Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thơ tình lò ngân sủn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.05 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HOÀNG GIANG

THƠ TÌNH LỊ NGÂN SỦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Ngun – 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HOÀNG GIANG

THƠ TÌNH LỊ NGÂN SỦN
Chun ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung

Thái Nguyên – 2019



i

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn
đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 11 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Giang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thơng và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã
trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS.TS.Trần Thị Việt Trung đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Giang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

- Dân tộc thiểu số

: DTTS

- Văn học nghệ thuật

: VHNT

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................... 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 7
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 8
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 8
7. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 9
NỘI DUNG ......................................................................................................... 10
Chương 1: VÀI NÉT VỀ THƠ TÌNH YÊU DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ TÌNH DÂN TỘC GIÁY – LỊ NGÂN SỦN 10
1.1.Vài nét khái quát về thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình u dân tộc
thiểu số nói riêng. ................................................................................................ 10
1.1.1.Văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại ................................................... 10
1.1.2.Thơ ca dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình u DTTS nói riêng .......... 12
1.2. Nhà thơ tình dân tộc Giáy - Lị Ngân Sủn ................................................... 15
1.2.1.Những nét đặc sắc của văn hóa Giáy ......................................................... 15
1.2.2. Văn học dân gian dân tộc Giáy ................................................................. 19
1.2.3.Cuộc đời, con người và quá trình sáng tác của nhà thơ Lò Ngân Sủn ...... 22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...................................................................................... 29
Chương 2: NỒNG ĐỘ VÀ SẮC THÁI TÌNH YÊU TRONG THƠ LỊ NGÂN
SỦN ..................................................................................................................... 30
2.1. Một tình u mộc mạc, hồn hiên, trong sáng của “Người đàn ông đá núi” ............. 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





v
2.2. Một tình u nóng bỏng, đắm say, cuồng nhiệt ........................................... 36
2.3. Một tình yêu nhuốm màu bản năng nhưng “cường tráng” và lành mạnh,
mang giá trị nhân văn sâu sắc. ............................................................................ 46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................................................... 52
Chương 3: NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT THƠ TÌNH U CỦA
LỊ NGÂN SỦN .................................................................................................. 53
3.1. Ngơn ngữ thơ rất giàu hình ảnh và mang tính biểu cảm cao. ...................... 53
3.2. Một thứ thơ tình giàu tính nhạc.................................................................... 69
3.3. “Thực phẩm hóa tình u” - một phương thức nghệ thuật đặc sắc trong
thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn: ........................................................................... 76
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3...................................................................................... 85
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với các nhà thơ dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam hiện đại:
Nông Quốc Chấn, Mã A Lềnh, Pờ Sảo Mìn, Y Phương… Lò Ngân Sủn là
một trong số những cây bút thơ tiêu biểu. Ơng được sinh ra và lớn lên tại
thơn Bản Vền, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Thiên nhiên núi
rừng tươi đẹp hùng vĩ, con người chất phác, thật thà nhưng cũng rất lãng
mạn, mạnh mẽ cùng với nguồn cội văn hóa truyền thống dân tộc Giáy phong

phú đã hun đúc nên một tâm hồn thơ, một trái tim sơi nổi, nhiệt tình, một
con người u hết mình, dâng hiến hết mình, cháy hết mình trong tình u –
đó là nhà thơ dân tộc Giáy Lị Ngân Sủn. Là tác giả của 22 tập thơ, phần lớn
là thơ tình u – Lị Ngân Sủn xứng đáng là một nhà thơ tình tiêu biểu của
thơ ca DTTS Việt Nam hiện đại.
Với cuộc đời cầm bút gần 50 năm, nhà thơ Lò Ngân Sủn đã để lại sự
nghiệp thơ ca đáng nể: 22 tập thơ (trong đó có nhiều bài thơ đã được phổ nhạc
như: “Chiều biên giới” (Phổ nhạc: Trần Trung), “Chiều Lào Cai” (Phổ nhạc:
Trương Ngọc Ninh), “Những người con của núi” (Phổ nhạc: Ngọc Quang),
“Tình ca lều nương” (Phổ nhạc: Phạm Tịnh), “Phiên chợ Sa Pa” (Phổ nhạc:
Hà Té), “Người đẹp” (Phổ nhạc: Ma Quang Hạ))… Thơ Lò Ngân Sủn đậm
bản sắc dân tộc và miền núi, nhưng cũng luôn được tác giả đổi mới và sáng
tạo trong cách viết, do đó được nhiều người quan tâm, yêu quý, trân trọng.
Thơ của ông đặc sắc và giàu tính sáng tạo nên được nhận khá nhiều giải
thưởng của Trung ương và địa phương như: Giải A (1993) cho tập thơ Đám
cưới; Giải B cho tập thơ Dịng sơng mây (1995) của Uỷ ban tồn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; Giải B của Hội Văn học Nghệ
Thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam trao tặng cho tập thơ Những người con
của núi… cùng nhiều giải thưởng khác. Tuy là một nhà thơ sáng tác nhiều và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




2

có thành tựu trong nhiều lĩnh vực như: thơ, tiểu luận, phê bình văn học…,
nhưng tác giả Lị Ngân Sủn cũng chưa thực sự được nghiên cứu xứng với
những đóng góp của ơng. Chúng tơi đã tiến hành khảo sát và thấy rằng mới
chỉ có một số bài viết, nghiên cứu, giới thiệu về thơ Lò Ngân Sủn của một số

nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình về văn học DTTS như: Trần Mạnh Hảo,
Vũ Quần Phương, Irasara, Bùi Tuyết Mai, Lê Thiếu Nhơn, Trần Thị Việt
Trung, Cao Thị Hảo... Gần đây có một số luận văn nghiên cứu về thơ Lò
Ngân Sủn (cùng với các nhà thơ khác như: Pờ Sảo Mìn, Y Phương…): “Bản
sắc dân tộc Giáy và Pa Dí trong thơ Lị Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn” của
Nguyễn Phương Ly, “Thơ Lị Ngân Sủn” của Phạm Thị Cẩm Anh. Nhưng
những nghiên cứu, bài viết, các luận văn này hoặc là đi nghiên cứu một cách
khái quát về thơ Lò Ngân Sủn; hoặc là khái quát chung những nét nổi bật về
bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ông; hoặc là bàn về cái hay cái đẹp ở một
số bài thơ tiêu biểu, còn riêng về mảng thơ tình u thì chưa có một nghiên
cứu nào đi sâu một cách có hệ thống và tồn diện trong tồn bộ thơ ca của
ơng, chính vì vậy chúng tơi đã lựa chọn đề tài: “Thơ tình u Lị Ngân
Sủn” để nghiên cứu và tìm hiểu. Từ đó giúp người đọc có cái nhìn rõ nét
hơn về nét đặc sắc, riêng biệt cùng những đóng góp đáng ghi nhận ở mảng
thơ hay nhất của một nhà thơ đã có nhiều đóng góp cho văn học thiểu số
miền núi Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Xét trong toàn bộ sự nghiệp cầm bút của Lị Ngân Sủn thì khơng phải
ngay từ đầu ông đã đến với việc sáng tác thi ca, có thời gian ơng từng đứng
trên bục giảng với tư cách người đi gieo hạt giống tri thức cho miền núi. Thế
nhưng cái duyên với văn chương, cùng sự đam mê, học hỏi một cách nghiêm
túc đã dẫn lối ông đến với nàng thơ như một mối lương duyên. Từ bài thơ
được cho là đầu tay khi Lò Ngân Sủn bắt đầu đến với thi ca đó là “Hoa má

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




3


po” (1965), cho đến khi “trở về với núi”, ông đã say mê sáng tạo và sống hết
mình với thơ ca - giống như con ong cần mẫn,ông đã dâng hiến bao mật ngọt
cho đời và đã trở thành nhà thơ DTTS tiêu biểu, xuất sắc với bao tập thơ tình
làm lay động lịng người. Điều đáng trân trọng ở ông là sự nghiêm túc trong
nghề cầm bút, ông luôn trăn trở với việc “thơ hay và thơ không hay”, ông
từng viết: “Thơ hay là thơ thuộc về chân lý, lẽ phải, thuộc về trái tim nhân
loại, và sẽ tồn tại mãi mãi cùng với thời gian, cùng với sự sống của con
người” [32, tr.11]. Đúng vậy, nếu thơ chỉ thiên về cảm xúc chủ quan của
người làm thơ mà khơng đi từ chân lí, lẽ phải, khơng thuộc về trái tim nhân
loại thì sẽ khơng có đất cho thơ, nhà thơ cũng khơng có chỗ đứng trong lịng
bạn đọc. Chính từ tâm niệm đó mà nhà thơ Lị Ngân Sủn đã cho ra đời những
tập thơ đặc sắc, mang dấu ấn riêng, đặc biệt là mảng thơ tình yêu của ơng.
Chính vì vậy, thơ của ơng nói chung, thơ tình u của ơng nói riêng đã thu hút
được khá nhiều người u thích, say mê, tìm đọc, và đã giới thiệu phê bình
cho nhiều người cùng biết, thưởng thức.
Thơ Lị Ngân Sủn hướng đến nhiều đề tài, và ơng đã dành nhiều cảm xúc
viết về mảnh đất và con người miền núi. Thơ ông thể hiện một cách mộc mạc,
chân thành, rất đỗi hồn nhiên, tự nhiên về cuộc sống, về thiên nhiên, về những
nét phong tục tập quán mang bản sắc của các tộc người miền núi. Đánh giá
chung về thơ Lò Ngân Sủn trong bài viết “Thơ với tuổi thơ”, nhà thơ Vũ
Quần Phương đã viết: “Thơ Lị Ngân Sủn trước sau ln giữ được bản sắc
của thơ miền núi, trong cả nội dung đến hình thức biểu hiện. Cảnh, tình,
nguyện vọng, cách bình giá cuộc đời…đều là việc thời sự của đồng bào các
dân tộc trên vùng cao phía bắc đất nước” [26, tr.435]. Trong bài viết “Khi kẽ
tay người nở hoa”, nhà thơ, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo cũng có bình giá
xác đáng về bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ Lị Ngân Sủn: “Ơng cịn là nhà
thơ của thiên nhiên, của núi đồi, của tiếng kèn pí lè dân tộc Dáy, của những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN





4

cuộc vui bất tận quanh chảo thắng cố, phiên chợ người H.Mơng với xịe ơ và
bát rượu ngơ say khướt…” [26, tr.419]. Nhà thơ Lò Ngân Sủn sử dụng vốn
hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc một cách rất hiệu quả, và chính những
nét đẹp về văn hóa dân tộc đã làm nên giọng điệu, phong cách riêng trong thơ
ông. Lê Thiếu Nhơn đã dành cho nhà thơ nhận xét chí lí: “Tài thơ Lị Ngân
Sủn được chưng cất từ hồn vía Tây Bắc, khiến tơi ngờ rằng có nhiều câu thơ
ơng viết về cái nơi văn hóa của mình có thể trở thành đặc sản. Đã có khơng ít
nhà thơ đã đến Mèo Vạc, Hà Giang và viết về phiên chợ Khâu Vai, nhưng khó
ai so được với Lị Ngân Sủn sự ví von “như cái chảo thắng cố, nóng lên bao
mối tình dang dở” [26, tr 459].
Vượt ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của vùng văn hóa dân tộc mình (dân
tộc Giáy), Lị Ngân Sủn cịn có những cảm nhận những nét đẹp đặc trưng về
văn hóa của các dân tộc anh em, vì thế “cái tình” của ơng khơng bị đóng
khung vào các giá trị hạn hẹp của cái nơi văn hóa làng, bản, q hương mình.
Ơng đem cái “tình” của mình đến với mọi người, với muôn nơi, đến muôn
đời. Họa sĩ Đỗ Đức viết: “Cái tình khơng bờ bến của Lị Ngân Sủn dẫn dắt
thơ anh đến mọi nẻo đường. Cái tình nhuốm màu hoang dã kết hợp với lối
viết chắt lọc như ca dao, tục ngữ, rất nặng về tiết tấu như nhịp của móng
ngựa gõ trên đường mịn để cho thơ anh chỉ thuận để đọc mà khó để ngâm;
tạo ra chất thơ hiện đại, giản dị, trong sáng mà rất dân tộc” [26, tr.445]. “Cái
tình khơng bờ bến” ấy đã làm nên “lều thơ tình” đặc sắc mang dấu ấn riêng
của Lị Ngân Sủn. Thơ tình u của ơng tự nhiên, chân thật, sôi nổi, mãnh liệt,
hấp dẫn người đọc bởi lối tư duy rất đỗi hồn nhiên và mang đậm tính bản
năng của người miền núi. TS.Lê Thị Bích Hồng trong bài viết “Bản sắc văn

hóa dân tộc trong thơ Lị Ngân Sủn” nhận xét: “Thơ tình u của ông
thường có cái hoang sơ, trụi trần giữa thiên nhiên phóng khống, có sự thành
thật đắm say đến tận cùng và có lời tự bạch chân thành”. Tình u trong thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




5

Lò Ngân Sủn còn mang đậm sắc thái dân tộc vùng cao, giàu yếu tố phồn thực,
tác giả Mai Liễu nhận định: “Thơ Lò Ngân Sủn cũng chứa đựng những yếu tố
phồn thực, nhất là những bài thơ nói về tình u nam nữ. Đó là một thái độ
vui sống chân thành, si mê, hồn nhiên, táo bạo, bất ngờ, hoang dã và đầy ám
ảnh” [26, tr.484].
Trong cuốn “Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đời và văn” (Tập I –
Nxb Văn hóa dân tộc – 2003) của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam có giới thiệu những nét khái quát về nhà thơ Lị Ngân Sủn, về q
trình cơng tác và hoạt động văn học nghệ thuật của ơng, trong đó có bài viết
“Khi kẽ tay người nở hoa” cuả Trần Mạnh Hảo, tác giả bài viết đã phân tích,
bình giá rất sâu sắc về bài thơ “Người đẹp”, “Nàng” cả về nội dung và cấu
tứ: “Có lẽ, trong thi ca, sở trường của Lị Ngân Sủn là thơ tình, thường là
những bài thơ ngắn có tứ lại khá hiện đại trong lối viết không câu nệ vào vần
vèo, bằng trắc” [26,tr.418];

PGS.TS Trần Thị Việt Trung trong cuốn

“Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số” đã có một bài viết rất
sâu sắc về thơ tình u của Lị Ngân Sủn và đưa ra những nhận định rất tinh

tế, chính xác về cái đặc sắc trong “Bữa tiệc tình yêu” của ông: “Là tác giả
của 22 tập thơ, trong đó phần lớn là thơ tình yêu, một thứ tình yêu cuồng
nhiệt, say đắm, cháy bỏng, đầy bản năng của một người đàn ơng miền núi
đích thực – thơ tình Lị Ngân Sủn đã khiến cho người đọc phải ngạc nhiên,
thích thú và dần bị chinh phục, bị cuốn theo dòng cảm xúc mãnh liệt như thác
lũ của nhà thơ DTTS tài hoa, lãng mạn và cháy hết mình trong tình yêu” [47,
tr.288]. Ở trong cuốn “Tuyển tập thơ Lò Ngân Sủn” (Nxb Văn học), họa sĩ
Đỗ Đức viết bài “Thơ tình của Lò Ngân Sủn”; nhà thơ, nhà báo Lê Thiếu
Nhơn viết “Lị Ngân Sủn chắt chiu những bữa tình u” đều chỉ ra cái đẹp,
cái hay trong thơ tình yêu của Lị Ngân Sủn... Bên cạnh đó, cũng đã có một số
luận văn tốt nghiệp đại học và sau đại học nghiên cứu về thơ Lị Ngân Sủn (ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6

các góc độ khác nhau và nghiên cứu tổng quát về Bản sắc dân tộc trong thơ
Lị Ngân Sủn). Ví dụ như: “Bản sắc dân tộc Giáy và Pa Dí trong thơ Lị Ngân
Sủn và Pờ Sảo Mìn” của Nguyễn Phương Ly, tác giả chủ yếu đi vào nghiên
cứu ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình trong thơ Lị Ngân Sủn và của Pờ Sảo
Mìn, và cũng đã khai thác vẻ đẹp của ngơn ngữ tạo hình thơng qua việc khắc
họa hình ảnh con người miền núi, đặc biệt là người phụ nữ - đối tượng u
trong thơ tình lị Ngân Sủn; “Thơ Lò Ngân Sủn” của Phạm Thị Cẩm Anh tác
giả đã đi vào nghiên cứu cảm hứng chủ đạo, biểu tượng, ngơn ngữ và thể thơ
trong thơ Lị Ngân Sủn, trong đó có nói đến cảm hứng nồng nàn, say đắm đầy
chất phồn thực trong tình u đơi lứa và ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi
trong thơ tình u của ơng.

Nhưng nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết về thơ Lò Ngân
Sủn mặc dù là những phát hiện rất chính xác, thú vị, tuy nhiên cho đến nay,vẫn
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tổng qt và tồn diện về thơ tình
u của Lò Ngân Sủn – mảng thơ đặc sắc và thành cơng nhất của ơng. Chính vì
vậy chúng tơi quyết định lựa chọn đề tài này để nghiên cứu cụ thể hơn, sâu sắc
và hệ thống hơn về mảng thơ hay nhất của nhà thơ dân tộc Giáy này, hy vọng
luận văn sẽ đóng góp thêm tiếng nói về thơ tình – thơ đặc sản trong thơ ơng,
khẳng định những nét đặc sắc, những sáng tạo riêng trong thơ của ông, đồng
thời cũng là nét đặc sắc của thơ ca DTTS hiện đại nói chung.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Toàn bộ các tập thơ của Lò
Ngân Sủn, đặc biệt là đi vào nghiên cứu sâu, kĩ về thơ tình u của ơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




7

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Chỉ ra những nét đặc sắc, hấp dẫn đậm mầu sắc dân tộc và miền núi,
những giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong thơ tình u cùa Lị Ngân Sủn
ở cả trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Nghiên cứu khái quát về thơ tình yêu DTTS Việt Nam hiện đại và nhà
thơ tình dân tộc Giáy – Lị Ngân Sủn
- Nghiên cứu, làm rõ một số đặc điểm nổi bật, những nét đặc sắc,
riêng biệt trong thơ tình của Lò Ngân Sủn ở cả hai phương diện: nội dung
và nghệ thuật
- Khẳng định những nét riêng, những sáng tạo độc đáo, đậm bản sắc văn
hóa tộc người (Giáy) trong thơ tình u Lị Ngân Sủn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại thơ trữ tình (phân tích các
tác phẩm thơ, phân tích hình tượng thơ…)
- Phương pháp hệ thống, thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu (so sánh với thơ tình yêu của các nhà
thơ DTTS khác…).
- Phương pháp nghiên cứu liên nghành (văn học với văn hóa học, dân tộc
học, nhân học…).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




8

- Vận dụng một số thao tác của phương pháp nghiên cứu Thi pháp
học (Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ, giọng điệu…trong thơ trữ tình Lị
Ngân Sủn).
5. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về thơ tình u của Lị Ngân Sủn, chủ yếu qua các tập
thơ tình tiêu biểu của ơng:
- Tập thơ Chợ tình – Nxb văn hóa dân tộc (1995)
- Tập thơ Lều Nương – Nxb Văn hóa dân tộc (1996)
- Tập thơ Người đẹp – Nxb Văn hóa dân tộc (1999)
- Tập thơ Bữa tình u – Nxb Hội nhà văn (2004)
- Tập Tuyển tập thơ Lị Ngân Sủn – Nxb Văn học (2012)
Ngồi ra chúng tơi cịn đọc và tìm hiểu một số sáng tác của các nhà thơ
DTTS khác (để so sánh, đối chiếu, tìm ra nét riêng biệt trong thơ tình u của
Lị Ngân Sủn); đọc tham khảo các bài viết, cơng trình nghiên cứu về thơ của
Lò Ngân Sủn; đọc tham khảo những cuốn sách về lý thuyết lí luận để làm cơ
sở lí luận và thực tiễn cho cơng trình nghiên cứu của mình.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Phụ
lục, Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về thơ tình yêu dân tộc thiểu số và nhà thơ tình dân
tộc Giáy – Lị Ngân Sủn.
Chương 2: Nồng độ và sắc thái tình yêu trong thơ Lò Ngân Sủn
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật thơ tình u Lị Ngân Sủn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




9

7. Đóng góp của luận văn
Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về
đặc điểm Thơ tình u của Lị Ngân Sủn, góp phần để khẳng định những nét

đặc sắc ở mảng thơ tình của nhà thơ dân tộc Giáy – trong mảng thơ tình u
DTTS nói riêng, ở thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




10

NỘI DUNG
Chương 1
VÀI NÉT VỀ THƠ TÌNH YÊU DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ TÌNH DÂN TỘC GIÁY – LÒ NGÂN SỦN
1.1. Vài nét khái quát về thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình u
dân tộc thiểu số nói riêng.
1.1.1. Văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại

Có thể nói nếu văn học Việt Nam hiện đại nói chung được hình thành từ
đầu thế kỉ XX thì bộ phận văn học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại chủ yếu
hình thành và phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy ra đời
sau nhưng văn học DTTS Việt Nam hiện đại đã có bước phát triển khá nhanh
chóng và đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận.
Trước đó trong đời sống văn học nước ta đã có một bộ phận văn học các
DTTS Việt Nam rất phong phú và đặc sắc như các tác phẩm văn học dân
gian: “Xong chụ xon xao” của dân tộc Thái, “Ẩm Ệt Luông” của dân tộc
Mường, “Trường ca Đăm Săn”, “Xinh Nhã” của dân tộc Ê đê… đến “Khảm
hải” của dân tộc Tày… Văn học DTTS Việt Nam nói chung, văn học DTTS
hiện đại nói riêng đã một mặt kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian,
mặt khác đã có những đổi mới, phát triển, hiện đại hóa với một đội ngũ sáng

tác văn học đông đảo đến từ nhiều dân tộc khác nhau như: Nông Quốc Chấn,
Bàn Tài Đồn, Cầm Biêu, Nơng Viết Toại, Triều Ân, Vi Hồng, Mã Thế Vinh,
Hà Thị Cẩm Anh, Mã A Lềnh, Inrasara, Y Phương, Lị Ngân Sủn, Pờ Sảo
Mìn, Cao Duy Sơn, Mai Liễu,Bùi Thị Tuyết Mai, Linh Nga Nieekdam, Niê
Thanh Mai, Dương Khâu Luông, Đồng Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan... Cùng
với lực lượng sáng tác văn học ngày càng hùng hậu thì số lượng và chất lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




11

của các tác phẩm văn học DTTS Việt Nam hiện đại cũng ngày nhiều hơn và
càng được nâng cao hơn. Đã có nhiều tác phẩm thơ ca DTTS đạt được Giải
thưởng cao trong đời sống văn học Việt Nam nói chung, trong văn học các
DTTS Việt Nam nói riêng, ví dụ như: “Ánh hồng Điện Biên” (1984) của Cầm
Biêu đạt Giải A Hội VHNT Việt Nam năm 1984; tập thơ “Tiếng hát tháng
giêng” của Y Phương được trao Giải hay nhất trong năm1987; 2 tập thơ
“Những người con của núi” (1990) và “Tơi là ngọn gió” (1998) của nhà thơ
Lị Ngân Sủn đạt Giải B Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1990, 1998); tập thơ
“Giấc mơ của núi” của Mai Liễu đạt Giải B Hội VHNT các DTTS Việt Nam
(năm 2001); “Tháp nắng” - Thơ và trường ca (1996) của Inrasara đạt Giải B
Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1997), “Lễ tẩy trần tháng Tư” (2002) – Thơ và
trường ca đạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm 2003) và Giải thưởng
văn học Asean (năm 2005) và gần đây nhất là tác phẩm “Vũ Khúc Tày –
Tủng Tày (2015) của tác giả Y Phương được nhận Giải thưởng của Hội Nhà
văn Việt Nam (2015)…
Sự vận động, thay da đổi thịt của cuộc sống con người và thiên nhiên

miền núi qua các giai đoạn lịch sử của đất nước là nội dung phản ánh chủ yếu
của các tác phẩm văn học DTTS Việt Nam hiện đại. Từ khí thế hào hùng của
Cách mạng, ca ngợi cuộc sống mới đầy phấn chấn, tự hào, đến phẩm chất tốt
đẹp của con người miền núi, tình yêu tự do tràn đầy năng lượng, và cả việc
phê phán những thói hư, tật xấu, sự tha hóa biến chất của một bộ phận con
người trong cuộc sống hiện đại…đều được các tác giả văn học DTTS phản
ánh một cách rất chân thực và sinh động.
Hòa cùng vào dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại nói chung, văn
học DTTS Việt Nam hiện đại cũng phát huy được vai trị, nhiệm vụ lịch sử
của mình, đó là hướng vào “một nền văn học phong phú, đa dạng, đặc sắc và
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”. Nền văn học phong phú, đa dạng, đăc sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




12

ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho đội ngũ các nhà văn DTTS trên tất
cả các thể loại: thơ, văn xi, kịch, lí luận phê bình…,trong đó thể loại thơ ca
đã có những đóng góp khơng nhỏ vào quá trình vận động và phát triển của
văn học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại.
1.1.2. Thơ ca dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình u DTTS nói riêng

Trong các thể loại (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, lí luận phê bình,
kịch bản sân khấu…) của văn học các DTTS Việt Nam thì thể loại thơ được
đánh giá là phát triển mạnh mẽ nhất và cũng là thể loại mang lại nhiều thành
công nhất. Với một đội ngũ đông đảo các nhà thơ gồm nhiều thế hệ liên tục
phát triển, thơ ca DTTS hiện đại đã có nhiều thành tựu đáng khẳng định.

Thơ ca DTTS giai đoạn từ 1945 đến 1975 có thể nói đã có bước phát
triển khá phong phú và đa dạng. Đây là giai đoạn đất nước bước vào chặng
đường đấu tranh đầy gian khổ và ác liệt trước những thế lực xâm lược bạo
tàn, đó là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ; đồng thời đây cũng là giai đoạn
nước ta tiến hành công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu
tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Thơ ca DTTS giai đoạn này cũng đã
phản ánh kịp thời những chuyển biến mới của lịch sử dân tộc, ca ngợi lịng
u nước, u q hương, lịng tự hào, tự tơn dân tộc của người dân miền
núi; phản ánh hiện thực cuộc sống khổ cực của đồng bào miền núi dưới sự
áp bức bóc lột của giặc Pháp và bè lũ tay sai; thể hiện lòng căm thù giặc sâu
sắc và tinh thần đấu tranh dũng cảm, một lòng theo Đảng, theo Bác, kháng
chiến trường kì…Giai đoạn này xuất hiện một số gương mặt tác giả với các
sáng tác tiêu biểu như: Cầm Biêu với các bài thơ, tập thơ: “Vợ lính ngụy
mong chồng” (1949), “Gái thời giặc” (1950), “Mường muổi yên vui”
(1954); Nông Quốc Chấn với “Việt Bắc đánh giặc” (1948) , “Khâu áo”
(1948), “Dọn về làng” (1950), “Người núi hoa” (1958), “Tiếng ca Việt Bắc”
(1959); Triều Ân với “Tung cịn và suối đàn” (1963), “Tiếng hát rừng xa”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




13

(1974), “Nắng ngàn” (1974); Bàn Tài Đồn có “Xn về trên núi” (1963),
“Một giác mơ” (1964), “Trùm xấy cấu - Kể chuyện đời” (1968); Nông Viết
Toại với “Kin Ngay phuối khát” (1962), “Đét chang nâu” (Nắng ban trưa);
Vương Anh có “Sao chóp núi” (1968), “Trăng mắc võng” (1973)…
Sau đại thắng mùa xuân 1975, non sông đã liền một dải, Bắc Nam xum
họp một nhà, niềm vui thắng lợi, khơng khí tươi vui phấn khởi tràn ngập

muôn nơi, đất nước sang trang sử mới , khép lại thời kì “khổ nhục mà vĩ đại”,
mở ra thời kì mới – thời kì độc lập dân tộc thống nhất nước nhà, xây dựng
cuộc sống mới. Cùng với sự chuyển mình của văn học dân tộc trong giai đoạn
mới, thơ ca DTTS cũng có những thành tựu vượt bậc, cả về số lượng và chất
lượng. Bên cạnh lớp nhà thơ đi trước vẫn bền bỉ sức sáng tạo như: Nơng Quốc
Chấn với “Dịng thác” (1977), “Bài thơ Pác Bó” (1982); Bàn Tài Đồn với
“Trên núi vẫn là nơi ta ở” (1979), “Bước đường tôi đi” (1985), “Ba con
đường” (1995), “Bó đuốc sáng” (2002); Vương Anh với “Đến hẹn” (1983),
“Hoa Li-pa yêu” (1989), “Rượu mặn” (1993), “Lá đắng” (1993); Vương
Trung với “Sóng Nậm Rốn” (trường ca – 1998); Triều Ân với “Chốn xa
xăm” (1990)…là đông đảo lớp nhà thơ trẻ với lịng nhiệt huyết sơi trào,tình
u cuộc sống thiết tha, đem đến mn điệu và âm hưởng đa dạng, phong
phú cho cây đàn thơ ca DTTS, khiến cho thơ ca dân tộc thiểu số thời kì này
có một đời sống sơi động và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, với sự
xuất hiện của các gương mặt nhà thơ tiêu biểu như: Y Phương với “Tiếng
hát tháng giêng” (1986), “Lửa hồng một góc” (1987), “Đàn then” (1996); Pờ
Sảo Mìn với “Cây hai nghìn lá” (1992), “Mắt lửa” (1998), “Con trai người
Pa Dí” (2001); Lị Ngân Sủn với “Chiều biên giới” (1989), “Những người
con của núi” (1990), “Dịng sơng mây” (1995), “Người đẹp” (1999); Dương
Thuấn với “Cưỡi ngựa đi săn” (1991), “Đi tìm bóng núi” (1993), “Đi ngược
mặt trời” (1995); Lò Cao Nhum với “Giọt sao trở về” (1995), “Rượu núi”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




14

(1996), “Sàn trăng” (2000), “Theo lời hát về nguồn” (2001); Lâm Quý với

“Điều có thật từ câu ca dao” (1998); Ma Trường Nguyên với “Mát xanh
rừng cọ” (1983), “Tiếng lá rừng gọi đôi” (1996), “Câu hát vắt qua vai”
(2005); Triệu Kim Văn với “Hoa núi” (1990), “Mùa Sa nhân” (1994), “Lá
tìm nhau” (1999), “Con của núi” (2002)…Bên cạnh đó cịn có sự xuất hiện
của các nhà thơ nữ người DTTS như: Dư Thị Hồn với “Lối nhỏ” (1988);
Nơng Thị Ngọc Hịa với “Trước gương” (1998), “Lời ru cho mình” (1999),
“Vườn duyên” (2002); Triệu Thị Mai với “Ngọn lửa”… Các tác phẩm thời
kì này mang âm hưởng náo nức, với cảm hứng ngợi ca con người và cuộc
sống miền núi mang hơi thở mới trẻ trung, sôi nổi, nhiệt huyết; nghệ thuật
thể hiện có tính hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong lĩnh vực thơ ca các DTTS Việt Nam hiện đại thì mảng thơ tình
yêu được đánh giá là đặc sắc, lạ và hấp dẫn người đọc nhất. Có một số nhà
thơ tình DTTS tiêu biểu với những sáng tác như: “Lời then ai buộc” (1996),
“Giấc mơ của núi” (2001) của tác giả Mai Liễu; “Tiếng hát tháng giêng”
(1986), “Lửa hồng một góc” (1987), “Đị trăng” (2009), “Bài hát cho Sa”
(2011), “Mùa hoa” của tác giả Y Phương; “Con trai người Pa Dí”
(2001),“Tiếng chim cao nguyên” (2015) của nhà thơ Pờ Sảo Mìn; “Bên suối
Nậm Mơ” (1995),“Tình ca đá núi” (2015) của Mã A Lềnh; “Lời của lá”
(2000),“Vườn dun” (2002) của tác giả Nơng Thị Ngọc Hịa; “Xôn xao rừng
lá” (1992), “Lời riêng” (2009) của tác giả Hà Lâm Kỳ…Các nhà thơ đã có
nhiều bài thơ , tập thơ viết về đề tài tình yêu (nam, nữ) rất đặc sắc, vừa mang
những nét chung của thơ tình yêu nói chung, vừa có những đặc điểm riêng,
sắc thái riêng, cách viết riêng rất độc đáo và thú vị của người miền núi.
Nhà thơ Mai Liễu với tình yêu thầm kín, thương thầm trộm nhớ, tình u
ln ấp ủ trong tâm tưởng được diễn đạt bằng cảm xúc giản dị, trong sáng,
khơng ồn ào: “Hai cặp mắt tình tứ trơng nhau/ Quả cịn trên tay mê ngủ/

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





15

Chẳng nhớ mình đeo tua đỏ tua xanh” (Tung cịn). Tình u trong thơ Y
Phương có sự dồn nén cảm xúc, yêu bằng mắt bằng lòng, bằng tâm hồn của
một người sinh ra để yêu, suốt đời đi tìm tình u dù có phải: “Đi hỏng đơi
giày/ Anh đi qn vung tay/ Cởi áo vắt vai/ Phăm phăm bước/ Mặt trời cũng
một mình/ Đi tìm/ Mặt trăng” (Đi tìm). Với Pờ Sảo Mìn tình u trong thơ
ơng là tình u mạnh mẽ, bản năng: “Đã yêu là yêu nhiều, yêu mãi/ Yêu cho
hết tận cùng man dại” (Con trai người Pa Dí). Mã A Lềnh đắm đuối, si mê
trong tình yêu “rực cháy đến lụi tàn”:“Nếu ta là hạt mưa sương/ Ta xin tan
trên bàn tay nàng/ Nếu ta là bông tuyết trắng/ Ta xin tan dưới bàn chân nàng/
Là chàng trai miền núi/ Ta xin tan trên thân thể nàng” (Tình khúc 33).Thơ
tình của tác giả Hà Lâm Kỳ thì được biểu hiện trong một tình yêu say đắm,
nồng nàn, trong trẻo như suối nguồn: “Nếu được nắm tay em/ Anh sẽ nắm
khơng bng/ Và/ Nếu đời anh có em/ Hai ta đời lồng một” (Bạn
gái)…Trong số các nhà thơ tình DTTS nổi bật lên nhà thơ của dân tộc Giáy –
Lò Ngân Sủn, tác giả của 22 tập thơ, trong đó thơ tình u chiếm một số
lượng lớn. Những tập thơ hay nhất của Lị Ngân Sủn chính là tập thơ viết về
đề tài này.
1.2. Nhà thơ tình dân tộc Giáy - Lò Ngân Sủn
1.2.1. Những nét đặc sắc của văn hóa Giáy
Dân tộc Giáy có tên gọi khác là Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Sa Nhân…
Ngồi ra còn một số tên gọi khác, đây là những tên gọi theo thổ ngữ hoặc theo
sự pha tạp ngôn ngữ của các tộc người khác như: dân tộc Tày, Thái gọi người
Giáy là “ Giẳng” hay “Nhẳng”, dân tộc Mông gọi người Giáy là “ Xúa”
(Hán). Dân tộc Giáy có số dân (theo con số thống kê năm 1999 là 49.098
người), địa bàn cư trú chủ yếu Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Cao
Bằng. Người Giáy thuộc nhóm ngơn ngữ Tày-Thái, thuộc hệ tiếng nói TháiKađai. Đồng bào Giáy sống định cư và họ gọi đơn vị cư trú của mình là làng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




16

“Luổng”, bản “Bán”. Trước hết, nói đến văn hóa của dân tộc Giáy là phải nói
đến một loại hình văn hoá lúa nước Bởi lẽ, Người Giáy lựa chọn vị trí địa lý
để lập làng bao gồm các vùng tự nhiên như: những thung lũng bằng phẳng,
ven sông, suối, những bãi bằng …là những nơi thuận tiện cho việc sản xuất,
gieo trồng cây lúa nước,cho nên dân tộc Giáy là cư dân lúa nước từ rất sớm.
Một đặc điểm của loại hình văn hố này là tất cả các ngày tết, lễ hội trong
năm đều theo mùa vụ của cây lúa nước, với những đặc thù như vậy đã hình
thành nên một nền văn hóa tương ứng, đó là loại hình văn hóa lúa nước.
Những nét văn hố đặc trưng của tộc người Giáy thể hiện trong nhà ở,
trang phục và văn hóa ẩm thực…
Nhà ở người Giáy dựng nhà theo hai kiểu cấu trúc nhà trệt và nhà sàn
(trong đó cấu trúc nhà sàn chỉ thuộc về một số nhóm người Giáy sống ở Hà
Giang, Cao Bằng). Cịn cấu trúc nhà trệt phổ biến hơn, là kiểu dáng của tất cả
các nhóm người Giáy sống ở Lào Cai, Lai Châu và được xem như là mơ hình
đại diện của ngơi nhà người Giáy. Ngơi nhà trệt điển hình của người Giáy là
nhà khung gỗ lợp hai mái gianh cao vút. Hai đầu hồi trên nóc nhà có thể được
trang trí hoa văn gỗ hoặc để thơng thống. Tường nhà 4 bức được nện bằng
đất hoặc làm bằng gỗ tấm hay phên tre nứa, cách mặt đất gần 20 cm.
Công cụ lao động của người Giáy cũng tiếp thu công cụ lao động của các
dân tộc khác. Chỉ có một vài công cụ riêng của người Giáy là: chiếc bừa đơi,
đơi dậu gánh thóc. Cơng cụ thu hoạch gồm có: liềm ,nép, ván, thùng đạp lúa
(táu). Là cư dân lúa nước cho nên trong sáng tạo văn hóa lúa nước người Giáy
chỉ có cơng cụ lưỡi kim loại là: Dao (phạc sá), cày (phạc xay), cuốc (phạc

dạc). Trong đó dao được coi là công cụ quan trọng nhất được người Giáy chú
ý giữ gìn và mài sắc, bởi nó tạo ra những những giá trị văn hóa, đặc biệt là
văn hóa vật chất: lấy gỗ, tre dựng nhà, tạo ra các công cụ khác và vật dụng
cho sinh hoạt hàng ngày, dùng chế biến thức ăn, phát cây cỏ…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




17

Trang phục của người Giáy cũng có nét riêng. Nam giới mặc quần ống
rộng nhưng ống lại được thắt chéo (lá tọa), áo ngắn cổ trịn có chân, mở giữa
cúc cài khuy bằng vải, đầu đội khăn vải bông nhuộm chàm với những nút
thắt, chít. Màu sắc quần áo là màu đen và chàm thẫm. Phụ nữ Giáy mặc áo
ngắn xẻ, nách phải cài khuy vải hoặc bạc, cổ đứng viền vải khác màu, tay áo
và tà áo cũng viền vải khác màu, áo nữ đủ các loại màu nhưng tuyệt đối
khơng có màu trắng. Phụ nữ Giáy thường vấn tóc trịn quanh đầu, đầu đọi
khăn vng.
Về văn hóa ẩm thực mang nét đặc trưng và in đậm văn hóa tộc người, từ
lương thực trong tiếng Giáy gọi là “Háu” (lúa, gạo, cơm), trong bữa ăn hàng
ngày người Giáy ăn cơm tẻ đồ (gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ
đồ), nước luộc gạo được dùng làm nước uống. Người Giáy hay chế biến xôi
nhiều màu (xôi ngũ sắc), họ quan niệm năm màu xôi tượng trưng cho ngũ hành,
năm yếu tố cơ bản tạo nên đất trời theo quan niệm của đạo Lão và Kinh Dịch.
Người Giáy khơng nhiều lễ hội, nhưng tết thì lại rất nhiều, hàng năm vào
ngày Thìn tháng Giêng âm lịch người Giáy ở Tả Van (huyện Sa Pa - Lào Cai)
lại mở hội Roòng Poọc để cầu mùa màng bội thu, người n vật thịnh, mưa
thuận, gió hồ. Lễ hội Rng Poọc (xuống đồng) của người Giáy là sự giao
hoà giữa thiên nhiên và con người, làm mỗi người trong cộng đồng nơi đây

biết trân trọng giá trị của lịch sử (ghi nhớ công lao người mở đất lập bản), biết
trân trọng thiên nhiên (tâm linh tôn trọng các thế lực siêu nhiên, biết yêu
thương cỏ cây, tài nguyên đất và nước), biết yêu thương con người (giao lưu,
đồng cảm, đoàn kết).
Về tết, một năm mười hai tháng thì hầu như tháng nào người Giáy cũng có
tết: tết Nguyên Đán (Cơn Siêng Láo), tết rằm tháng giêng (Cơn sịp há), tết 30
tháng giêng (Cơn đáp), ngồi ra có tết tháng 3(tết Thanh Minh), tết tháng 5 (tết
Đoan Ngọ), tết tháng 7 kéo dài 3 ngày (14,15,16), tết tháng 8 (tết Trung Thu),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




18

tháng 9 khơng có ngày xác định lúa chín là ăn tết cơm mới, tháng 10 thu hoạch
mùa xong là làm bánh dầy cúng tổ tiên,tháng 11 gọi là “Đươn ít” ngày 11 làm
bánh áp chảo cúng tổ tiên, tháng 12 gọi là “Đươn lạp” (tháng chạp) ngày 15 làm
bánh giầy cúng tổ tiên, ngày 23 làm bánh trôi “srỏng srảo vàng” (tiễn táo
vương)…
Phong tục cưới hỏi của người Giáy rất cầu kì và tốn kém, gồm các bước:
xem mặt, xem nhà, thả mai mối, thách cưới, lễ đoạn lời, lễ cưới và lễ lại mặt,
Nhà trai ngoài việc phải chi phí các bước lễ và chi phí ăn uống cho nhà gái
còn phải mang tặng phẩm làm quà biếu cho họ hàng gần nhà gái. Và trong các
đám cưới người Giáy thường bao giờ cũng có các cuộc hát đối đáp giữa trai
gái của bản làng này với trai gái của bản làng khác đến dự đám cưới. Các
cuộc hát đối đáp này thường được bắt đầu vào chập tối và có khi kéo dài đến
tận ngày hơm sau, đêm hơm sau. Ngồi ra trong các nghi thứclễ cưới đều có
kèm theo các bài hát như: “Hát đón dâu”, “hát đưa dâu”, “hát rửa mặt”, “hát
trước mâm trước rượu”, “hát đạo lý”, “hát khuyên răn”, “hát cám ơn”…

Về phong tục ma chay, người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma
chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không
sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những gia đình khá
giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả
đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn
tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.
Bên cạnh đó người Giáy cịn có nhiều trị chơi dân gian cho các lứa tuổi
như: “đánh quay”, “tung yến” (tó tơm), trị chơi “tung còn”. Trò chơi “tung
còn” là trò chơi dành cho cả bản làng (già, trẻ, gái trai). Có nơi tổ chức cả Hội
“tung còn” rất to, thu hút người chơi tham gia rất đơng, có khi có tới hàng
trăm người tham dự…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×