Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

73. TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN Ý NGHĨA THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.49 KB, 21 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG
TƯỞNG CỦA
CỦA C.MÁC
C.MÁC VÀ
VÀ PH.ĂNGGHEN
PH.ĂNGGHEN VỀ
VỀ TÍNH
TÍNH TẤT
TẤT YẾU
YẾU KHÁCH
KHÁCH
QUAN
QUAN PHẢI
PHẢI THÀNH
THÀNH LẬP
LẬP ĐẢNG
ĐẢNG CỘNG
CỘNG SẢN
SẢN TRONG
TRONG TÁC
TÁC PHẨM
PHẨM
TUYÊN
TUYÊN NGÔN
NGÔN CỦA
CỦA ĐẢNG


ĐẢNG CỘNG
CỘNG SẢN
SẢN Ý
Ý NGHĨA
NGHĨA THỰC
THỰC TIỄN
TIỄN


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy lịch sử của tư duy khoa học và văn hoá thế giới, học
thuyết Mác - Lênin ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử, một hiện tượng
xã hội hợp qui luật. Sự ra đời của học thuyết Mác - Lênin là một bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử của nhân loại, nó là đỉnh cao của sự phát triển lý luận về giải
phóng giai cấp, giải phóng con người và sự phát triển của xã hội loài người, học
thuyết Mác - Lênin, là sự kết tinh sáng tạo tất cả những giá trị cao quí của tư duy
BẮC
NINH,
THÁNG
BẮC
NINH,
THÁNG 55 NĂM
NĂM 2013

2013
lý luận, văn hố, khoa học
của
nhân loại.
Trong suốt q trình hình thành và phát triển học thuyết lý luận của mình,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho ra đời nhiều tác phẩm kinh điển có giá trị. Đó là
kết quả của sự kế thừa, vận dụng, sáng tạo trí tuệ của nhân loại với hoạt động
thực tiễn phong phú của thiên tài và trái tim nồng cháy vì sự tiến bộ của xã hội
lồi người. Trải qua hơn 155 năm những tác phẩm kinh điển đó đến nay vẫn cịn
ngun giá trị về mặt khoa học. Nó ln là cơ sở lý luận soi sáng hoạt động thực
tiễn của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là tác phẩm có ý nghĩa lịch sử vơ cùng lớn
lao, nó là vũ khí có tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng, tác phẩm ra đời đáp
ứng được sự khát khao về con đường đấu tranh của phong trào công nhân lúc bấy
giờ. Tác phẩm đã giải quyết nhiều vấn đề cơ bản, trong đó hai ơng đã luận giải
một cách khoa học về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, tính tất yếu
khách quan phải thành lập Đảng Cộng sản của giai cấp vô sản. Những tư tưởng
đó là vũ khí lý luận sắc bén, phản ánh một cách khoa học quá trình vận động
cách mạng của giai cấp cơng nhân trong tiến trình lịch sử của nhân loại.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen viết
vào giai đoạn cuối năm 1847 và được công bố vào ngày 24 tháng 02 năm 1848.


3
Mục đích của tác phẩm được Ph.Ăngghen chỉ rõ : “Hiện nay, đã đến lúc những
người cộng sản phải công khai trình bày trước tồn thế giới những quan điểm,
mục đích, ý đồ của mình; và phải có một tun ngơn của Đảng của mình mục
đích, ý đồ của mình; và phải có một tun ngơn của Đảng của mình để đập lại
câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”1
Trở lại với lịch sử chúng ta thấy rằng giữa những năm 40 của thế kỷ XIX,

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một
chừng mực nào đó đã ảnh hưởng quan trọng cả ở Đức. Lúc bấy giờ nhiều nước ở
châu Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản diễn ra khá mạnh mẽ, làm
tăng thêm mâu thuẫn vốn có trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày
càng gay gắt, khơng thể điều hồ được. Mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã
hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Trong thời kỳ này phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ như phong trào hiến
chương ở Anh kéo dài 10 năm ( 1838 - 1848 ), khởi nghĩa của công nhân Liông ở
Pháp năm 1837, khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi ở Đức năm 1844…Điều đó chứng
tỏ giai cấp vơ sản đã trở thành một lực lượng lớn mạnh, đóng vai trị quan trọng
trong đời sống chính trị xã hội. Tuy nhiên phong trào cơng nhân lúc này cịn
mang tính tự phát, chưa có lý luận cách mạng soi đường.
Thời điểm này, trung tâm của phong trào cách mạng vô sản đã chuyển về
nước Đức, trong khi nước này đang phải hoàn thành cuộc cách mạng tư sản.
Trước tình hình đó, giai cấp vơ sản Đức đã tiến hành cuộc đấu tranh của mình,
một mặt chống lại chế độ phong kiến, mặt khác chống lại giai cấp tư sản. Nhưng
giai cấp vô sản lúc này chưa được giác ngộ chính trị và tổ chức thiếu chặt chẽ,
chưa thấy được vai trò sứ mệnh lịch sử, địa vị xã hội của mình, nhất là con
đường và phương pháp đấu tranh giải phóng bản thân và tồn xã hội.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen tồn tập, tập 4, Nxb chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 1995, trang
595.


4
Trước tình hình đó một u cầu bức thiết đặt ra là phải làm cho giai cấp công
nhân trở thành một lực lượng độc lập, được giác ngộ chính trị, được trang bị lý
luận cách mạng tiên phong và được tổ chức chặt chẽ để hoàn thành nhiệm vụ địa
vị chính trị của mình trong tiến trình lịch sử.

Với trí tuệ thiên tài, khả năng tư duy sáng tạo cùng với cuộc đời hoạt động
thực tiễn phong phú C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận thức ra vấn đề đó. Chính vì
vậy, đầu năm 1846 C.Mác và Ăngghen đã thành lập ủy ban thông tin cộng sản
Brúc - xen và các ông đã cố gắng thành lập nhiều tổ chức như thế ở nhiều nơi
khác nhau. Đồng thời liên hệ thường xuyên với các cơng xã của liên đồn những
người chính nghĩa ở Pa ri. Từ liên đồn những người chính nghĩa đến liên đoàn
những người cộng sản (6-1847); từ đại hội lần thứ nhất đến đại hội lần thứ hai
của liên đoàn những người cộng sản (từ 9-11 đến 8-12-1847).
Tại đại hội lần II đã diễn ra cuộc cải tổ cách mạng cả chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen đưa
ra ngày (29-11-1847) được đại hội II của liên đoàn những người cộng sản thừa
nhận, cũng tại đại hội này C.Mác và Ph.Ăngghen được giao soạn thảo cương lĩnh
dưới hình thức một bản tuyên ngôn. Trong một thời gian ngắn, với thiên tài bẩm
sinh C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ hồn thành xuất sắc tác
phẩm Tun ngôn của Đảng Cộng sản vào đầu năm 1848, tuyên ngơn ra đời
đúng vào lúc có cuộc cách mạng tháng hai năm 1848 ở Pháp và đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn của phong trào cộng sản lúc bấy giờ.
Sự ra đời Tun ngơn của Đảng Cộng sản có một ý nghĩa lịch sử vơ cùng
quan trọng, nó là bản cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế. Đồng thời đánh đấu giai đoạn chín muồi của chủ nghĩa Mác hình thành
một hệ thống cơ bản các nguyên lý, lý luận phản ánh đúng đắn, khoa học các quy
luật phát triển khách quan của thế giới hiện thực, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng


5
đường lối cách mạng và đáp ứng đòi hỏi của phong trào công nhân lúc bấy giờ.
Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của tuyên ngôn được Ph.Ăngghen viết trong lời tựa
năm 1883 chỉ rõ: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mỗi
thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do
sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch

sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó(từ khi chế độ cơng hữu ruộng đất nguyên thủy
tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa giai cấp bị trị và
những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ;
những cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột
và bị áp bức(tức là giai cấp vơ sản) khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi tay giai
cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng
thời và vĩnh viễn giải phóng tồn bộ xã hội khỏi bóc lột, ách áp bức và khỏi
những cuộc đấu tranh giai cấp…”1. Tư tưởng trên đã được thể hiện trong toàn bộ
bốn chương của tác phẩm:
Chương I:

“Những người tư sản và những người vô sản”.

Trong chương này C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rõ quy luật vận động
của lịch sử xã hội lồi người trong xã hội có giai cấp là đấu tranh giai cấp mà
đỉnh cao là cách mạng xã hội. Hai ơng đã khẳng định vai trị sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vơ sản và tính tất yếu khách quan sự ra đời của Đảng Cộng sản, đồng
thời phân tích một cách khoa học quy luật vận động nội tại khách quan của xã
hội tư bản tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của giai cấp thống trị (giai cấp tư sản) và
sự thắng lợi của giai cấp bị trị (giai cấp vô sản).
Chương II:

1

“ Những người vô sản và những người cộng sản”.

2 C.Mác, Ph.Ăngghen : Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980, tập I, trang 548



6
C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai
cấp vơ sản, vạch rõ tính chất, nhiệm vụ trước mắt, mục đích cuối cùng của những
người cộng sản là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản theo những
đặc trưng mà C.Mác và Ph.Ăngghen phác thảo.
Chương III:

Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa

C.Mác - Ph.Ăngghen đã làm rõ, chủ nghĩa xã hội với tính cách là dịng văn
học, thì bên cạnh dịng văn học tiến bộ có dịng phản động khốc áo chủ nghĩa xã
hội. Hai ơng phê phán trào lưu chủ nghĩa xã hội phong kiến, phân tích sâu sắc
chủ nghĩa xã hội bảo thủ tiểu tư sản, đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã hội khơng
tưởng. Đồng thời khẳng định tất cả các trào lưu tư tưởng đó đều là trở ngại cho
việc ra đời chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ ra chiến lược, sách lược của những người cộng sản.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản thể hiện thiên tài duy vật biện chứng
của C.Mác và Ph.Ăngghen. Tác phẩm vừa mang tính lí luận, vừa mang tính
thực tiễn sâu sắc, là kim chỉ nam chỉ đạo mọi hành động của toàn bộ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vơ sản tồn thế giới
trong cuộc đấu tranh để giải phóng lồi người thốt khỏi ách áp bức, bóc lột,
được sống tự do, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Bằng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong xã hội có giai cấp ln ln tồn tại các giai cấp đối
lập nhau: “Người tự do và ngời nô lệ, q tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ,
thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ áp bức và những ngời bị áp
bức, luôn luôn đối kháng với nhau”1. Đặc biệt, hai ông đã trình bày một cách
khoa học phương pháp tiếp cận, các giai tầng xã hội, vạch rõ mâu thuẫn đối
1


C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quộc gia, Hà Nội 1995, tập 4, trang 596


7
kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, và khẳng định để hoàn thành
sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, giai cấp vơ sản phải được tổ chức và lãnh đạo bởi
chính Đảng cách mạng chân chính của mình.
Trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ ra
quy luật phát triển của xã hội, luận chứng một cách khoa học về sự diệt vong
không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ tất yếu của lồi người
tiến tới một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tức là cộng sản chủ nghĩa, đồng
thời C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra bước q độ đó khơng phải diễn ra tự
phát mà phải bằng con đường cách mạng lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản
và xoá bỏ các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Khi bàn về vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản, hai ơng phân tích
làm rõ sứ mệnh đó được quy định bởi các yếu tố khách quan, trước hết là địa vị
kinh tế xã hội của giai cấp qui định, chứ khơng phải chỉ vì số lượng của giai cấp
đó, hoặc chỉ vì giai cấp đó bị bóc lột nhiều nhất trong xã hội tư bản. Các giai cấp
cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa là giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản. Tồn
bộ tư liệu sản xuất và của cải đều nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản
khơng có chút quyền sở hữu nào. Để tồn tại, giai cấp vô sản buộc phải đi làm
thuê cho bọn tư bản, sự kết hợp giữa lao động và tư bản tạo thành cơ sở của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Lao động làm thuê, tức là lao động của giai cấp công nhân là điều kiện quan
trọng nhất cho sự tồn tại và phát triển của tư bản. Vì vậy, giai cấp vơ sản sẽ
khơng thể thốt khỏi ách thống trị của tư bản, nếu khơng tiêu diệt chính cái cơ sở
của xã hội tư bản chủ nghĩa. Thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, đồng nghĩa với sự giải
phóng giai cấp cơng nhân, chỉ có thể thực hiện được bằng chính giai cấp công

nhân, chứ không phải bằng giai cấp nào khác. Để thực hiện thành công sứ mệnh


8
lịch sử của mình thì tất yếu giai cấp vơ sản phải có một hệ thống lý luận cách
mạng và khoa học dẫn đường, có đảng cách mạng của giai cấp lãnh đạo.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng, giai cấp vô sản là sản phẩm của nền
sản xuất đại công nghiệp, là giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ
nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất đại công nghiệp. Cho nên,
giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất,
có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỉ luật cao
nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trị lãnh đạo cách mạng, chỉ có giai cấp vơ sản
mới có khả năng đồn kết tất cả những người bị áp bức xung quanh mình và lãnh
đạo họ tiến cơng vào chế độ bóc lột, tiêu diệt chế độ đó, là giai cấp có sứ mệnh
lịch sử đào huyệt chơn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp
hơn – xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ rõ: “Trong tất cả
các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vơ sản là
giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp”1.
Lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản
được tuyển lựa tự nhiên trong tất cả các giai cấp trong dân cư, sự phát triển của
đại cơng nghiệp cịn đẩy từng bộ phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai
cấp vô sản, bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ.
Hơn nữa, khi đấu tranh chống chế độ phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu
gọi sự giúp đỡ của giai cấp vơ sản. Do đó, đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc
vận động chính trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp vơ sản những yếu tố tri thức
chính trị phổ thơng, những vũ khí mà sau này giai cấp vơ sản sử dụng để chống
lại giai cấp tư sản. “Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào
1


C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quộc gia, Hà Nội 1995, tập 4, trang 610


9
huyệt chơn chính nó sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô
sản đều là tất yếu như nhau”1, đó là điều khơng thể tránh khỏi. Song, để đảm bảo
cho sự thắng lợi đó, giai cấp vơ sản phải có những điều kiện đảm bảo cho cơng
cuộc tự giải phóng mình. Trong lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm
1888 Ph.Ăngghen đã chỉ ra điều đó: “Chính bản thân các sự biến và do những
thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản - do những thất bại nhiều hơn là do
những thành công – mà công nhân không thể không cảm thấy rằng tất cả các
môn thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy
tường tận những điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp cơng
nhân”2.
Từ đó khẳng định rằng, giai cấp cơng nhân chỉ có thể thực hiện được sứ
mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra một chính đảng độc lập của mình, đó
là Đảng Cộng sản. Các ông đã lý giải tất cả các phong trào diễn ra trước đây đều
là những phong trào của một số ít, được thực hiện vì lợi ích của một số ít, cịn
phong trào của giai cấp vơ sản là phong trào của số đơng và vì lợi ích của số
đông. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra, để cho phong trào đó kết thúc thắng lợi,
cần thiết phải thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và thiết lập nền chun
chính vơ sản, khơng có những điều đó thì khơng thể tiêu diệt được chủ nghĩa tư
bản và không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đảng được hình thành và phát triển xuất phát từ vai trị lịch sử và địa vị
của giai cấp cơng nhân, chính vai trị sứ mệnh đó quyết định bản chất giai cấp
của Đảng và đường lối xây dựng Đảng. Vì chỉ khi nào giai cấp vơ sản tổ chức
được chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh của giai
cấp cơng nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, có tổ
chức, có lãnh đạo. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: giai cấp vơ sản chỉ có thể

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quộc gia, Hà Nội 1995, tập 4, trang 613
C.Mác và Ăngnghen: sđd, tr 21, tr 518 - 521


10
hành động như một giai cấp, khi nó được tổ chức thành một đảng chính trị đặc
biệt, chính đảng đó phải đối lập với tất cả các đảng của giai cấp hữu sản.
Khi xác định sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Để cho giai cấp vô sản đủ vững manh để chiến thắng trong
giờ phút quyết định, cần phải - và điều này Mác và tôi chủ trương từ năm 1847 thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác và đối lập hẳn với các
đảng này, một đảng giai cấp tự giác”1.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng về mục đích chủ yếu của cuộc đấu
tranh của giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó, là lật đổ chế độ tư bản và xây
dựng chế độ cộng sản. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhiệm vụ hàng đầu của
những người cộng sản là “tổ chức giai cấp vô sản thành một giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản”2, đồng
thời hai ông khẳng định: “ Sự tổ chức như vậy của những người vô sản thành
giai cấp và do đó thành chính đảng, ln ln bị sự cạnh tranh giữa cơng nhân
với nhau phá vỡ. Nhưng nó ln luôn được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn,
vững chắc hơn, hùng mạnh hơn.”3 Chúng ta thấy rằng đấu tranh giai cấp lúc đầu
là đấu tranh giành quyền lợi kinh tế. Cuộc đấu tranh đó phát triển đến một trình
độ nhất định thì chuyển hố thành cuộc đấu tranh chính trị, khi cuộc đấu tranh đó
phát triển đến một trình độ nhất định nào đó thì chính đảng của giai cấp ra đời.
Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu tranh
giai cấp đạt đến trình độ địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất mọi hoạt động
của giai cấp, hướng vào mục tiêu chung chống lại giai cấp đối lập và nhà nước
thống trị của giai cấp đó. Sự ra đời chính đảng của giai cấp cơng nhân là một đòi

hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản,
1
2
3

C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quộc gia, Hà Nội 1995, tập 6, tr. 704
Sđd trang 437, 438
C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quộc gia, Hà Nội 1995, tập 4, trang 609


11
đây là điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình.
Hai ơng đã chỉ ra khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác, bằng
việc tiếp thu lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học thì phong trào cơng nhân mới
thực sự là một phong trào chính trị. Lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học được
truyền bá vào giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. Đảng tuyên truyền,
giác ngộ giai cấp công nhân đứng lên làm cách mạng. Khi đó cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, có
tổ chức, có lãnh đạo và cũng từ khi đó giai cấp vơ sản mới chuyển từ giai cấp tự
mình, thành giai cấp vì mình. Nếu không, phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản cũng chỉ dừng lại ở chủ nghĩa công liên mà thôi.
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền
lực liên hợp của các giai cấp của nó, giai cấp cơng nhân chỉ khi được tổ chức
thành một chính đảng chính trị độc lập, đối lập với tất cả các chính đảng cũ do
các giai cấp có của lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp.
Việc tổ chức giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để đảm bảo
thắng lợi của cách mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng của nó là thủ
tiêu các giai cấp bóc lột. Cho nên, phải có một chính đảng chính trị vững vàng,
kiên định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, thể hiện

lợi ích của toàn bộ giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp cơng nhân có thể
hồn thành vai trị sứ mệnh lịch sử của mình.
Chúng ta thấy rằng giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của Đảng,
là nguồn bổ sung lực lượng cho Đảng. Đảng là lãnh tụ chính trị, đội tiền phong,
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng,
phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa Đảng và giai cấp
cơng nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của Đảng


12
có thể khơng phải là giai cấp cơng nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này và
mang bản chất của giai cấp công nhân. Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự
lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống
nhất. Nhưng Đảng là người có trình độ lí luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo
giai cấp và dân tộc. Vì thế, không thể lẫn lộn giữa Đảng với giai cấp.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: tính tiền phong của Đảng Cộng sản
phải được thể hiện tồn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; cả về lí luận và
thực tiễn; cả về tư tưởng và hành động. Đảng giác ngộ chính trị cho tồn bộ giai
cấp, sức mạnh đồn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của
tồn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động
khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của Đảng nhằm hồn
thành thắng lợi vai trị sứ mệnh lịch sử của mình.
Sự phát triển của cơng nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà còn tập hợp lại thành những khối quần chúng lớn hơn, họ thấy rõ lực
lượng của mình hơn, đồng thời làm cho những cuộc xung đột cá nhân giữa cơng
nhân và tư sản ngày càng có tính chất xung đột giữa hai giai cấp, mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt làm cho phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi. Ph.Ăngghen viết:
từ những năm 1840 trở đi, lại bắt đầu chống lại chế độ hiện hành. Tiêu biểu là

các phong trào: Khởi nghĩa của công nhân dệt Li-ông ở Pháp (1831); Khởi nghĩa
công nhân dệt Xi-lê-di ở Đức (1844); Phong trào Hiến chương ở Anh (1838 –
1848) …Những phong trào này đều mang một sắc thái chính rị rõ rệt, đó là ý
thức giành chính quyền và xố bỏ chế độ tư hữu. Nhưng tất cả các phong trào đó
đều bị thất bại, bị đàn áp. Bởi vì, theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Tất cả các phong
trào lịch sử từ trước đến nay đều là do thiểu số thực hiện hoặc đều mưu lợi ích


13
cho thiểu số. Nguyên nhân lớn nhất, theo hai ông là do các phong trào đều là tự
phát và thiếu một lí luận cách mạng dẫn đường, chưa có một lãnh tụ cách mạng
kiệt xuất và chưa có một chính đảng của giai cấp công nhân với tư cách là đội
tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp lãnh đạo.
Từ những vấn đề lí luận và thực tiễn trên khẳng định: chỉ có một đảng
được vũ trang bằng lý luận tiên tiến và liên hệ mật thiết với quần chúng mới có
khả năng làm cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và các bạn đồng minh của
mình mang tính giác ngộ giai cấp và có tổ chức, mới có khả năng kết hợp và
hướng dòng thác cách mạng vào một mục tiêu thống nhất. Đảng giúp cho giai
cấp công nhân hiểu được sứ mệnh của mình, giúp nó đồn kết và tổ chức thành
đội ngũ, vũ trang cho giai cấp công nhân một cương lĩnh hành động có căn cứ
khoa học. Nói một cách khác, đảng bảo đảm kết hợp phong trào quần chúng
công nhân cách mạng với chủ nghĩa xã hội khoa học. Đảng là hạt nhân lãnh đạo
của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản và giành chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Giai cấp cơng nhân cần có chính đảng để truyền bá lý luận cách mạng; đào
tạo và rèn luyện cán bộ cách mạng của đảng; tổ chức toàn bộ cuộc đấu tranh thực
tiễn của giai cấp công nhân; phối hợp, hướng dẫn hành động, đồn kết tập hợp
giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa

Mác - Lênin. Những nguyên lý trình bày trong tác phẩm mãi mãi là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hơn một
thế kỷ trôi qua, lịch sử thế giới trải qua những bước thăng trầm nhất định, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế đã vượt qua nhiều thử thách gay go, quyết
liệt, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi phải giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không


14
hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản luôn luôn là nền tảng tư tưởng cho
những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa lịch
sử vô cùng lớn lao, là tác phẩm lí luận tổng kết tồn bộ q trình hình thành
chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vơ sản, sự chín muồi của
chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời cũng là sự tuyên bố về sự cáo chung của
các trào lưu xã hội chủ nghĩa không tưởng trước Mác. Tun ngơn là cương
lĩnh có tính cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản, nó soi sáng con đường
đấu tranh cho giai cấp công nhân ở tất cả các nước thốt khỏi ách nơ lệ tư bản
chủ nghĩa tiến tới một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh hơn,
tốt đẹp hơn.
Năm 1888, Ph.Ăngghen khẳng định Tuyên ngôn là tác phẩm phổ biến
hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của
hàng triệu cơng nhân từ Xi-bê-ri đến Ca-li-phoc-ni-a. Khi bàn về giá trị của
tuyên ngôn Lênin viết: Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng nhiều pho sách dày,
tồn thể giai cấp vơ sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh,
cho đến ngày nay, sống và hoạt động nhờ có tinh thần của cuốn sách đó.
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, xây dựng xã hội - xã hội chủ
nghĩa và cuối cùng là cộng sản chủ nghĩa, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản luôn
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chứng minh nhận định đúng
đắn của Ph.Ăngghen rằng: Bất cứ một Đảng công nhân nào nếu đi chệch cương
lĩnh, sách lược đó trong hoạt động của mình đều phải trả giá đắt. Nhưng, điều đó

khơng có nghĩa là sao chép máy móc nguyên lý của Tuyên ngôn, bất chấp những
biến đổi lịch sử đang diễn ra. Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử, người ta không
thể sửa đổi được. Đồng thời, ông chỉ rõ: Mặc dù hồn cảnh lịch sử đã có nhiều


15
thay đổi, nhưng xét về tổng thể những nguyên lý tổng qt được trình bày trong
Tun ngơn là hồn tồn đúng; ở đơi chỗ có một vài chi tiết cần phải xem lại.
Ngày nay, các thế lực phản động đã và đang dùng mọi thủ đoạn để tấn
công vào chủ nghĩa Mác. Lợi dụng cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội,
chúng phủ nhận tính đúng đắn của các nguyên lý mácxit mà phần lớn được trình
bày trong Tun ngơn. Song, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản với những lý luận
được trình bày một cách khoa học và cách mạng vẫn luôn là nền tảng tư tưởng
định hướng cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thực
tiễn, phong trào cách mạng thế giới đã chứng minh: Đảng Cộng sản ở dân tộc
nào, đất nước nào không lấy những nguyên lý của Tuyên ngôn cho chiến lược và
sách lược của mình thì đều phải trả giá bằng sự thất bại. Thực tế, sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh điều đó.
Từ khi ra đời đến nay Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản luôn luôn là ngọn
đèn pha chiếu sáng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cách mạng vô sản
đã nổ ra và thành công, chính quyền cơng nơng đã được xác lập trên thực tiễn;
chủ nghĩa xã hội hiện thực đã và đang tồn tại với tất cả tính chất ưu việt và sức
mạnh của nó trên 70 năm với tư cách là hệ thống thế giới. Chính sức sống mãnh
liệt đó, mà Tun ngôn đang là mục tiêu bị các thế lực thù địch tìm mọi cách tiến
cơng quyết liệt và điên cuồng để phủ nhận những nguyên lý của C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Lợi dụng sự sụp đổ của những mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu, các nhà tư tưởng tư sản và bọn cơ hội ln tìm mọi cách tấn công ráo
riết vào chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Chúng

cho rằng học thuyết của Mác về sứ mệnh của giai cấp công nhân không cịn phù
hợp với giai cấp cơng nhân hiện nay, bởi vì địa vị kinh tế -xã hội của giai cấp


16
cơng nhân hiện nay đã thay đổi nhiều và nó đang được “trung lưu hóa”, ở nhiều
nước thuộc các khu vực tư bản chủ nghĩa trên thế giới, giai cấp cơng nhân đã
được “tư bản hố”, đã được “hồ nhập” vào cộng đồng xã hội tư sản, phong trào
công nhân đã nhường chỗ cho những cuộc “cách mạng nhân đạo”, nhà nước tư
sản đang chuyển mình sang “nhà nước phúc lợi chung”…Chúng cho rằng; chủ
nghĩa Mác chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, nay đã lỗi thời và khơng cịn phù hợp,
chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời từ cách mạng tháng mười Nga là một sự sai
lầm của lịch sử..., có kẻ miễn cưỡng thừa nhận vai trị của giai cấp công nhân và
Đảng Cộng sản trong cách mạng lật đổ chế độ cũ, nhưng lại cố tình không thừa
nhận năng lực của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Song, vấn đề đó không làm thất vọng những người cộng sản trung thành với lí
tưởng của mình. Sự kiên định và phát triển vững vàng theo con đường xã hội chủ
nghĩa ở Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam đã minh chứng điều đó.
Mặc sự phản kích điên cuồng của các thế lực phản động chống lại chủ
nghĩa Mác, chủ nghĩa cộng sản vẫn phát triển, chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý
nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới hiện đại. Những ngun lý cách
mạng, khoa học đó vẫn ln là căn cứ chính xác cho các tổ chức cách mạng của
giai cấp công nhân quốc tế, cho các Đảng Cộng sản chân chính trên thế giới đề ra
đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng, phù hợp với điều kiện
lịch sử của đất nước mình, dân tộc mình.
Thực tiễn đã chứng minh, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh
thích nghi nhất định, q trình sản xuất tư bản chủ nghĩa dù có mở rộng và hiện
đại đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi như thế nào, vẫn không ngừng
tái sinh ra quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
vẫn không thay đổi, bản chất phản động của chính trị tư sản vẫn tồn tại hiện thực,

tính chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong của chủ nghĩa tư bản


17
vẫn là tất yếu. Cuộc đấu tranh giai cấp mà giai cấp công nhân tiến hành nhằm
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, dù có phải trải qua những bước thăng trầm,
nhưng vẫn đang diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử, thời đại chúng ta
vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những giá
trị mà Tuyên ngôn đã để lại vẫn mãi là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng
của phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực.
Từ thực tiễn cách mạng nước ta khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là một tất yếu của lịch sử, phù hợp với quy luật chung và mang tính đặc thù
của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là Người lãnh đạo mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh
Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là đảng cách mạng chân chính của giai cấp
cơng nhân Việt Nam, tồn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Đảng đã vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước lãnh đạo
cách mạng Việt nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc ta đánh thắng thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, mở đường cho dân tộc ta đi vào kỷ nguyên độc lập, tự do và
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua cuộc khảo nghiệm thực tiễn, trước những đòi
hỏi khách quan của lịch sử, công cuộc đổi mới của chúng ta chính thức được mở
ra từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam. Đại hội xác định: “Đối với nước
ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý
nghĩa sống cịn”1. Từ đường lối đó Đảng ta lãnh đạo đất nước tiến hành cơng
cuộc đổi mới tồn diện trên mọi lĩnh vực, trước hết là đổi mới tư duy lý luận. Đại
hội VI nêu rõ: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quí báu về tư
1


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 125


18
tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”2. Quan điểm Đại hội VI
là rất rõ ràng, có ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc q trình đổi mới: “Đổi mới tư duy
khơng có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận
những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận
đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển
những thành tựu ấy”2
Đảng ta vẫn lấy lí luận chủ nghĩa Mác Lê Nin làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hành động và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, những năm đổi
mới gần đây, với bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần cách mạng độc lập, tự
chủ, sáng tạo Đảng ta luôn giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, luôn luôn chủ động sáng tạo trong
mọi tình huống của cách mạng kịp thời nắm bắt và tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, đề ra chủ trương đúng đắn, khơi dậy và phát huy được tiềm năng to lớn của
dân tộc, góp phần giữ vững an ninh chính trị. Từ sau Đại hội VI (12/1986) với
phương hướng “đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong
cách công tác” các cấp ủy và tổ chức đảng đã triển khai thực hiện sâu rộng
nhiệm vụ xây dựng Đảng. Bộ Chính trị có nghị quyết 04 về: “Làm trong sạch
Đảng, trong sạch bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội”. Ban
chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 05 “Về một số vấn đề cấp bách của công
tác xây dựng Đảng”, Hội nghị TW6 (3/1989) đề ra năm ngun tắc chỉ đạo cơng
cuộc đổi mới, trong đó nhấn mạnh ý nghĩa quyết định của sự lãnh đạo của Đảng,
đấu tranh phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của
Đảng. Liên tiếp hai Hội nghị Trung ương sau đó (Hội nghị lần thứ 7, 8) đã bàn và
ra nghị quyết về công tác tư tưởng và công tác quần chúng của Đảng; thực hiện
nghị quyết Đại hội Đảng VII, từ tháng 12/1996 chúng ta tiến hành tổng kết công

1
2

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 125
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 125


19
tác xây dựng Đảng giai đoạn 1975- 1995 khá công phu; Đại hội VIII, trong
nhiệm kỳ Đại hội,Trung ương và cấp ủy các cấp có nhiều quyết định quan trọng
về xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương 3 bàn chuyên về chiến lược công tác
cán bộ và xây dựng bộ máy Nhà nước, Hội nghị TW6 (lần2) ra Nghị quyết về
một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng, mở cuộc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng. Đại hội IX tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây
dựng Đảng, tập trung làm tốt các công tác quan trọng sau đây: “ Giáo dục tư
tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân”;
“Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ”1; “Xây dựng củng cố các tổ chức cơ sở
đảng”, “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”
Với tầm nhìn chiến lược và sự phát triểnasangs tạo tư duy lý luận Đại
hội X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc... xây dựng Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức” 2. Đồng thời, đại hội
khẳng định đường lối của Đảng ta là: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý
luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề cuộc sống đặt ra.” 3
Từ Đại hội X đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng toàn đảng toàn dân và

toàn quân ta, tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững, tăng cường bản
chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự
1

2
3

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,Hà Nội 2006, tr 130.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,Hà Nội 2006, tr 131


20
trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức,
cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với
nhân dân, bảo đảm cho Đảng hoàn thành trách nhiệm là đội tiên phong lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Ngày nay, quán triệt tư tưởng của Tuyên ngôn về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân địi hỏi Đảng phải khơng ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng
cao hơn nữa năng lực và sức mạnh của Đảng về mọi mặt, coi xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, để
đảm bảo cho Đảng luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp cơng
nhân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, nhất là nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh
đốn Đảng, làm cho Đảng ta thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi cuối cùng.
Trong bối cảnh quốc tế cũng như khu vực hiện nay. Quân đội nhân dân Việt
Nam là cơng cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung
thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân. Chúng ta
phải không ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị và
trình độ trí tuệ, phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của người quân nhân đảng viên cộng sản, góp phần giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công

nhân của Đảng, quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng với Tổ quốc với
nhân dân trong mọi tình huống, ln hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà
Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó.
“Đất nước ta ngày càng lớn mạnh. Thế giới đang thay đổi rất nhanh. Nước
ta phải sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta
phải được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.


21
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta, triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thử
thách, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ
nghĩa, nhằm thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước
khẩn trương của thời đại”1

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, trang 139



×