Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

93. TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ CHÍNH ĐỐN ĐẢNG, Ý NGHĨA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.8 KB, 28 trang )

Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN


TƯ TƯỞNG
TƯỞNG CỦA
CỦA C.
C. MÁC
MÁC VÀ
VÀ PH.
PH. ĂNGGHEN
ĂNGGHEN VỀ
VỀ CHÍNH
CHÍNH ĐẢNG,
ĐẢNG, Ý
Ý
NGHĨA
ĐỐI
VỚI
XÂY
DỰNG
CHỈNH
ĐỐN
ĐẢNG
TA
HIỆN
NAY
NGHĨA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY



Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU
Những ngày tháng hai lịch sử vừa qua, những người cộng sản, phong
trào cơng nhân và tồn thể lồi người tiến bộ trên thế giới kỷ niệm trọng thể
160 năm ngày ra đời của bản : “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ( 24/ 02/
1848 – 24/02/ 2008 ) bản tuyên ngôn đánh dấu sự ra đời của một chính đảng
cách mạng của giai cấp cơng nhân đó là ĐCS . Từ đây giai cấp vơ sản đã có
một hệ tư tưởng khoa học dẫn đường, đồng thời có một chính Đảng cách
BẮC
BẮC NINH,
NINH, THÁNG
THÁNG 55 NĂM
NĂM 2013
2013
mạng đủ khả năng vạch ra chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống giâi cấp tư sản, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình. Tư
tưởng Mác- Ăngghen về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã
được đề cập ở rất nhiều tác phẩm trong đó tập trung nhiều nhất ở các tác
phẩm như : tác phẩm “ Gia đình thần thánh” do Mác và Ăngghen viết từ
tháng 9 đến tháng 10 năm1844; “ Điều lệ của lien đoàn nhữnh người cộng
sản” 1848 “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” 1848 ; “ Phê phán cương lĩnh
Gô Ta” 1875; trong các tác phẩm nêu ở trên, tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” là tác phẩm đánh dấu sự ra đời của một học thuyết cách
mạng- học thuyết Mác, một thế giới quan khoa học của CNCS . Lênin cũng

đã chỉ ra: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong
xi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho mơn khoa học mà những người XHCN cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.1
Nghiên cứu học thuyết Mác về xây dựng Đảng, chúng ta thấy thực
chất cơ bản của học thuyết là sự khái quát những nguyên lý về xây dựng Đảng
bao gồm những nội dung: Tư tưởng của Mác - Ăngghen về tính tất yếu khách
quan phải thành lập Đảng của giai cấp công nhân; quy luật ra đời của Đảng; t1

1. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.4, tr.232.


3

ư tưởng của Mác - Ăngghen về những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, loài người đã đạt được những
thành tựu to lớn về văn hoá, khoa học, tư tưởng với những phát minh vạch
thời đại như Thuyết tương đối của Anhxtanh, Thuyết tiến hoá của Đácuyn.
Cũng ở thời gian này cách mạng tư sản diễn ra ở khắp nơi trên thế giới.
Về tình hình kinh tế, xã hội ở Châu Âu: Những năm giữa thế kỷ XIX
phương thức sản xuất TBCN đã phát triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển
của nền đại cơng nghiệp, giai cấp cơng nhân có sự gia tăng nhanh chóng cả về
số lượng và chất lượng. Tỷ trọng giai cấp công nhân công nghiệp tăng đáng
kể, đây là bộ phận hạt nhân của giai cấp công nhân.
Với sự phát triển của CNTBN do lực lượng sản xuất có tính chất xã
hội hố ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên
vũ đài chính trị đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Chính vì thế, mâu thuẫn
giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên gay gắt. Những cuộc

đấu tranh của giai cấp vô sản trong những năm 30, đầu những năm 40 của thế
kỷ XIX đã cho thấy vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp vơ sản, tuy các
cuộc đấu tranh đó đều thất bại, nhưng ý thức chính trị của giai cấp vơ sản đã
được nâng lên một tầm cao mới , đó là ý thức đấu tranh giành chính quyền, ý
thức xố bỏ chế độ tư hữu, dành quyền lợi về tay mình .
Vào những năm này, các trào lưu tư tưởng hình thành đa dạng, phong
phú và phức tạp. Song, trào lưu tư tưởng có ảnh hưởng nhiều nhất tới phong
trào vô sản là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Xi Mơng, Xác-LơPuriê, Rơ Be Ơoen. Điểm tiến bộ trong tư tưởng của các ông là mong muốn
xây dựng một chế độ công bằng, bác ái, mọi người đều có quyền bình đẳng.
Nhưng những tư tưởng này lại có những hạn chế rất cơ bản là không giải


4

thích được bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa; chưa vạch ra được quy luật vận
động phát triển của xã hội; chưa nhận thấy được vai trò, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản. Những hạn chế này không những không đáp ứng được yêu
cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản mà cịn kìm hãm sự thống nhất về tư
tưởng trong phong trào công nhân. Trong khi đó, giai cấp cơng nhân, phong
trào cơng nhân đã phát triển mạnh mẽ CNXH không tưởng không thể đáp ứng
được sự phát triển này, địi hỏi phải có một lý luận tiên tiến dẫn đường.
Cùng thời điểm, ở Châu Âu xuất hiện nhiều tổ chức của giai cấp vô
sản, song chưa có tổ chức nào thể hiện rõ tính chất của một tổ chức chính trị.
Một trong những tổ chức được C. Mác và Ph. Ăngghen quan tâm nhiều hơn là
“Liên đồn những người chính nghĩa” (thành lập 1836) do Jiô Dép Môn lãnh
đạo. Đây là một tổ chức mang tính quốc tế, bao gồm những phần tử tiên tiến
của giai cấp vô sản ở nhiều nước tham gia. “Liên đồn những người chính
nghĩa” chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng CNXH không tưởng . Từ khi
không tham gia tổ chức này mà chỉ tác động nhằm chuyển hoá, đến khi hai
ông trực tiếp tham gia, bằng quan điểm lý luận sắc bén của mình và sự đấu

tranh khơng khoan nhượng buộc những người trong ban chấp hành trung
ương“Liên đồn những người chính nghĩa” đã đồng ý những điều kiện do C.
Mác và Ph. Ăngghen đưa ra, tại Đại hội của “Liên đồn những người chính
nghĩa” C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày rõ những quan điểm chính trị của
mình, Đại hội thảo luận và thừa nhận những quan điểm đó. Đại hội đổi tên
“Liên đồn những người chính nghĩa” thành “Liên đoàn những người Cộng
sản”, đổi khẩu hiệu, chương trình hành động “Tất cả mọi người đều là anh
em” thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Đại hội thống
nhất coi đây là Đại hội lần thứ nhất của “Liên đoàn những người Cộng sản”
và tuyên bố: “ Điều 1. mục đích của liên đoàn là: lật đổ giai cấp tư sản, lập
nền thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội cũ, tư sản, dựa trên sự đối


5

kháng giai cấp, và xây dựng một xã hội mới khơng có giai cấp và khơng có
chế độ tư hữu”2. Trong điều lệ cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa các thành viên
trong liên đoàn “ Điều 3. tất cả hội viên của liên đồn đều bình đẳng, họ là
anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau như anh em” 3.
Trong một thời gian ngắn: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời và
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự ra đời của một học
thuyết cách mạng - Học thuyết Mác, một thế giới quan khoa học của CNCS .
Sau khi bản: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời CNTB và các thế lực
thù địch điên cuồng chống phá chúng cấu kết với nhau để trừ khử mối đe
dọa tới quyền lợi của chúng: “ Một bóng ma đang ám ảnh châu âu: bóng ma
chủ nghĩa cộng sản. tất cả những thế lực của châu âu cũ:Giáo hồng và nga
hồng, Mét-téc-ních và Ghi- dô, bọn cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát Đức, đều
đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó ” 4.
Trong khi đó phong trào cơng nhân đang phát triển rất mạnh mẽ thì một bộ
phận những người trong ban chấp hành bị phân tán, do bị trục xuất hoặc bị kẻ

thù truy bức, đã có dấu hiệu phân rã về tư tưởng hoặc nóng vội chủ quan duy
ý chí, do vậy việc lãnh đạo phong trào công nhân gặp rất nhiều khó khăn, vì
thế trong suốt qng đời cịn lại của mình C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục
dùng ngịi bút của mình để vạch trần âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, tiếp tục bổ
xung những luận điểm mới để lãnh đạo phong trào, đồng thời hai ơng tích cực
tham gia vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm đưa phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân lên một tầm cao mới . Chính vì thế một
loạt các tác phẩm của hai ông đã ra đời .
* Nơi dung tiểu luận
2

C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, tâp 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 732

3

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tâp 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 733

4

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tâp 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.595


6

Tư tưởng của c. Mác và Ph. Ăngghen về chính đảng cách mạng của giai
cấp công nhân, giá trị của những tư tưởng đó đối với xây dựng chỉnh đốn
đảng ta hiện nay.
Phần 1: Tư tưởng của c. Mác và Ph. Ăngghen về chính đảng cách
mạng của giai cấp cơng nhân.
1. Tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về tính tất yếu khách quan phải

thành lập Đảng cộng sản .
Trong các tác phẩm Mác và Ăngghen đã sử dụng tài tình phép biện
chứng duy vật để luận giải mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để xem xét một xã
hội cụ thể, đó chính là xã hội tư bản. Đó là sự luận giải sự hình thành, phát
triển và tất yếu diệt vong của giai cấp tư sản, đồng thời làm rõ sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản, khẳng định giai cấp vơ sản chỉ có thể giải
phóng tồn xã hội và chỉ rõ: giai cấp vô sản không thể hồn thành sứ mệnh
lịch sử nếu khơng thành lập được chính đảng của giai cấp. Đảng Cộng sản
ra đời là vấn đề tất yếu khách quan, là sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu
tranh chính trị của giai cấp cơng nhân với giai cấp tư sản, ĐCS ra đời là
điều kiên tiên quyết để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Qua quá trình nghiên cứu về cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội hai ông
đã khẳng định: “ Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ
là lịch sử đấu tranh giai cấp” 5. Bằng phương pháp tư duy biện chứng, Mác
và Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự phát triển của xã hội
loài người. Theo hai ông, lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ
cộng sản nguyên thuỷ cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
các giai cấp bị áp bức bóc lột với giai cấp bóc lột, người tự do và người nơ lệ,
5

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr .597


7

q tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói
tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với
nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm
ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo

cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh
với nhau. Mác và Ăngghen cho rằng xã hội tư bản hiện đại, sinh ra từ trong
lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, khơng xố bỏ được những đối kháng
giai cấp. Nó chỉ đem lại những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới,
những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện
áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thơi. Ngun nhân sâu xa nguồn gốc
của sự hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp đó là do mâu thuẫn về lợi
ích . vì vậy trong xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn
thù địch với nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản
của sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của
CNTB và thắng lợi của CNCS. Mặc dù áp dụng những thành quả mới của
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những công trường thủ công được thay thế
bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ cơng trường, xí nghệp nay thành
nhà tư sản hiện đại. Các ông cho rằng, đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế
giới, thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương
tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường. Sự phát triển này lại
tác động trở lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà công nghiệp, thương
nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên,
làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại
xuống phía sau:“ Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy
một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực


8

lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại ” 6. Tuy nhiên hai ông
đã nghiên cứu và phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư đây là vấn đề bản chất
chứng minh sự bóc lột giai cấp công nhân của giai cấp tư sản, làm cho giai
cấp cơng nhân nhận rõ ai đang bóc lột mình và cần phải làm gì . Trên thực tế

cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân đã có từ rất sớm song đó chỉ là cuộc
đấu tranh đơn thuần về kinh tế như : đập phá máy móc, đòi tăng lương, giảm
giờ làm v.v.. Từ khi lý luận mác thâm nhập vào phong trào cơng nhân thì cựơc
đấu tranh đó bước sang một giai đoạn mới, nó tuân thủ quy luật diễn ra từ
thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, do vậy cuộc đấu tranh chính trị của
giai cấp công nhân là biểu hiện tập trung nhất găy go quyết liệt nhất, khi đấu
tranh đạt tới trình độ chính trị địi hỏi phải có một lãnh tụ chính trị để lãnh
đạo. Như vậy, khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một
vai trị hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất đang lên, giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp
phong kiến quí tộc, giành địa vị thống trị xã hội. Sau khi nắm được chính
quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá huỷ những quan hệ sản xuất phong
kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập sự thống trị của quan hệ sản xuất
TBCN. Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, xoá bỏ tất cả những gì khơng phù hợp với lợi ích của bản thân giai cấp
mình, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Để thực hiện mục đích chính trị, quyền thống trị của mình, giai cấp tư
sản vốn đã có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng
của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản
hoá giai cấp và đối kháng giai cấp mà thơi. thực trạng đó đã phân chia xã hội
thành hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản nảy sinh ngay từ khi CNTB ra đời. Sự tiến bộ của lịch sử
6

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr .603


9

không chỉ do công lao riêng của giai cấp tư sản mà trước hết là do công lao

của quần chúng nhân lao động. Đặc biệt, Mác và Ăngghen chỉ rõ: khi thiết lập
quyền thống trị, giai cấp tư sản đã bóc lột giai cấp vơ sản và quần chúng nhân
dân lao động hết sức tinh vi và xảo quyệt. Xã hội tư bản chứa đựng đầy dẫy
các tệ nạn xã hội : nạn thất nghiệp, tệ mại dâm … Nó tạo ra một thứ đạo đức
mới có tiền bằng mọi giá, không để lại giữa người với người một mối quan hệ
nào khác ngồi lợi ích trần trụi và lối tiền trao cháo múc khơng tình nghĩa :
“Giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia
đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn
thuần”7.
Giai cấp tư sản đã biến phẩm giá của con người thành giá trị trao đổi;
nó đã đem tự do bn bán duy nhất thay cho biết bao quyền tự do đã được
ban cho và đã giành được một cách chính đáng: “Tóm lại, giai cấp tư sản đã
đem sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được
che đậy bằng những ảo tưởng tơn giáo và chính trị”8.
Giai cấp tư sản càng đầu tư sản xuất bấy nhiêu, mâu thuẫn giai cấp
càng sâu sắc bấy nhiêu. Với bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột, giai
cấp tư sản khơng những đã rèn vũ khí để giết mình mà nó cịn tạo ra những
người sử dụng vũ khí ấy, đó chính là giai cấp công nhân hiện đại. Mác và
Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự diệt vong khơng thể tránh
khỏi của CNTB, về tính tất yếu của sự quá độ từ CNTB sang một hình thái
kinh tế xã hội cao hơn đó là chủ CNCS. Hai ơng chỉ rõ bước q độ đó khơng
phải diễn ra tự phát mà phải bằng con đường cách mạng. Hai ông đã phát hiện
ra lực lượng xã hội có khả năng thực hiện bước q độ đó là giai cấp cơng
nhân - giai cấp vơ sản hiện đại, là người có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn
CNTB và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCNvà CSCN . Sứ
7
8

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.
C. Mác và Ph. Ăngghen,Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.



10

mệnh lịch sử đó là khách quan do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản
trong lịch sử quy định.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp tiêu biểu cho
lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất
đại công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại cơng nghiệp, cho nên
giai cấp vơ sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất,
có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật
cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Mác và
Ăngghen còn chỉ rõ : “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp
tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp,
cịn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.9
Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó thì điều kiện tiên
quyết là giai cấp vơ sản phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì chỉ
khi nào giai cấp vơ sản tổ chức được chính đảng chính trị độc lập của mình,
thì khi đó cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, chính nền đại công nghiệp đã
tôi luyện giai cấp công nhân :“ Nói chung, những xung đột xảy ra trong xã
hội cũ đã thúc đảy quá trình phát triển của giai cấp vô sản về nhiều mặt. Giai
cấp tư sản sống trong một trạng thái chiến tranh không ngừng: trước hết
chống lại quý tộc, sau đó, chống lại các bộ phận của chính ngay giai cấp tư
sản mà quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối cùng, luôn
luôn chống lại giai cấp tư sản của tất cả các nước ngoài. Trong hết thảy
những cuộc đấu tranh ấy, giai cấp tư sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi giai
cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức, và do đó, lơi cuốn họ vào phong trào chính
trị. Thành thử, giai cấp tư sản đã cung cấp cho những người vô sản những tri

9

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.610.


11

thức của bản thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó”. 10 Đề cập
đến nội dung và pham vi của cuộc đấu tranh hai ông đã viết: “Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải
là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh
dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh tốn
xong giai cấp tư sản nước mình đã”11. Theo hai ông, khi cuộc đấu tranh giai
cấp phát triển đến một trình độ nào đó thì chính đảng của giai cấp ra đời.
Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu
tranh giai cấp đạt đến trình độ địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất mọi hoạt
động của giai cấp, nhằm hướng các nỗ lực chung vào mục tiêu chống lại giai
cấp đối lập và nhà nước thống trị của giai cấp đó. Đó chính là giai cấp và nhà
nước tư sản.
Chính đảng của giai cấp cơng nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách
quan của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, là
điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Theo Mác và Ăng ghen, vai trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp công
nhân được quyết định trước hết là do địa vị của giai cấp đó trong nền sản xuất
xã hội, chứ khơng phải chỉ vì số lượng của giai cấp đó, hoặc chỉ vì nó là giai
cấp bị bóc lột nhiều nhất trong xã hội tư bản. Là giai cấp tiêu biểu cho lực
lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất
cơng nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, là giai cấp
bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải đi làm thuê cho nhà tư sản. Giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất,

có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật
cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trị lãnh đạo cách mạng.

10
11

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.
C. Mác và Ph. Ăng ghen:Sách đã dẫn, tập 4, tr.611.


12

Tuy nhiên, theo Mác và Ăngghen, giai cấp công nhân muốn thực hiện
được vai trị lịch sử thế giới thì điều kiện tiên quyết là giai cấp công nhân phải
tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì, chỉ khi nào giai cấp vơ sản tổ
chức được chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc sang đấu
tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, và cũng chỉ khi đó thì giai cấp vơ sản
mới chuyển từ giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”. Việc tổ chức giai
cấp cơng nhân thành một chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của
cách mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng của nó là : thủ tiêu các
giai cấp, Ăngghen còn chỉ rõ: “Để cho giai cấp vô sản đủ vững mạnh để
chiến thắng trong giờ phút quyết định, cần phải - và điều này Mác và tôi chủ
trương từ năm 1847- thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác
và đối lập hẳn với các đảng này, một đảng giai cấp tự giác”12.
Như vậy, theo tư tưởng của Mác và Ăngghen:giai cấp công nhân muốn
thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình phải thành lập chính đảng cách
mạng của giai cấp vô sản.
-Xuất phát từ sự ra đời của các Đảng cộng sản và công nhân thế giới cũng
như Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng minh tính tất yếu khách quan sự ra

đời của Đảng cộng sản .
Ngay sau khi “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ” ra đời phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân bước sang một giai đoạn mới, cuộc đấu tranh
không chỉ đơn thuần về kinh tế mà nó chuyển sang đấu tranh kinh tế kết hợp
với đấu tranh chính trị, từ đấu tranh tự phát nay đã chuyển dần sang đấu tranh
tự giác có tổ chức, nhiều nước ĐCS đã ra đời kịp thời lãnh đạo phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân. tiếp thu những thành tựu vĩ đại về lý luận của
Mác và Ăngghen, V.I Lênin đã trung thành và phát triển sáng tạo những
12

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 704.


13

nguyên lý của chủ nghĩa Mác về chính Đảng cách mạng của giai cấp công
nhân, ông đã xây dựng một chính đảng cách mạng ở Nga, kiên quyết đấu
tranh với các thế lực thù địch, tiến hành lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân
dân lao động làm cuộc cách mạng tháng mười nga vĩ đại, xây dựng một nước
XHCN đầu tiên trên thế giới, như vậy lý luận của Mác, Ăngghen đã được
chứng minh trên thực tế. Sau cách mạng tháng mười Nga một loạt các ĐCS ra
đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và tiến lên XHCN, đặc biệt
sau đại chiến thế giới lần thứ hai năm 1945 một loạt nước XHCN ra đời.
Việt Nam vào cuối thế kỷ XI X đầu thế kỷ XX là nước thuộc địa nửa
phong kiến , nhièu cuộc đấu tranh đã nổ ra nhưng đều bị thất bại, bởi vì chưa
có một đường lối đúng đắn, giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé chưa có Đảng lãnh
đạo. Từ khi chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin
vào Việt Nam và thành lập Đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động chuyển sang một giai đoạn mới, cách mạng
Việt Nam dành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác và ngày nay đang vững

bước trên con đường XHCN.
Bằng những cơ sở đã trình bày ở trên cả về lý luận và thực tiễn đã chứng
minh rằng tư tưởng của Mác- Ăngghen về tính tất yếu khách quan phải thành
lập ĐCS là hoàn toàn đúng đắn .
2. Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội
khoa học với phong trào công nhân
Chính đảng của giai cấp vơ sản mà Mác và Ăngghen đề cập tới phải là
một đảng cách mạng, một đảng độc lập mang bản chất giai cấp vô sản rõ rệt,
độc lập cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư
sản, không bị giai cấp tư sản lợi dụng, Đảng gắn bó chặt chẽ với giai cấp vơ
sản và nhân dân lao động. chính Mác và Ăngghen là những người đầu tiên đề
ra tư tưởng về sự kết hợp CNXH khoa học với phong trào công nhân. Lênin


14

khẳng định “việc hướng CNXH đi đến chỗ kết hợp với phong trào cơng nhân,
đó là cơng lao chủ yếu của Mác và của Ăngghen: Hai ông đã sáng tạo ra một
lý luận cách mạng, lý luận giải thích tính tất yếu của sự kết hợp ấy và đề ra
nhiệm vụ cho những người XHCN là phải tổ chức cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản”13 Thực tiễn lịch sử xã hội loài người cho chúng ta thấy
quy luật về sự ra đời của giai cấp mang tính tự phát, nguyên nhân do tư hữu
và bóc lột, tuy nhiên ĐCS ra đời lại phụ thuộc vào yếu tố tự giác. Giai cấp
công nhân và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân là cơ sở xã hội là
tiền đề vật chất cho sự ra đời của ĐCS, tuy nhiên phong trào công nhân ở các
nước đều trải qua một thời kỳ đấu tranh tự phát theo Lênin : cuộc đấu tranh
của cơng đồn ở các nước tư bản chỉ là nhằm thay đổi một hình thức bóc lột
này bằng một hình thức bóc lột khác. Trên thực tế từ khi có giai cấp tư sản thì
đương nhiên giai cấp công nhân và phong trào công nhân ra đời và đương
nhiên nó ra đời trước CNXH khoa học, do đó khi chưa có CNXH khoa học thì

phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra tự phát , khi CNXH khoa
học ra đời thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra tự giác, bởi
vì CNXH khoa học là vũ khí tư tưởng lý luận của giai cấp cơng nhân , nó là
biểu hiện tập trung lập trường triệt để cách mạng của giai cấp công nhân Mác
và Ăngghen đã viết: Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi có
thâm nhập vào quần chúng . Như vậy khi CNXH khoa học hay chủ nghĩa Mác
chưa kết hợp được với phong trào cơng nhân, thì về mặt tổ chức, sự phát triển
cao nhất của nó cũng chỉ dẫn đến sự ra đời của các hội truyền bá chủ nghĩa
Mác. Khi CNXH khoa học kết hợp với phong trào công nhân thì giai cấp cơng
nhân mới giác ngộ đước sứ mệnh lịch sử của mình, đồng thời ý thức được sự
cần thiết phải tổ chức ra chính đảng của mình mới lãnh đạo cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân giành thắng lợi . Mác đã phê phán những quan điểm
13

V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.4, tr.308


15

của Lát xan và đồng bọn trong nhiều vấn đề được thể hiện trong cương lĩnh
Gô ta và không chấp nhận các quan điểm của phái này, ông cho rằng những
quan điểm của phái Lát xan vơ hình dung làm suy yếu, làm tổn hại đến phong
trào công nhân : "Nghĩa vụ của tôi là không được thừa nhận, dù là bằng
một sự im lặng ngoại giao đi nữa, một cương lĩnh mà tơi tin chắc là hồn
tồn vơ dụng và đang làm cho Đảng bị mất tinh thần". 14 Trong cuộc đấu
tranh không khoan nhượng với các tư tưởng tư sản và các tư tưởng xuyên tạc
CNXH khoa học mác đã tập trung phê phán những quan điểm của phái Lát
xan và đồng bọn như : phê phán cái gọi là “ Quy luật sắt về tiền công” ; phê
phán cái gọi là “ Thực hiện phân phối công bằng, là đòi sản phẩm mà lao
động thuộc về mọi thành viên trong xã hội” ; phê phán quan điểm coi giai cấp

công nhân là hết thảy, quan điểm về nhà nước v.v.. Tất cả các quan điểm đó
đều chống lại CNXH khoa học do đó Mác khẳng định : "Lát xan thuộc làu
cuốn "Tuyên ngôn cộng sản” cũng như các tiến đồ của ông ta thuộc những
thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta xuyên tạc cuốn "Tun ngơn" một
cách thơ bỉ như thế vì đó chỉ là để biện hộ cho sự liên minh của ông ta với
những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp tư sản”

15

;Như vậy

phái Lát xan mang danh CNCS nhưng thực tế đang chống lại CNCS.
Sự kết hợp CNXH khoa học với phong trào cơng nhân, đó là quy
luật phổ biến của sự ra đời của các chính đảng vơ sản, q trình kết hợp đó địi
hỏi phải tiến hành một cách khoa học, phải đấu tranh kiên quyết với tư tưởng tư
sản và các trào lưu cơ hội thì đảng mới ra đời và lãnh đạo giai cấp công nhân,
nhân dân lao động làm cách mạng lật đổ sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản
giành quyền thống trị xã hội về tay giai cấp mình .
14

C.Mác và Ăng ghen tồn tập. Tập 19. Nxb CTQG. HN.1995. Tr. 24

15

C.Mác và Ăng ghen toàn tập. Tập 19. Nxb CTQG. HN.1995. Tr. 39


16

3. Tư tưởng của Mác- Ăngghen về những nguyên tắc tổ chức và

hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân .
Như chúng ta đã biết, Mác - Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên
những tư tưởng cơ bản về tổ chức và hoạt động của ĐCS. Đồng thời Mác,
Ăngghen đã đích thân tham gia vào phong trào công nhân để giác ngộ giai
cấp công nhân và từng bước xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp
vô sản. Việc các ông tham gia cải tổ “Liên đồn những người chính nghĩa”
thành “Liên đồn những người cộng sản” - tổ chức Đảng vô sản đầu tiên của
giai cấp cơng nhân và hoạt động tích cực trong “Liên đoàn” là thể hiện sự vận
dụng những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng vô sản vào
thực tiễn. Lênin khẳng định: “Liên đoàn những người cộng sản là một Đảng
đã được thành lập lúc bấy giờ, tuy không đông lắm nhưng thực sự vô sản”.16
Mác và Ăngghen đã thảo ra “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và
“Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản”; Ăngghen viết “Về lịch sử Liên
đoàn những ngời cộng sản”. Sau này Mác trực tiếp soạn thảo “Tuyên ngôn
thành lập Hội liên hiệp công nhân quốc tế” và cùng Ăngghen soạn thảo “Điều
lệ chung và các quy chế hành chính” của Quốc tế thứ nhất, đó chính là những
văn kiện có tính chất cương lĩnh và cơ sở tổ chức của các tổ chức cộng sản tiền
bối.
Là những nhà sáng lập ra chính đảng vơ sản đầu tiên trong lịch sử
phong trào công nhân, bằng những văn kiện nổi tiếng nói trên, Mác và
Ăngghen đã có những cống hiến vô giá trong việc nêu ra và lý giải những
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản. Những nguyên tắc đó là:
- Đảng cộng sản là một tổ chức độc lập mang bản chất giai cấp công
nhân rõ rệt. Như Mác, Ăngghen khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh của
mình, chống quyền lực liên hợp của các giai cấp có của, giai cấp cơng nhân
16

16

V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.459.



17

chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các
chính đảng cũ do giai cấp có của lập nên, thì mới có thể hành động với tư
cách là một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp cơng nhân thành một
chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và thắng
lợi của mục tiêu đích cuối cùng của nó là: Thủ tiêu các giai cấp”17. Những
quan điểm trên của Mác, Ăngghen về đảng độc lập nghĩa là ĐCS phải độc lập
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Về
bản chất, Đảng là một tổ chức chính trị đối lập với các đảng phái chính trị tư
sản và giai cấp tư sản, song trong quan hệ với giai cấp công nhân ĐCS không
tách rời giai cấp mà là một bộ phận của giai cấp, gắn bó mật thiết với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Đảng không đối lập với các đảng và các tổ
chức khác của giai cấp công nhân. Ngược lại, Đảng phải tích cực hoạt động
trong các tổ chức đó, phải đưa các tư tưởng của CNXH khoa học vào trong
các tổ chức đó, hướng hoạt động của các tổ chức đó vào quỹ đạo của cách
mạng vô sản.
Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để
giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt động của Đảng. Cương lĩnh,
chiến lược, sách lược của Đảng phải ln xuất phát từ lợi ích của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động và phù hợp với thực tiễn của mỗi nước.
Trên cơ sở khẳng định ĐCS là một tổ chức độc lập, mang bản chất giai
cấp công nhân rõ rệt, Mác và Ăngghen đòi hỏi Đảng phải khác các bộ phận
còn lại của giai cấp ở chỗ: Đảng là đội tiền phong của giai cấp, Đảng được
trang bị bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác ngộ cao, đồng thời trong thực
tiễn Đảng là người kiên quyết nhất và biết lôi cuốn quần chúng cùng hành
động. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ:
17


.17 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1983, t.4, tr.207.


18

“Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một
là, trong các cuộc đấu tranh của những ngời vô sản thuộc các dân tộc khác
nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích khơng phụ thuộc vào dân
tộc và chung cho tồn thể giai cấp vơ sản; hai là, trong các giai đoạn khác
nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ ln ln đại biểu cho lợi
ích của toàn thể phong trào.
Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là một bộ phận kiên
quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc
đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp
vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào vơ sản”18.
Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, tính tiên phong của Đảng đợc thể hiện:
Về mặt thực tiễn, Đảng cộng sản phải là bộ phận kiên quyết nhất của giai cấp
vô sản; về lý luận: những người cộng sản hơn bộ phận khác cịn lại của giai cấp
vơ sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào, do đó Mác và Ăngghen rất chú trọng công tác giáo dục lập trường giai cấp
công nhân “ Nhưng không một phút nào ĐCS lại quên giáo dục cho công
nhân một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vơ sản, để khi có thời cơ thì cơng nhân Đức biết sử dụng những
điều kiện chính trị và xã hội do sự thống trị của giai cấp tư sản tạo ra, như là
vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi đánh đổ xong những giai
cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính ngay giai
cấp tư sản .”19
Một chính đảng như thế, đương nhiên phải là đội tiên phong, lãnh tụ

chính trị và là bộ tham mưu chiến đấu, là hình thức tổ chức cao nhất của giai
cấp vô sản. Đảng phải bao gồm những phần tử ưu tú, tiên tiến nhất, có giác ngộ
18
19

C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.4, tr 614.615
. C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.4, tr 645

18


19

CSCN, có nghị lực cách mạng, tự nguyện phấn đấu hy sinh để thực hiện lý tưởng CSCN, phục tùng nghị quyết của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ Đảng giao. Tư tưởng đó thể hiện nhất quán một nguyên tắc là
không được hạ thấp Đảng xuống ngang giai cấp, khơng được xóa nhịa ranh
giới giữa đảng viên và quần chúng tích cực ngồi Đảng. Đã là đảng viên của
Đảng bao giờ cũng phải là ngời tiên phong, giác ngộ, tích cực, gương mẫu hơn
quần chúng cả về lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, ĐCS phải là những người giác ngộ CSCN, được trang
bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học để từ đó hiểu rõ điều kiện, tiến
trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Đảng cộng sản là đội tiên
phong, bộ tham mu chiến đấu, vạch ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược cho
giai cấp, do vậy ĐCS phải được trang bị lý luận tiên phong và phải thực sự
tiên phong về mặt lý luận. ĐCS phải lấy những nguyên lý của CNXH khoa
học làm nền tảng tư tưởng, có như vậy mới xác định đúng đắn các vấn đề
trong lãnh đạo và xây dựng Đảng. Chỉ khi được lý luận tiên phong dẫn đường
và tích cực đấu tranh bảo vệ tư tưởng khoa học thì ĐCS mới làm trịn sứ
mệnh của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen khơng những là người đầu tiên nêu
lên những tư tưởng về chính đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân mà cịn

là những người đầu tiên tham gia gây dựng chính đảng cách mạng của giai
cấp công nhân. Đồng thời các ông đã tích cực tuyên truyền phổ biến sâu rộng
CNXH khoa học tới đại bộ phận giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
toàn thế giới.
- Đảng phải được xây dựng trên những nguyên tắc dân chủ triệt để.
Vấn đề này đã được Mác, Ăngghen nêu rất cụ thể trong “Điều lệ của Liên
đoàn những người cộng sản”: “Các uỷ viên ban chấp hành khu bộ và Ban
chấp hành trung ương được bầu hàng năm, có quyền được bầu lại và có thể


20

bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”20, hoặc: “Nếu Ban
chấp hành trung ương thấy rằng việc thảo luận một số vấn đề nào đó là mối
quan tâm chung và trực tiếp, thì có thể đưa những vấn đề ấy ra cho toàn thể
Liên đoàn thảo luận”21. Mọi đảng viên đều bình đẳng, được tự do thảo luận
những vấn đề sinh hoạt đảng, được tranh luận trong khn khổ tính đảng; các
đảng viên phải giúp đỡ lẫn nhau, thường xuyên nộp đảng phí, người vi phạm
Điều lệ Đảng sẽ bị khai trừ hoặc đình chỉ sinh hoạt đảng; kiên quyết chống
những phần tử vô tổ chức, những phần tử cơ hội và xét lại. Thực hiện tốt
nguyên tắc trên sẽ phát huy đầy đủ trí tuệ của mọi đảng viên tham gia, đóng
góp vào các đờng lối, chủ trơng, chiến lợc, sách lợc lãnh đạo của Đảng; đảm
bảo cho các vấn đó đợc chặt chẽ, chính xác, phù hợp với điều kiện hồn cảnh
thực tiễn, có tính khả thi cao; nội bộ Đảng đồn kết, thống nhất ý chí và hành
động; q trình xác định đường lối cũng như trong triển khai, tổ chức thực
hiện hạn chế được các sai lầm, thiếu sót.
- Đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, phù hợp với điều kiện và thời gian hoạt động của Đảng ở tất cả các
cấp, với những nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết. Sự thống nhất về tư ưởng
và tổ chức của Đảng là khơng gì có thể phá vỡ nổi, Đảng phải ln ln là

một tổ chức có tính chiến đấu và năng động trong hoạt động thực tiễn. Thật
vậy, xuất phát từ: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là
mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những ngứời vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản
giành lấy chính quyền”22, nếu Đảng khơng được tổ chức chặt chẽ, khơng có
sự thống nhất cao về tư tưởng và tổ chức thì Đảng khơng thể có đủ sức mạnh
để tập hợp, lãnh đạo giai cấp đứng lên đấu tranh lật đổ sự thống trị của giai
C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.4, tr 735.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.4, tr 736.
22
22C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.4, tr 615.
20

20.

21

21.


21

cấp tư sản. Về mặt cơ cấu tổ chức của Đảng cũng được quy định hết sức chặt
chẽ trong “Điều lệ của Liên đoàn những ngời cộng sản”, tổ chức của Đảng được thành lập từ cấp chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, đến Ban chấp hành trung ương và Đại hội với những quy định về số lượng thành viên, nguyên tắc hoạt
động, quyền hạn lãnh đạo, chế độ hội họp, báo cáo,…nhằm đảm bảo cho bộ
máy của Đảng vận hành thơng suốt, có hiệu quả từ Trung ương tới chi bộ.
- Về điều kiện, tiêu chuẩn người vào Đảng cũng được Mác, Ăngghen
đề cập cụ thể trong “Điều lệ của Liên đồn những ngời cộng sản”, đó là
những người có lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích của ĐCS; có
nghị lực cách mạng và lịng nhiệt thành trong cơng tác tun truyền; thừa

nhận CNCS; không tham gia vào mọi tổ chức - tổ chức chính trị hoặc tổ chức
dân tộc - chống cộng sản, và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan lãnh đạo hữu
quan về việc mình tham gia vào một tổ chức nào đó; phục tùng các nghị quyết
của Đảng; giữ bí mật mọi cơng việc của Đảng; được một chi bộ nhất trí kết
nạp. Với những điều kiện, tiêu chuẩn như vậy sẽ đảm bảo cho đội ngũ đảng
viên của Đảng thực sự là những con người tiêu biểu, hơn hẳn quần chúng
ngoài Đảng cả về nhận thức, tư tưởng, hành động, đủ sức lơi kéo, vận động,
thuyết phục tồn thể giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác tham
gia vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp bóc lột.
- Chủ nghĩa quốc tế vơ sản là một trong những nguyên tắc căn bản của
công tác xây dựng Đảng. Khẩu hiệu : “Vô sản tất cả các nước, đồn kết lại”
trong “Tun ngơn của Đảng cộng sản” đã trở thành phương châm hành động
cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong cuộc đấu tranh chống
lại tồn bộ giai cấp tư sản bóc lột, nếu độc lập, tách rời, khơng có sự đồn kết,
thống nhất của các ĐCS và giai cấp vô sản tất cả các nước thì chắc chắn cuộc
đấu tranh đó khơng thể đi đến thắng lợi trọn vẹn, sẽ bị giai cấp tư sản cấu kết
quay lại đàn áp, đè bẹp phong trào.


22

Từ một số nội dung nguyên tắc chủ yếu nêu trên, có thể khẳng định:
Những tư tưởng thiên tài về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính đảng
cách mạng của giai cấp công nhân do Mác, Ăngghen khởi xướng đã có ảnh
hưởng to lớn và trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Sự ra đời và hoạt động của “Liên đoàn những người cộng
sản”, của Quốc tế I (1864 - 1872) và Quốc tế II (1889 - 1914) (khi Ăngghen
còn sống), và sau này khi Lênin phát triển sáng tạo những luận điểm của
Mác, Ăngghen về Đảng, xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân, dựa trên những quan điểm của Lênin, Đảng Bơnsêvích Nga ra

đời, năm 1919 Quốc tế III - Quốc tế cộng sản được thành lập đã đóng vai trị
to lớn cho sự ra đời của hàng loạt các ĐCS trên thế giới.

Phần 2. Giá trị của tư tưởng của C. Mác và Ăngghen về
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đối với xây dựng
chỉnh đốn Đảng CSVN hiện nay
Xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Mác
Ăngghen về xây dựng Đảng, đến nay những luận điểm, nguyên lý ấy vẫn còn
nguyên giá trị, trên bình diên thế giới quan, phương pháp luận chỉ dẫn phong
trào đấu tranh của giai cấp công và nhân dân lao động trên toàn thế giới, đồng
thời gắn với sự hình thành và phát triển của các ĐCS trên phạm vi toàn thế
giới. Những nội dung tư tưởng của Mác và Ăngghen về xây dựng Đảng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng và giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Những tư tưởng của hai ông về xây dựng Đảng là những
chỉ dẫn hết sức quan trọng, có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng và hoạt
động của các Đảng Cộng sản trên tồn thế giới . Nó được Lênin, Hồ Chí Minh
và những lãnh tụ cộng sản trên thế giới khơng những vận dụng trung thành mà
cịn bảo vệ, phát triển trở thành một học thuyết cách mạng, khoa học của giai cấp
vô sản thế giới. Trung thành và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin


23

cũng như những tư tưởng về xây dựng Đảng, trong suốt quá trình tìm đường
cứu nước và lãnh đạo cách mạng Viêt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
địnhng “ Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin ” 23 . Người ra
sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt nNam, trước hết vào phong trào
công nhân . ĐCS N ra đời, đó là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Từ ngày thành lập đến nay,

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội, cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản, góp phần vào
sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới và của phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế. Đảng luôn khẳng định việc nâng cao bản chất giai cấp cơng
nhân, tính tiên phong của Đảng là tư tưởng xun suốt trong công tác xây
dựng Đảng; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, cả về lý luận và thực tiễn, cả về cương lĩnh, đường lối, tổ
chức của Đảng và tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Trong
tác phẩm HCM có đoạn viết: “ Ngay từ khi ĐCSVN mới thành lập, trong
chính cương vắn tắt do người khởi thảo, đã khẳng định sự lựa chọn con
đường XHCN khi đặt nhiiệm vụ giải phóng dân tộc trong triển vọng tiến lên
CNXH. Thật vậy, tư tưởng HCM đã làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa giải
phóng dân tộc với CNXH, đặt nền tảng cho bước chuyển biến từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN ở nước ta. Đây là tư tưởng
lớn thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội Việt Nam”24. Bằng
23

24

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 2, Nxb chính trị quốc gia, H 1995, tr 268

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội . 1994, t.1, tr.10


24

sự vận dụng trung thành sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây

dựng Đảng, với tình cảm u nước thương nịi và phẩm chất trí tuệ đặc biệt
Hồ Chí Minh đã tổ chức tuyên truyền, giáo dục truyền bá những quan điểm
đó vào Việt Nam và dẫn tới việc thành lập ĐCSVN: “ Đầu năm 1930 , Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra ĐCSVN. Chánh cương, sách lược, điều lệ
của Đảng và lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do người soạn thảo cùng
với luận cương tháng 10 năm 1930 do TWĐ thông qua đã vạch ra đường lối
chiến lược, sách lược cách mạng, tính chất và nguyên tắc tổ chức Đảng - đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam ”25. Bằng lý luận và thực tiễn
ĐCVN và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác .
Ngày nay, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng XHCN, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đất nước đang
đặt ra những yêu cầu mới, địi hỏi sự nỗ lực cố gắng của tồn Đảng, tồn dân,
đặc biệt là vai trị tiên phong của Đảng. Trong khi xác định xây dựng kinh tế
là trọng tâm, Đảng ta coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Kiên trì giữ
vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh
về mọi mặt là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi
mới đất nước ta hiện nay. Đánh giá về những thành tựu đã đạt được qua 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về công tác xây dựng Đảng,
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: “ Công tác xây dựng Đảng đạt
một số kết quả tích cực. Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, cơng tác tổ chức
và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở, phát triển đảng, cơng tác kiểm tra có những chuyển biến mới. Đa số cán
bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động sáng tạo, giữ gìn phẩm

25

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội . 1994, t.3, tr.7



25

chất đạo đức”26. Để đạt được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng
đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, điều hành
năng động của chính phủ và nỗ lực của tồn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X cũng chỉ ra những yếu
kém, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng: “ Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức
cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề
phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng cịn thiếu tính thuyết phục. Cơng tác lý
luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi
mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu
quả kiểm tra, giám sát chưa cao”27. Những khuyết điểm và yếu kém nói trên
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ yếu là nguyên nhân chủ
quan: “Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở
tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống
nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách chỉ đạo
điều hành”28. Như vậy, trong cơng tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã nhìn nhận,
đánh giá đúng đắn những thành tựu, chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm và tìm
ra nguyên nhân yếu kém để khắc phục sửa chữa, nhằm lãnh đạo cách mạng
Việt Nam thắng lợi.
Vì vậy, phải ln tuyệt đối kiên định với sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước càng đòi hỏi phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo và phát huy
25.26 ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội,2006,
tr.61,65
26


27
28

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.65.


×