào yếu tố thời gian, vì thời gian là lực lượng, thời gian
đem lại sức mạnh, do đó, chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng


15

mới đáp ứng được yêu cầu trên. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng và tổ chức, các mặt cơng tác quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật,
trong mọi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng, lao động
sản xuất, làm nghĩa vụ quốc tế; lãnh đạo mọi tổ chức, mọi lực lượng, trong

mọi điều kiện hoàn cảnh. Bất kỳ ở đâu, lúc nào có tổ chức, hoạt động của
qn đội thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng trong
quân đội tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà thường
xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sự lãnh đạo đó được thể hiện
bằng cơ chế, tổ chức, bộ máy lãnh đạo đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương
đến cơ sở. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội
được thể hiện ở một số nội dung sau:
+ Đảng xác định đường lối, nhiệm vụ chính trị, quân sự, xây dựng
nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và chiến
tranh nhân dân; xác định nhiệm vụ, mục tiêu chiến đấu, đối tượng tác
chiến, đường lối, phương hướng xây dựng và hoạt động của quân đội.
+ Lãnh đạo, nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự
và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
+ Lãnh đạo nhà nước, hệ thống chính trị và nhân dân chăm lo xây
dựng quân đội, bảo đảm vũ khí trang bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, hậu cần, tổ
chức nuôi dưỡng bộ đội và thực hiện chính sách hậu phương quân đội.
+ Lãnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội.
+ Lãnh đạo tiến hành công tác Đảng, cơng tác chính trị trong qn
đội nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
qn đội, Đảng khơng ngừng hồn thiện cơ chế lãnh đạo sao cho phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Cơ chế lãnh đạo của


16

Đảng đối với quân đội là phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đối với quân đội trong những giai đoạn lịch sử nhất định,
phương thức đó được thể hiện bằng hệ thống các nguyên tắc lãnh đạo. Phù
hợp với nguyên tắc đó là hệ thống tổ chức hoàn chỉnh, hợp lý được tổ chức

từ cơ sở đến toàn quân, nhằm bảo đảm cho Đảng lãnh đạo chặt chẽ quân
đội, phát huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy, nâng cao chất lượng
lãnh đạo của tổ chức đảng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của
quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao
trong mọi tình huống. Nhằm đáp ứng u cầu đó, Bộ Chính trị ra quyết
định số 51/NQ - TW về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng,
thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ,
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Những nguyên tắc trong
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội bao gồm:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân
đội nhân dân Việt Nam .
2. Hệ thống tổ chức đảng trong quân đội được tổ chức từ Đảng uỷ
Quân sự Trung ương đến cơ sở, hoạt động theo cương lĩnh, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và pháp luật của nhà nước.
3. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng trong quân đội hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ
trách theo chức trách, nhiệm vụ.
4. Tổng cục chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong tồn qn, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp,
thường xuyên là của Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Ở mỗi cấp có chính uỷ
(hoặc chính trị viên) là người chủ trì về chính trị và cơ quan chính trị đảm
nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị của đơn vị, hoạt động dưới sự lãnh


17

đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, cơ quan chính trị, chính uỷ (chính trị
viên) cấp trên và sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ cùng cấp.
5.Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện, xuyên suốt

của tổ chức đảng, trong quân đội thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên.
Những nguyên tắc cơ bản trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội là một thể hoàn chỉnh, thống nhất biện chứng với nhau, khơng
tách rời nhau, nó tạo nên sức mạnh thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội, quá trình thực hiện các nguyên tắc cần phải nắm vững và giải
quyết tốt các mối quan hệ giữa các nguyên tắc đó, đồng thời biết vận dụng
linh hoạt sáng tạo vào từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi đơn vị,
tuyệt đối không được quá nhấn mạnh hoặc tách rời, đối lập, xem nhẹ bất kỳ
một nguyên tắc nào.
2. Một số giải pháp cơ bản giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết
Đảng bộ Quân đội lần thứ XIII và Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị
“Về việc tiếp tục hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một
người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam”. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội trong điều kiện hiện nay cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, xong
trước hết tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
2.1 Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường
lối quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đảng lãnh đạo quân đội
trước hết bằng đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền quốc phịng tồn
dân, chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Do vậy, để
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cần tiếp tục nghiên cứu tổng


18

kết thực tiễn, bổ sung phát triển, cụ thể hoá đường lối quân sự cho phù hợp với
yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Đường

lối quân sự của Đảng trong giai đoạn hiện nay phải nhằm tăng cường tiềm lực
quốc phòng của đất nước, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân vững chắc,
gắn quốc phòng, an ninh với đối ngoại. Quán triệt phương hướng xây dựng
quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất
lượng tổng hợp của quân đội, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, làm cho quân
đội có đủ sức mạnh đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững hoà bình, ổn
định tạo điều kiện cho phát triển nền kinh tế đất nước, sẵn sàng đập tan mọi
hành động xâm lược của kẻ thù trong bất kỳ tình huống nào.
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, chứa đựng những yếu tố khó lường. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc diễn ra gay go quyết liệt, trật tự thế giới bị đảo lộn, cục diện chính
trị thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch. Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu
quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ ra sức lợi
dụng tình hình trên nhanh chóng ứng dụng các thành tựu khoa học cơng nghệ
vào trong lĩnh vực quốc phòng, phát triển mạnh các loại vũ khí cơng nghệ cao,
chúng ngang nhiên tiến hành chiến tranh xâm lược các nước độc lập có chủ
quyền. Như các cuộc chiến tranh ở Nam Tư, Vùng Vịnh, Apganistan, I-Rắc…
Phần lớn các loại vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự của Mỹ sử dụng
trong chiến tranh Việt Nam trước đây đã được đổi mới, hiện đại hố và thay thế
bằng một thế hệ vũ khí mới - vũ khí cơng nghệ cao. Sự phát triển của vũ khí
cơng nghệ cao kéo theo sự thay đổi nghệ thuật quân sự, thủ đoạn chiến tranh,
phương thức tác chiến…Điều đó, đặt ra cho Đảng ta phải quan tâm lãnh đạo


19

xây dựng quân đội, đẩy mạnh tổng kết chiến tranh, nghiên cứu, phát triển khoa

học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xuất phát từ kinh nghiệm đánh
giặc của cha ơng ta đúc rút từ mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước,
đã được kế thừa, vận dụng, phát triển rực rỡ trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta đánh đổ hai đế
quốc lớn là Pháp và Mỹ, đó là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có
sự đóng góp khơng nhỏ của nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tuy
nhiên, khi kẻ thù đã thay đổi phần lớn các loại vũ khí, thủ đoạn tiến hành chiến
tranh, phương thức tác chiến đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, phát triển khoa
học nghệ thuật quân sự Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của cuộc chiến
tranh bằng vũ khí cơng nghệ cao. Mặt khác, cùng với nghiên cứu phát triển
khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, Đảng cũng lãnh đạo nhà nước có kế
hoạch phát triển cơng nghiệp quốc phòng, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phịng. Tích cực sửa chữa, cải tiến, nâng cấp, trang bị thêm các loại vũ khí, khí
tài, phương tiện kỹ thuật. Mặc dù, nền kinh tế nước ta ổn định đang trên đà
phát triển, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, song nhà nước cân đối ngân sách,
cần thiết phải đầu tư cho việc mua sắm một số loại vũ khí hiện đại thuộc thế hệ
mới để trang bị cho quân đội, tạo mũi nhọn để mở rộng phát triển tiềm lực quân
sự khi cần thiết hoặc có điều kiện, đây là yêu cầu bức thiết cho xây dựng quân
đội ta hiện nay.
2.2 Lãnh đạo phát huy vai trò của nhà nước, của hệ thống chính trị và
của tồn dân vào chăm lo xây dựng quân đội. Quân đội là công cụ bạo lực của
Đảng và Nhà nước, là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc, mặc dù quân đội không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội,
nhưng sự vững mạnh của quân đội có tác dụng răn đe kẻ thù, ngăn ngừa chiến
tranh, tạo mơi trường hồ bình, ổn định cho sự phát triển của các ngành, các
thành phần kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng cần tăng cường


20


lãng đạo phát huy vai trò trách nhiệm của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị,
của các ngành, các cấp các địa phương, các thành phần kinh tế cùng chăm lo
xây dựng quân đội. Huy động mọi nguồn lực vật chất và tinh thần cho quân
đội, cung cấp những con người có trí thức, có sức khoẻ, được giáo dục tốt, có
đủ phẩm chất cần thiết cho hoạt động quân sự. Làm tốt chính sách thương binh,
liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội, quan tâm đến đời sống, việc làm của
những quân nhân hết nghĩa vụ quân sự… Tạo sự thống nhất trong nhận thức và
hành động của các cấp, các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế về
trách nhiệm xây dựng quân đội. Khắc phục quan niệm cho rằng quân đội là
gánh nặng của nhà nước, quân đội chỉ cần chiến tranh, ngày nay trong thời bình
phải bớt ngân sách quốc phịng…Từ đó thiếu quan tâm đến xây dựng quân đội.
2.3 Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội. Để bảo đảm lãnh đạo chặt chẽ quân đội Đảng định ra cơ chế lãnh đạo, nắm
vững và thực hiện đúng cơ chế, khơng ngừng hồn thiện cơ chế, làm cho cơ
chế ln ln phù hợp với tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động
của quân đội trong từng giai đoạn cách mạng là vấn đề quan trọng nhất để tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cơ chế hiện nay đã phát huy tác
dụng tích cực trên thực tế, nhưng vẫn cịn những vấn đề bất cập. Cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với qn đội khơng phải là một cái gì bất biến. Một cơ chế
phát huy tác dụng tốt phải là một cơ chế luôn vận động phát triển cho phù hợp
với sự phát triển của nhiệm vụ cách mạng, phù hợp với nhiệm vụ, tổ chức và
hoạt động của quân đội trong từng giai đoạn. Cho nên, nghiên cứu đổi mới,
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một việc khó, cần phải
có thời gian, khơng thể nóng vội. Hướng đổi mới, hồn thiện cơ chế lãnh đạo
của Đảng phải nhằm vào việc phát huy cao độ vai trò của các tổ chức đảng,
người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị. Giải quyết tốt mối
quan hệ của các thành phần trong cơ chế, nhất là quan hệ giữa tập thể cấp uỷ,


21


thường vụ với người chỉ huy, giữa người chỉ huy với chính uỷ, chính trị viên.
khắc phục cho được những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, mất đoàn kết nội bộ.
2.4 Xây dựng Đảng bộ quân đội trong sạch vững mạnh, có năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu cao; nâng cao chất lượng hoạt động cơng tác đảng,
cơng tác chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một
vấn đề hết sức quan trọng, do đó phải chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội
vững mạnh, chăm lo nâng cao chất lượng hoạt động cơng tác đảng, cơng tác
chính trị. Vì Đảng lãnh đạo thơng qua hệ thống tổ chức đảng và thông qua đội
ngũ đảng viên trong quân đội, thơng qua việc tiến hành cơng tác đảng, cơng tác
chính trị trong quân đội. Kẻ thù xác định muốn “phi chính trị hố” qn đội,
tách qn đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng trước hết phải làm suy yếu Đảng bộ
Quân đội. Tuy nhiên chúng có thực hiện được ý đồ đó hay khơng lại do chúng
ta. Từ trước đến nay, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội vững
mạnh, đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho quân đội có đủ
sức mạnh chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, đây chính là bài học
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn lãnh đạo quân đội của Đảng. Điều đó chứng
minh, ở đâu, khi nào, tổ chức đảng khơng mạnh thì ở đó đơn vị hồn thành
nhiệm vụ thấp, thậm trí có khi khơng hồn thành nhiệm vụ.
Bản chất cơng tác đảng, cơng tác chính trị là hoạt động lãnh đạo, tiến
hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị mục đích nhằm giữ vững, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, muốn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội không thể không nâng cao chất lượng hoạt động cơng tác
đảng, cơng tác chính trị. Để thực hiện được mục đích và nội dung lãnh đạo của
mình, trước hết, Đảng phải đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư
tưởng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm
cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân,



22

kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hố” qn
đội của kẻ thù. Hơn lúc nào hết quân đội phải thực sự trở thành pháo đài kiên
cố trong cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực chính trị tư tưởng bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng.
Cho nên, Đảng phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ qn đội có bản lĩnh chính trị
vững vàng, khơng được giao động trong bất kỳ điều kiện hồn cảnh nào, làm
cho quân đội thực sự là lực lượng tin cậy về chính trị.
Sắp xếp, kiện tồn các tổ chức cho phù hợp với thế trận quốc phịng tồn
dân trong điều kiện mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp
uỷ, tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm cho các tổ chức đảng
quán triệt sâu sắc đường lối, nghị quyết của đảng, vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của đơn vị. Kịp thời đề ra chủ trương biện pháp lãnh đạo sát đúng,
phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đơn vị. Đổi mới quy trình ra nghị quyết và
thực hiện nghị quyết, bảo đảm nghị quyết ngắn gọn, rễ hiểu, rễ nhớ, rễ thực
hiện. Thực hiện tốt các nguyên tắc, nề nếp chế độ sinh hoạt đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 6(lần 2) khoá VIII. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng tổ
chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện.
Đẩy mạnh cơng tác phát triển đảng, nâng cao tỷ lệ lãnh đạo chi bộ đại đội, nhất
là chi bộ đại đội bộ binh có cấp uỷ. Nâng tỷ lệ tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh, có biện pháp khắc phục làm giảm tỷ lệ tổ chức đảng yếu kém, nhất là
các tổ chức đảng yếu kém kéo dài.
Tập trung sức nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết là nâng
cao vai trò tiên phong gương mẫu, nói đi đơi với làm. Làm tốt công tác quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên, khắc phục cho được sự suy thoái về tư tưởng



23

chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ
cán bộ có đủ đức, đủ tài, đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, nhất
là cán bộ chủ chốt. Làm tốt công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, kiên quyết sử lý
những cán bộ đảng viên vi phạm kỷ luật, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những đảng
viên thối hố biến chất, khơng đủ tư cách đảng viên. Bảo đảm cho tổ chức
đảng luôn trong sạch, xứng đảng là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết trong
đơn vị. Xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt động đúng chức
năng, đẩy mạnh công tác thi đua, xây dựng mơi trường văn hố, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền đồn thể
và nhân dân địa phương xây dựng địa bàn an tồn, giữ vững an ninh chính trị
và địa bàn nơi đóng quân.
2.5 Quan tâm xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị.
Cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị là những người đảm nhiệm
cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở đơn vị. Chất lượng chính trị của quân đội,
của đơn vị phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của cơ
quan chính trị, cán bộ chính trị. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ, người chỉ huy các cấp có đến được với
mọi cán bộ, chiến sĩ hay khơng, có biến thành hành động của cán bộ, chiến sĩ
hay khơng phần lớn là do cơ quan chính trị và cán bộ chính trị. Bởi vì, đây là
những cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động trong lĩnh vực quân sự, những
người đem tiếng nói của Đảng đến với quần chúng, đồng thời phản ánh cho
Đảng để Đảng nắm được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng để đề
ra chủ trương, chính sách cho phù hợp. Cơ quan chính trị, cán bộ chính trị là
cầu nối liền Đảng với quần chúng, là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận
chính trị tư tưởng đấu tranh chống “diễn biến hồ bình” của kẻ thù, chống
những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, biểu hiện tiêu cực phát sinh trong
nội bộ, bảo vệ cái đúng, lên án sai. Vì vậy, khơng ngừng xây dựng cơ quan



24

chính trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu của hoạt đơng cơng
tác đảng, cơng tác chính trị là biện pháp quan trọng nhằm giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Để xây dựng cơ quan chính trị
vững mạnh, trước hết phải củng cố, kiện toàn đủ về số lượng, bảo đảm chất
lượng. Lựa chọn người đứng đầu cơ quan có đủ đức và tài, các tiêu chuẩn cần
thiết, coi trọng bản lĩnh chính trị, lòng trung thành phải thực sự là người gương
mẫu có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sáng, có nhãn quan chính trị nhạy
cảm, sắc xảo, linh hoạt sử lý các tình huống. Lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ trợ
lý, nhân viên cơ quan chính trị có trình độ chun mơn cao, nhiệt tình, trung
thực đáp ứng u cầu của từng ngành theo phương châm giỏi một việc, biết
nhiều việc, khi cần có thể kiêm nhiệm hoặc thay thế lẫn nhau. Phối hợp chặt
chẽ hoạt động của các ngành trong cơ quan chính trị và hoạt động của cơ quan
chính trị với các cơ quan, đơn vị khác.
Thực hiện tốt các chế độ công tác của cơ quan chính trị, thường xun
làm tốt cơng tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ
chính trị, kết hợp việc đào tạo tại trường với bồi dưỡng, rèn luyện tại chức và đi
thực tế ở các đơn vị cơ sở trong tồn qn. Bên cạnh đó, cấp trên bồi dưỡng,
hướng dẫn cấp dưới, cấp dưới học tập cấp trên. Gắn lý luận với thực tiễn, coi
trọng bồi dưỡng, rèn luyện năng lực thực hành cho đội ngũ cán bộ chính trị các
cấp, nhất là ở cơ sở. Đồng thời làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, đánh
giá, sử dụng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Tóm lại: Quân đội bao giờ cũng là sản phẩm của xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Nó ln mang bản chất của nhà nước và giai cấp đã tổ
chức ra. Khơng có và khơng thể có qn đội phi giai cấp, hoặc đứng ngồi
chính trị. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể lãnh đạo Quân đội

nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối


25

với quân đội là để nhằm quân đội ta luôn qn triệt sâu sắc bản chất giai cấp
cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; đủ sức mạnh hoàn thành
thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Đây là
một vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng qn đội cách mạng. Điều đó,
đã được thực tiễn chứng minh hơn 60 năm qua. Cho nên, sự khẳng định Đảng
Cộng sản Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam là tất
yếu khách quan, là một quy luật trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách
mạng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Để giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
cần có sự nỗ lực cao của tất cả các cấp, các ngành, cả cấp vĩ mơ lẫn vi mơ
trong việc tìm kiếm các giải pháp khả thi. Các giải pháp về xây dựng Đảng
nói chung, xây dựng Đảng bộ Quân đội nói riêng vững mạnh, gắn với hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực công tác đảng, cơng tác
chính trị là những nhóm giải pháp rất cơ bản. Chúng phải được tiến hành
đồng bộ với nhiều nội dung lồng ghép, đan xen nhau tạo nên hợp lực đảm bảo
cho Đảng luôn nắm chắc quân đội và quân đội luôn trung thành tuyệt đối với
Đảng, đủ sức mạnh hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


×