Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

105. TẬP TRUNG DÂN CHỦ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC CƠ BẢN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.42 KB, 28 trang )

Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

TẬP
TẬP TRUNG
TRUNG DÂN
DÂN CHỦ
CHỦ -- NGUYÊN
NGUYÊN TẮC
TẮC TỔ
TỔ CHỨC
CHỨC CƠ
CƠ BẢN
BẢN
CỦA
CỦA ĐẢNG
ĐẢNG CỘNG
CỘNG SẢN
SẢN VIỆT
VIỆT NAM.
NAM. Ý
Ý NGHĨA
NGHĨA ĐỐI
ĐỐI VỚI
VỚI CÔNG
CÔNG
TÁC
TÁC XÂY
XÂY DỰNG
DỰNG CHỈNH


CHỈNH ĐỐN
ĐỐN ĐẢNG
ĐẢNG TRONG
TRONG ĐẢNG
ĐẢNG BỘ
BỘ QUÂN
QUÂN
ĐỘI
ĐỘI HIỆN
HIỆN NAY
NAY


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2
MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt nam là Đảng của giai cấp cơng nhân Việt nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt nam sáng lập, giáo dục,
rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn trung thành tuyệt đối với những nguyên lý
cơ bản của học thuyết Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, vận dụng
sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt nam để
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng ta có đủ
sức mạnh lãnh đạo nhânBẮC
dân cả nước đoàn
kết chiến đấu, vượt
qua muôn vàn thử thách,

BẮC NINH,
NINH, THÁNG
THÁNG 55 NĂM
NĂM 2013
2013
đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong các nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng ta
đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt, và hoạt động của Đảng. Cùng với chính trị và tư
tưởng, nó bảo đảm tăng cường sự đồn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, làm cho Đảng trở
thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của các tổ chức Đảng và mọi đảng viên. Đồng thời nguyên tắc tập trung dân chủ luôn
luôn là mục tiêu mà kẻ thù tìm mọi cách chống phá hịng phá vỡ sự đoàn kết thống nhất
của Đảng, làm tan rã, phân liệt Đảng về mặt tổ chức. Những năm gần đây, cùng với việc
tấn công vào chủ nghĩa Mác-Lênin - cơ sở tư tưởng của Đảng - chúng cũng tấn công quyết
liệt vào nguyên tắc tập trung dân chủ - cơ sở tổ chức của Đảng. Chúng rêu rao rằng các
Đảng Cộng sản là chuyên quyền, độc tài; ra sức cổ suý, tán dương, kích động các đảng
thực hiện đa nguyên chính trị, dân chủ cực đoan, trong Đảng có nhiều phe phái khác nhau,
có nhiều nhóm đối lập. Chúng lên án ngun tắc tập trung dân chủ, địi xố bỏ nguyên tắc
này. Theo họ, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên
quyền, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và trong xã hội sẽ khơng có dân
chủ, khơng có nhân đạo...(!)
Chính việc kẻ thù ra sức chĩa mũi nhọn cơng kích vào nguyên tắc tập trung
dân chủ càng cho ta thấy rõ hơn vị trí, vai trị cực kỳ quan trọng của nguyên tắc


3
tập trung dân chủ. Chúng muốn ta phủ nhận nguyên tắc, từ đó phủ nhận vai trị
lãnh đạo của Đảng, làm tan rã Đảng về mặt tổ chức. Nếu không có nhận thức đúng
đắn về ngun tắc, khơng kiên định lập trường, chúng ta sẽ bị rơi vào “cái bẫy” của

chúng. Vì vậy, để Đảng ta ln ln phát huy được sức mạnh của khối đồn kết
thống nhất, ln giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với đất nước, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới, đặc biệt trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều biến
động phức tạp khó lường hiện nay, địi hỏi Đảng phải khắc phục những nhận thức
lệch lạc trong Đảng về nguyên tắc tập trung dân chủ, tuân thủ triệt để, vận dụng
đúng đắn nguyên tắc vào công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, trong đó, đối với
chúng ta, có xây dựng chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ quân đội. Để hiểu rõ nguyên
tắc, chúng ta lần lượt làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan.
1.Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng.
1.1. Tâp trung dân chủ là tất yếu khách quan trong xây dựng tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập trung dân chủ là nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới về mặt tổ chức của giai
cấp công nhân được C. Mác và Ph. Ăngghen đặt cơ sở, V. I. Lênin khái quát, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và thực hiện. Đảng Cộng sản Việt nam xây dựng và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ chính là sự trung thành và vận dụng đúng đắn
sáng tạo học thuyết Mác-Lênin,, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Tư tưởng đó
xuất phát từ những đặc điểm và đòi hỏi khách quan của phong trào cách mạng của giai
cấp vô sản.
Chúng ta biết rằng, Đảng Cộng sản là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu,
là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân - là giai cấp do địa vị của mình trong
nền sản xuất xã hội, từ khi ra đời và trong suốt q trình hoạt động, ln gắn liền với nền
sản xuất cơng nghiệp. Chính u cầu của nền sản xuất đại công nghiệp đã từng bước tôi
luyện cho giai cấp cơng nhân có những thuộc tính cơ bản như tính tập trung hố cao độ, ý
thức, trình độ tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật hết sức nghiêm minh. Cũng chính từ mơi
trường đó, đã nảy sinh ra tư tưởng đoàn kết, hợp tác, dân chủ, tập thể, tương trợ lẫn nhau


4
để cùng sản xuất ra một sản phẩm, cùng chung sức, chung lịng đấu tranh địi quyền lợi

chính đáng của mình. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vơ
sản phải đương đầu với một kẻ thù giai cấp có tổ chức, có bộ máy Nhà nước hùng hậu, có
sự liên minh quốc tế - đó là giai cấp tư sản. Muốn chiến thắng nó, giai cấp vơ sản phải
được tổ chức lại, phải có sự đoàn kết thống nhất. Từ yêu cầu khách quan của nền sản xuất
công nghiệp và đấu tranh giai cấp, tính tập trung và tính dân chủ trong giai cấp cơng nhân
được hình thành và phát triển. Chính vì vậy, Đảng của giai cấp vô sản phải là người tiêu
biểu cho đoàn kết thống nhất, tập trung dân chủ trong Đảng là tất yếu khách quan.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học và Đảng của giai cấp vô sản ngay từ
đầu và trong suốt cả quá trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của mình đã luôn luôn
thấm nhuần sâu sắc tinh thần tập trung dân chủ, kiên quyết đấu tranh chống những
khuynh hướng cơ hội, xét lại về mặt tổ chức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng.
Là những người sáng lập ra Đảng Cộng sản đầu tiên trong lịch sử phong trào công
nhân, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu lên những tư tưởng cơ bản về tổ chức và hoạt động
của Đảng Cộng sản. Hai ông đã đưa tư tưởng về xây dựng một Đảng vô sản trên cơ sở
nguyên tắc tập trung dân chủ vào Điều lệ của liên đồn những người cộng sản (năm
1847), Tun ngơn của Đảng Cộng sản (năm 1848), và các văn kiện của Hội liên hiệp
cơng nhân quốc tế (năm 1864). Đó là, Đảng Cộng sản phải là một tổ chức độc lập mang
bản chất giai cấp công nhân rõ rệt, “Đảng công nhân phải hành động sao cho thật có tổ
chức, thật thống nhất, thật độc lập nhất, nếu như nó khơng muốn... lại bị giai cấp tư sản
lợi dụng và phải bám đi nó mà lê đi”1. Đảng phải được xây dựng trên những nguyên
tắc dân chủ triệt để; các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bầu ra đều có thể bị thay thế
hoặc bãi miễn; mọi đảng viên đều bình đẳng, được tự do thảo luận những vấn đề sinh
hoạt đảng, được tranh luận trong khn khổ tính đảng, các đảng viên phải giúp đỡ
lẫn nhau, thường xuyên nộp đảng phí, người vi phạm Điều lệ Đảng sẽ bị khai trừ
1

C. Mác và Ph. Ăngghen, tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, T.7, tr. 342-343.



5
hoặc đình chỉ sinh hoạt đảng; kiên quyết chống những phần tử vô tổ chức, những
phần tử cơ hội, xét lại...
Dưới ánh sáng của những tư tưởng đó, trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin
đã kế thừa và phát triển, khái quát lên thành nguyên tắc tập trung dân chủ. Thuật
ngữ này ( tập trung dân chủ ) được nêu lên lần đầu tiên với tư cách là một nguyên
tắc chính thức - nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Đảng Cộng sản - tại Hội nghị
Tammécpho của những người Bơn sê vích năm 1905. Nghị quyết của Hội nghị nêu
rõ: Thừa nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc không thể tranh cãi
được. Theo V. I. Lênin: “Các đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản phải được xây dựng
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong thời kì nội chiến gay gắt hiện nay, Đảng
cộng sản chỉ có thể hồn thành nhiệm vụ của mình nếu Đảng được tổ chức một
cách tập trung nhất, nếu trong Đảng có một kỷ luật sắt gần giống như kỷ luật quân
sự và nếu trung Trung ương Đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực
rộng rãi được toàn thể đảng viên tin cậy”2. Lênin đã kịch liệt phê phán quan điểm
của bọn cơ hội chủ nghĩa, chủ trương tổ chức một đảng không có hình thù rõ rệt,
khơng địi hỏi đảng viên phải tham gia hoạt động trong một tổ chức đảng, không
cần có nguyên tắc tập trung dân chủ ngay từ Đại hội II Đảng công nhân dân chủ-xã
hội Nga (1903). Trong cuộc đấu tranh về mặt tổ chức của Đảng xoay quanh tiết 1
của điều lệ Đảng, V. I. Lênin đã coi công thức của Mác tốp là một công thức vô
dụng, mang nội dung tư tưởng cơ hội chủ nghĩa về mặt tổ chức.
Người nhấn mạnh: “ Giai cấp vô sản có thể thực hiện một cách đúng đắn vai
trị tổ chức của nó (và đó là vai trị chính của nó) một cách có kết quả và thắng lợi
thì chính đảng của giai cấp vơ sản phải thực hiện được trong nội bộ của mình, một
chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt... Kẻ nào làm yếu dù chỉ là
một chút ít – kỷ luật sắt trong đảng của giai cấp vô sản... là thực tế giúp cho giai
cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản” 3. Lênin cho rằng, kẻ nào từ chối không chịu
phục tùng kỷ luật Đảng, làm yếu kỷ luật Đảng “ tức là từ chối không muốn làm
đảng viên, tức là phá hoại đảng”4.
2


V. I. Lênin, toàn tập, NXB tiến bộ Mát xcơva, 1977, T. 41, tr. 34.
V. I. Lênin, toàn tập, NXB tiến bộ Mát xcơva, 1977, T. 41, tr. 34.
4
V. I. Lênin, toàn tập, NXB tiến bộ Mát xcơva, 1977, T.8, tr 424.
3


6
Nguyên tắc tập trung dân chủ theo Lênin là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và sinh hoạt Đảng. Không tn thủ ngun tắc này thì khơng cịn là một Đảng
Mác- xít nữa. Hồ Chí Minh khơng chỉ tn thủ luận điểm này của Lênin trong xây
dựng và củng cố Đảng cộng sản Việt Nam mà còn bổ sung làm sáng tỏ bản chất
của tập trung, dân chủ và mối quan hệ giữa chúng trong sinh hoạt Đảng. Theo Hồ
Chí Minh “ tập trung” không hề mâu thuẫn với: “ dân chủ” mà nó thống nhất, tác
động qua lại với nhau. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội. Song
dân chủ khơng có nghĩa là vơ chính phủ. Người viết: “ chế độ ta là chế độ dân chủ,
tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do
bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là
một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân
lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý” 5. Trong khi
chỉ đạo nguyên tắc tập trung dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng yếu tố
tập trung, kỷ luật thống nhất; đồng thời nhấn mạnh phát triển dân chủ nội bộ Đảng.
Người cho rằng bản chất của chế độ ta là dân chủ, “ dân chủ là cái quí nhất của
nhân dân” do đó cũng là cái q nhất của mỗi đảng viên. Nếu thực hành dân chủ
nội bộ tốt sẽ làm cho Đảng phát huy, phát triển và tập trung được trí tuệ, tạo nên
bầu khơng khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, làm cho Đảng thốt khỏi tình trạng “âm
u” thiếu đoàn kết - một nhân tố làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Mở rộng dân chủ
còn chống được tệ độc đốn, chun quyền trong Đảng. Hồ Chí Minh là một hiện
thân của dân chủ và gương mẫu thực hành dân chủ. Dân chủ đã thành nếp hằn sâu

trong tư chất, phong cách và đời thường của Người. Từ Người, những vấn đề về
“tập trung”, “ dân chủ” đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong xây dựng, sinh hoạt
và hoạt động của Đảng ta. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam ln đồn kết thống
nhất, trong sạch vững mạnh.
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng, từ lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
đã khẳng định vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với việc xây
dựng và hoạt động của Đảng cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ mang bản
chất tổ chức của giai cấp công nhân. Giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc này là
5

Hồ Chí Minh, tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1996, T.8, tr 126


7
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trên lĩnh vực tổ
chức. Phủ nhận và từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng từ bản
chất.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “ Tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính Đảng kiểu mới của các giai cấp cơng
nhân, Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Phủ nhận nguyên tắc
này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền song triệt để tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ có
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ mới có thể vừa chống được bè phái, bảo
đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Chỉ có như vậy, Đảng mới có sức
mạnh và sức chiến đấu”6.
Khẳng định nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng cộng sản,
được hiểu là nguyên tắc này chỉ đạo tồn bộ và xun suốt q trình xây dựng, tổ chức,
sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Nó được biểu hiện:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định việc xây dựng cơ cấu hình thức tổ

chức của Đảng như thủ tục thành lập, các chế độ đại hội, chế độ thủ tục bầu cử các
cơ quan lãnh đạo của Đảng, quy định cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng từ Trung
ương đến cơ sở, cơ cấu chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức đảng và cơ quan
lãnh đạo của các tổ chức đó… bảo đảm cho Đảng là một chỉnh thể có tổ chức chặt
chẽ, kỷ luật nghiêm minh, đồn kết thống nhất cả ý chí và hành động.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo việc giải quyết các mối quan hệ trong
nội bộ Đảng. Đó là mối quan hệ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới thực hiện vô điều kiện nghị quyết của cấp trên. Giữa cá nhân
với tổ chức, giữa địa phương với Trung ương… giải quyết tốt các mối quan hệ đó
thì mọi đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị của Đảng được thực hiện một
cách triệt để, nhanh chóng, và chính xác, tránh được tình trạng “trên phát” nhưng
“dưới không động” dưới làm nhưng trên khơng biết, ỉ lại trơng chờ vào trên hay
“khốn trắng” cho cấp dưới, công việc không biết giao cho ai “nhiều sãi khơng ai
đóng cửa chùa” và như vậy hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo sẽ bị hạn chế. Thực hiện tốt
6

Đảng Cộng sản Việt nam, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 130.


8
nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho Đảng là một “guồng máy” chặt chẽ,
thống nhất, kỷ luật tự giác nghiêm minh.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các chế độ sinh hoạt Đảng và
phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vừa giữ vững được nguyên
tắc, vừa mềm dẻo linh hoạt về chủ trương biện pháp. Nhờ đó đã làm cho các tổ
chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phát huy được ý thức trách nhiệm cao, tính
chủ động, tích cực, sáng tạo trong cơng việc, đồng thời tập trung được trí tuệ và
sức mạnh của toàn Đảng.
Đối với nội dung này, Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) nhấn mạnh: “Giữ
vững chế độ sinh hoạt định kỳ của các tổ chức Đảng, mở rộng dân chủ, khuyến

khích tranh luận thẳng thắn; tơn trọng, tập hợp và xem xét để tiếp thu ý kiến đúng
đắn của các cấp uỷ viên và đảng viên trước khi quyết định… Khi có ý kiến khác
nhau phải thảo luận kỹ, đối với những vấn đề quan trọng phải biểu quyết, khi cần,
phải điều tra khảo sát, làm thí điểm rồi kết luận; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số có quyền báo cáo lên cấp trên” (1).
Và như vậy Đảng sẽ khắc phục được tệ quan liêu, gia trưởng, độc đoán,
chuyên quyền, đồng thời khắc phục được tình trạng dân chủ q trớn, dân chủ vơ
chính phủ.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng về mặt tổ chức. Đồng thời sự thống nhất về mặt tổ chức là điều kiện vật chất
để bảo đảm cho sự thống nhất về mặt chính trị, tư tưởng được giữ vững và biến
thành hiện thực. Nó là điều kiện cơ bản, là “vỏ cứng” là “xương sống” để Đảng tồn
tại và phát triển.
Chúng ta biết rằng, Đảng là một chỉnh thể thống nhất cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, mỗi yếu tố có vị trí vai trị riêng, trong đó yếu tố chính trị đóng
vai trị quyết định. Nhưng khi có đường lối đúng thì cơng tác tổ chức đóng vai trị
quan trọng để biến đường lối thành hiện thực.
Một kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy rằng, chỉ có sự thống nhất về
chính trị, tư tưởng thì đó mới chỉ là trào lưu chính trị, tư tưởng, thiếu sự gắn kết về


9
mặt tổ chức để trào lưu đó biến thành hiện thực. Còn khi bị tan rã về mặt tổ chức
(từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ) thì Đảng sẽ bị tan rã. Trong khi đó, nếu Đảng
thiếu thống nhất về chính trị tư tưởng, mà tổ chức vẫn chặt chẽ thì Đảng vẫn cịn
tồn tại và là cơ sở để thống nhất và phát huy về mặt chính trị, tư tưởng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo tồn bộ cơng tác tổ chức, sinh hoạt
và mọi hoạt động của Đảng; Nó thể hiện bản chất và sự sống cịn của Đảng, là tiêu
chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng cách mạng
chân chính và các đảng phái khác; Nó đảm bảo cho Đảng ln ln là một khối

đồn kết thống nhất, phát huy được trí tuệ của tồn Đảng, làm cho Đảng có tổ chức
chặt chẽ, có kỷ luật cao và sức mạnh to lớn, đủ sức lãnh đạo hệ thống chính trị và
tồn xã hội, đưa cách mạng đến thành cơng. Ngun tắc tập trung dân chủ cịn là
tiêu chuẩn để phân biệt giữa Đảng Mácxít-Lênin nít với Đảng cơ hội, cải lương và
là thước đo tính đảng của người đảng viên cộng sản chân chính với các phần tử tự
do, vơ chính phủ, kém tính tổ chức, tính kỷ luật.
Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ còn thể hiện từ kinh nghiệm thực
tiễn trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta và của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Đối với Đảng ta, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành ln vận dụng đúng đắn, sáng tạo và kiên trì thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong mọi giai đoạn của cách mạng, những lúc thuận lợi cũng như
lúc khó khăn, thời bình cũng như thời chiến, khi chưa có chính quyền cũng như khi
Đảng đã xác lập được chính quyền… Trong mọi điều kiện, Đảng ta ln ln là
một khối đồn kết thống nhất về ý chí và hành động, thực sự là một chỉnh thể có tổ
chức để đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, thời cơ và
thách thức đan xen nhau, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của sự nghiệp lãnh đạo của Đảng,
trong đó có nguyên nhân cơ bản là Đảng ta đã trung thành vận dụng sáng tạo


10
nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng, không dao động, chao
đảo trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới.
Khơng ai có thể phủ nhận những thành quả mà phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế đã mang lại, phong trào mà có thời điểm đã phát triển rất rực rỡ. Bắt
đầu từ cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại, Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới
ra đời, làm hạt nhân cho sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa. Kể từ đó, phong

trào cộng sản và cơng nhân quốc tế phát triển trên quy mô rộng lớn, đẩy lùi chủ
nghĩa phát xít, có vai trị quan trọng trong giữ vững hồ bình, ổn định trên thế giới,
từng bước, thu hẹp phạm vi của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Nhưng
trong quá trình cải tổ cải cách, đổi mới, trước sự tấn công phá hoại của kẻ thù,
Đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và Đông Âu đã xa rời, phủ nhận những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, ngộ nhận, buông lỏng hoặc xa rời nguyên tắc
tập trung dân chủ, rơi vào cái bẫy “dân chủ hố, cơng khai hố” và “ đa ngun, đa
đảng” mà kẻ thù đã giăng, làm rối loạn và đi đến làm tan rã Đảng, làm mất chính
quyền cơng nơng. Đảng ta cho rằng, đây là một trong bốn nguyên nhân dẫn đến sự
khủng hoảng, phân liệt của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Từ đặc điểm hoạt động, bản chất của giai cấp cơng nhân, từ vai trị của
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt, hoạt động của Đảng; từ thực
tiễn xây dựng và hoạt động của Đảng ta và phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, chúng ta khẳng định: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng và
hoạt động của Đảng cộng sản là tất yếu khách quan. Đây là cơ sở vững chắc bảo
đảm cho Đảng đứng vững trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước qua các giai đoạn
cách mạng. Khơng thể có sự tồn tại vai trị lãnh đạo của một Đảng cộng sản, nếu
Đảng đó từ bỏ, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.
1.2.Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh thuộc tính bản chất của
giai cấp công nhân. Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất của hai
thành tố tập trung và dân chủ. Sự thống nhất đó khơng phải là ngẫu nhiên, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân và bởi việc Đảng cộng sản phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đó đến


11
thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Tập trung trên nền tảng dân
chủ… Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung”(1).
Tập trung nhằm tạo sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, quan điểm, đường
lối, về tổ chức và hành động toàn Đảng làm cho Đảng thống nhất về tư tưởng và

hành động, tạo sự thống nhất từ trên xuống dưới, có sự hiệp đồng, phối hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Tập trung có nghĩa là Đảng cộng sản phải
có một cương lĩnh cách mạng chung, có một điều lệ thống nhất, thể hiện những
tiêu chuẩn sinh hoạt đảng; tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải tuân theo. Tập
trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức đảng, các công tác của Đảng do một
trung tâm thực hiện là Đại hội đại biểu toàn quốc và giữa hai kỳ Đại hội là Ban
chấp hành Trung ương Đảng. Các nghị quyết của Đảng là biểu hiện ý chí của tồn
Đảng , bắt buộc các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tuân thủ
nghị quyết của Đảng là tuân thủ ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, tuân thủ
quyền dân chủ, kết quả hoạt động dân chủ của Đảng.Tập trung đòi hỏi phải có một
kỷ luật thống nhất, tinh thần tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, ý thức phục
tùng nghị quyết của Đảng. Tập trung trong Đảng biểu hiện uy quyền, sức mạnh về
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, hoạt động và
phát triển của Đảng cộng sản. Tập trung theo nguyên tắc tập trung dân chủ hoàn
toàn đối lập với tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng của cá nhân người lãnh
đạo hoặc cơ quan lãnh đạo cấp trên áp đặt ý kiến của mình cho cấp dưới. Tập trung
quan liêu là tập trung phi dân chủ, là tập trung không trên cơ sở dân chủ, không
phải là bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tập trung trên cơ sở dân chủ là tập trung trên cơ sở trí tuệ, sức mạnh của đa
số mà thiểu số phải phục tùng khác với tập trung quyền lực của thiểu số giai cấp
bóc lột bắt quần chúng nhân dân lao động phải thực hiện. Tập trung trên cơ sở dân
chủ nhằm xố bỏ chế độ áp bức bóc lột, thực hiện và bảo vệ lợi ích của Đảng, của
chế độ và của nhân dân lao động, khác với tập trung nhằm duy trì chế độ bóc lột,
bảo vệ chế độ áp bức bóc lột. Đó là tập trung trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, khác với tập trung trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Tập trung gắn liền với cấp dưới, với cơ sở, chịu sự kiểm tra, quyết định của


12
cơ sở, khác với tập trung nhằm trấn áp dưới, thốt ly cơ sở, thốt ly dân chủ, cản

trở bóp nghẹt dân chủ.
Đảng là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của Đảng là do
tính tích cực tự giác của tồn thể đảng viên. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới
có điều kiện rèn luyện, giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực, sự sáng
tạo của các cấp uỷ và của mọi cán bộ, đảng viên vào việc đề ra và thực hiện đường
lối chính sách, nghị quyết của Đảng. Mọi quyết định của: “tập trung” đều phải được hình thành và tổ chức thực hiện thông qua dân chủ. V. I. Lênin đã xác định
bản chất của dân chủ trong nội bộ Đảng là: tất cả mọi công việc của Đảng đều
được tồn thể các đảng viên hồn tồn bình quyền và khơng có ngoại lệ nào, tiến
hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách
nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng
đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn. Như vậy,
dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của đảng viên, là sự tham gia gia
tích cực của tồn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng một cách trực
tiếp hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch đường lối, chính sách, vào
việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Dân chủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ là dân chủ có lãnh đạo, có mục
đích và hướng tới sự tập trung, nó trái với dân chủ cực đoan, dân chủ vơ chính phủ.
Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải trên cơ sở tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. Hồ Chí Minh đã nói: “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập
trung, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ, tập trung…”7, nó khác
với dân chủ tràn lan, khơng giới hạn, dân chủ hình thức. Dân chủ có sự bảo đảm
của tập trung là dân chủ có tổ chức, trong tổ chức chứ khơng phải là vơ tổ chức, là
dân chủ có tính định hướng rõ ràng. Dân chủ dựa trên sự bình đẳng, thống nhất
mục tiêu, lợi ích khác với dân chủ dựa trên sự bất cơng, bất bình đẳng mang bản
chất của chế độ áp bức bóc lột. Dân chủ trong Đảng là dân chủ thuộc về đa số buộc
thiểu số phải phục tùng nhằm để xoá bỏ chế độ bóc lột, khác với dân chủ chỉ thực
sự với tầng lớp quý tộc, với giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong xã hội còn đối với
quần chúng nhân dân lao động thì chỉ là hình thức. Dân chủ có sự bảo đảm của tập
7


Hồ Chí Minh tồn tập, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 1996,T5, tr 505


13
trung nhằm tạo ra sức mạnh bằng sự đoàn kết, tập trung, thống nhất, hồn tồn
khác với dân chủ vơ chính phủ, vơ tổ chức tạo ra sự chia rẽ, bè phái, bản vị cục bộ
địa phương, phá vỡ sự đoàn kết tập trung, thống nhất trong Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và
dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một
nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiên đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ
sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Thực hiện và phát huy dân chủ
trong Đảng phải gắn liền với giữ vững, tăng cường tập trung và ngược lại. Trên cơ
sở thống nhất và tác động biện chứng giữa hai yếu tố đó thì dân chủ ngày càng
phát triển, tập trung càng vững chắc. Nhận thức và thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ sẽ phát huy và làm tăng cường sức mạnh của Đảng. Khi tập trung
trên cơ sở dân chủ thì càng thúc đẩy, cổ vũ cho dân chủ có chất lượng hơn. Cịn
dân chủ hướng tới tập trung, đi tới sự thống nhất thì dân chủ thực sự có mục đích,
có chất lượng. Nếu tập trung cao mà dân chủ bị hạn chế tức là tập trung khơng dựa
trên cơ sở dân chủ, đó là tập trung quan liêu, hình thức. Ngược lại, nếu mở rộng
dân chủ mà không hướng tới sự tập trung là dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, dân
chủ phường hội chứ không phải dân chủ theo nguyên tắc của Đảng, rút cục cũng
khơng bảo đảm dân chủ.
Nói đến nguyên tắc tập trung dân chủ là nói đến mối quan hệ giữa thiểu số và
đa số, giữa cấp dưới và cấp trên, giữa cá nhân và tổ chức. Đây là mối quan hệ biện
chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa hai mặt của một chỉnh thể thống nhất, giữa
tập trung và dân chủ trong hoạt động của Đảng. Bất kỳ mưu toan nào muốn tách
chúng ra thành những bộ phận riêng biệt khơng có liên hệ với nhau, cũng đều chỉ
có thể làm hại cho Đảng mà thơi. Đồng thời cũng kiên quyết chống lại bọn xét lại
đem đối lập hai khái niệm đó với nhau. V. I. Lênin đã diễn đạt hết sức rõ ràng,
ngắn gọn: “Trên báo chí của chúng tơi, chúng tơi ln ln bảo vệ dân chủ trong

nội bộ Đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế độ tập trung của Đảng.
Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ” 8. Do đó, đối với một Đảng Macxit
– Lêninit, trong tất cả mọi giai đoạn hoạt động, dân chủ và tập trung đều quan
8

V. I. Lênin, toàn tập, NXB tiến bộ Mát xcơva, 1980, T. 27, tr. 91.


14
trọng như nhau. Hai mặt đó, nếu đứng riêng một mình, tách rời nhau, cũng đều
khơng thể là cơ sở của việc xây dựng Đảng. Nếu dân chủ mà không tập trung thì
nhất định sẽ biến Đảng thành một khối tập hợp mơ hồ, khơng có sự thống nhất nội
bộ và tính tổ chức, và do đó, khơng thể thực hiện vai trị người lãnh đạo giai cấp vơ
sản và nhân dân lao động đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh đó. Ngược lại, nếu chỉ theo nguyên tắc tập trung thì Đảng có
nguy cơ biến thành một tổ chức bè phái, đóng cửa, xa rời quần chúng, mất khả
năng giáo dục đảng viên thành những chiến sĩ tiên phong, tự giác.
Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện đảm bảo cho tổ chức đảng cố
kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đồng thời phát huy
sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi đảng viên, mọi tổ chức đảng. Nghiên
cứu bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ chúng ta nghiêm khắc phê phán quan
điểm sai trái cho rằng: nguyên tắc tập trung dân chủ là sự gán ghép hai nguyên tắc
“tập trung” và “dân chủ”, đó là sự gán ghép hai yếu tố có xu hướng đối lập nhau,
từ đó quy kết bản chất của Đảng ta là thiếu tập trung thống nhất, lẫn lộn giữa tập
trung trên cơ sở dân chủ với tập trung quan liêu, giữa dân chủ có lãnh đạo với dân
chủ vơ tổ chức, vơ chính phủ.
Chúng ta cũng phê phán quan điểm cho rằng tập trung là “danh từ” dân chủ
là “tính từ”. Từ đó tuyệt đối hố “danh từ” tập trung, tầm thường hố “tính từ” dân
chủ, hay cho rằng tập trung là mục đích, dân chủ là phương tiện, cốt là đạt mục
đích cịn phương tiện nào cũng được. Tư tưởng đó dẫn đến hình thức tập trung

quan liêu, phi dân chủ trái với bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số
người lập luận cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đúng và thích hợp với
hoạt động của Đảng trong điều kiện Đảng hoạt động bí mật, hoặc trong thời kỳ
chiến tranh. Trong hồn cảnh đó phải có kỷ luật chặt chẽ, phải có tập trung thống
nhất cao độ, cịn trong điều kiện hồ bình xây dựng, kẻ thù khơng cịn, nhân dân
làm chủ, cần gì phải thực hiện chế độ tập trung, kỷ luật và chuyên chính (?). Lúc
này mà thực hiện dân chủ là không thức thời, là vi phạm dân chủ, là tạo điều kiện
để quay về chế độ phong kiến chuyên quyền (!)… và còn nhiều trào lưu tư tưởng
chống đối khác. Tất cả những quan điểm trên đây đều là sai trái, thực chất là hạ


15
thấp, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ để đi tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đây cịn là một trong những thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải hết sức
cảnh giác. Bảo vệ, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ là đòi hỏi khách quan đối
với mọi Đảng Cộng sản chân chính nói chung, Đảng ta nói riêng, nhất là trong tình
hình hiện nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng - lãnh tụ chính trị ,
đội tiên phong chiến đấu của giai cấp cơng nhân. Tuy nhiên, trong hồn cảnh mới
ngày nay, chúng ta phải hiểu và thực hiện nguyên tắc dân chủ một cách đúng đắn,
khơng máy móc, giáo điều, nắm vững những nội dung cơ bản của nguyên tắc.
1.3. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ:
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguyên tắc tập trung dân chủ, từ bài học gần đây của các đảng anh em và qua hoạt
động thực tiễn, Đảng ta đã chỉ rõ : “Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên
tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của nguyên tắc là:
1)

Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập


thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2)

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.

Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban chấp hành trung ương, ở mỗi cấp là ban
chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3)

Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình

trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thơng báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và
phê bình.
4)

Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng,

thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức,
các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp
hành Trung ương.


5)

16
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi

có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,

mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu
toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết không được truyền bá ý
kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu, xem xét ý
kiến đó, khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6) Tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”9
Như vậy, một mặt tập trung dân chủ có nghĩa là tất cả các cơ quan Đảng đều
phải do bầu cử mà ra và hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, thơng báo tình hình hoạt động của mình
đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê
bình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được bảo lưu, song phải chấp hành
nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng. Mặt khác, tập trung dân chủ có nghĩa là kỷ luật
nghiêm ngặt và thống nhất đối với toàn thể đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị
quyết của các cơ quan có thẩm quyền cấp trên. Điều đó bảo đảm cho công tác và
sự lãnh đạo của Đảng được tập trung, đoàn kết, tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí
và hành động của tồn Đảng. Ngun tắc tập trung dân chủ được biểu hiện thành
các chế độ như: Tổ chức và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung
ương đến cơ sở; Cơ cấu, hình thức tổ chức, bộ máy của Đảng từ trung ương đến cơ
sở; Chế độ báo cáo, thông báo, tự phê bình và phê bình; Nguyên tắc chế độ lãnh
đạo của Đảng; Chế độ chấp hành nghị quyết của Đảng; Chế độ giải quyết các mối
quan hệ trong nội bộ Đảng; Chế độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng…
Đối với tổ chức cơ sở đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ được cụ thể hoá ở
chế độ tổ chức và cơ cấu tổ chức của tổ chức cơ sở đảng, như chế độ quy định
trong đại hội, thời gian, thành phần số lượng đại biểu, chế độ bầu cử, điều kiện
Đảng cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng CSVN, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
2001,tr15-18
9



17
trúng cử, các nguyên tắc thủ tục tiến hành đại hội. Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn
của đảng viên, của tổ chức cơ sở đảng, giải quyết mối quan hệ công tác của tổ chức
cơ sở đảng như mối quan hệ giữa Đảng uỷ với người chỉ huy, Bí thư Đảng uỷ với
người chỉ huy, Đảng uỷ với các tổ chức quần chúng, Đảng uỷ với cấp uỷ, chính
quyền địa phương, Đảng uỷ với chi uỷ, chi bộ trực thuộc, Đảng uỷ với Đại hội,
Đảng uỷ với Thường vụ… Giải quyết tốt mối quan hệ đó, các tổ chức cơ sở Đảng
giữ vững mối đoàn kết, thống nhất cao, tăng thêm sức mạnh cho Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt”. Đối với cơ chế Đảng lãnh đạo
quân đội nguyên tắc tập trung dân chủ được cụ thể hoá thành nguyên tắc Đảng lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt quân đội nhân dân Việt Nam. Thực hiện tốt
nguyên tắc bảo đảm cho Đảng thường xuyên trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh
đạo quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.
2. Những vấn đề đặt ra nhằm giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng bộ quân đội hiện nay.
2.1. Tình hình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong những năm qua.
Trong quá trình xây dựng và hoạt động của mình, Đảng ta ln xác định tập
trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng. Ngay từ khi thành lập năm 1930, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt
Nam đã ghi rõ: tổ chức của Đảng phải “Tổ chức theo lối dân chủ tập trung” và “bất
cứ vấn đề nào đảng viên phải hết sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã
nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành” 10. Trong suốt quá trình
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, từ lúc Đảng chưa giành được chính quyền, đến khi
Đảng giành được chính quyền và trong giai đoạn hiện nay - Đảng đang lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước - Đảng ta đều trung thành vận dụng sáng tạo
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Chính vì vậy, đã làm cho Đảng ta luôn thống nhất, tập trung được sức mạnh, đứng
vững chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua muôn vàn khó khăn giành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.


10

Hồ Chí Minh tồn tập, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 1996,T3, tr 27.


18
Trong quá trình vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc biệt từ Đại hội
VIII đến nay, Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, nhiều cấp uỷ và tổ chức
Đảng ở các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nguyên tắc; tăng cường
hơn chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chế độ kiểm điểm công tác theo
định kỳ; tiến hành kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kỷ luật Đảng,
pháp luật Nhà nước, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong tồn Đảng, góp phần
thực hiện có kết quả các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng… mà Nghị
quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra. “Đã coi trọng cụ thể hoá và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong tập thể lãnh đạo khi thảo luận và ra
quyết định; xây dựng và thực hiện các quy chế theo hướng mở rộng dân chủ, công
khai, minh bạch”11.
Những chuyển biến tiến bộ về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ được
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII cụ thể như: đã thực hiện dân chủ trong
xây dựng và ban hành các Chủ trương, Đường lối, Nghị quyết của Đảng, Hiến
pháp, Pháp luật của Nhà nước. Mọi Chủ trương, Đường lối, Nghị quyết của Đảng
đều được thảo luận, lấy ý kiến của đảng viên và tổ chức đảng từ cơ sở lên. Sinh
hoạt của các cấp uỷ và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở hơn, các cấp
uỷ viên mạnh dạn trình bày ý kiến của riêng mình; tăng cường các hình thức giao
ban, hội nghị chuyên đề, hội thảo, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ chốt với đảng
viên và nhân dân. Việc thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong Đảng
và trong xã hội được tăng cường hơn; việc bầu cử trong Đảng, các đoàn thể và cơ
quan dân cử, cũng như trong phong cách lãnh lãnh đạo của Đảng có tiến bộ. Dân
chủ trong cơng tác tổ chức và cán bộ, đánh giá, tuyển chọn, đề bạt cán bộ được tiến

hành công khai, dân chủ tập thể hơn. Công tác cán bộ được thực hiện theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Tình trạng tuỳ tiện, cục bộ địa phương, mất đoàn kết nội bộ được chấn chỉnh kịp thời, những tổ chức cá nhân vi phạm bị xử lý kỷ luật.
Tuy nhiên, việc nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng vẫn còn những biểu hiện vi phạm ở các cấp với những hình thức biểu hiện và
mức độ khác nhau. Tình trạng phổ biến hiện nay là dân chủ mang tính hình thức,
dân chủ một chiều, khơng ít nơi tập thể chỉ là bình phong” để hợp thức hố ý chí
11

Đảng Cộng sản Việt nam


19
người đứng đầu, thực chất là tập trung quan liêu, độc đốn, gia trtưởng. Do dân
chủ hình thức nên khơng phát huy được vai trò năng động, sáng tạo và trí tuệ của
cán bộ, đảng viên làm cho đảng viên khơng muốn đóng góp ý kiến, ngại đấu tranh,
khi q bất bình thì viết thư nặc danh, mạo danh hoặc lôi kéo, bày cho quần chúng
đấu tranh… Đúng như đánh giá của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “
tập trung dân chủ – nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng đang bị vi phạm. Một số
cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Có vấn đề chỗ này, chỗ khác chế độ tập trung đang bị suy yếu. Tình trạng hiện nay
là dân chủ trong Đảng còn nhiều hạn chế. Sự tập trung quá mức tách khỏi cơ sở
dân chủ là một trong những nguyên nhân phát triển bệnh quan liêu. Sức mạnh là ở
chế độ tập trung, tập trung càng cao thì sức chiến đấu càng mạnh, nhưng đó phải là
tập trung trên cơ sở dân chủ. Thiếu dân chủ trong Đảng sẽ làm cho đảng viên trở
nên thụ động, mất dần vai trò làm chủ, mất dần tính tự giác sáng tạo, tạo “mảnh
đất tốt” cho tệ quan liêu ở một bộ phận trong Đảng”.12
Việc chấp hành kỷ luật trong Đảng, nghị quyết Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ
rõ: “ Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ
luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần
trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị Nghị quyết của Đảng, Pháp luật, chính sách của

Nhà nước, báo cáo không trung thực ,vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một
số Nghị quyết của Đảng khó vào cuộc sống”.13
Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khoá VIII đã chỉ ra “những biểu hiện vi
phạm đáng chú ý là:
- Một số cán bộ chủ chốt, người đứng đầu gia trưởng, độc đốn khơng thực
hiện đúng ngun tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là trong v iệc quyết
định chủ trương công tác và tổ chức cán bộ.

QĐNDVN. các chuyên đề nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, NXB
QĐNDVN, Hà Nội 2001, tr 261
13
ĐCSVN, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 6,
2001, tr 76
12


20
- Việc thực hiện và giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo , nhà nước quản lý
và nhân dân làm chủ cịn lúng túng dẫn đến có tình trạng cấp uỷ can thiệp quá sâu
vào công tác điều hành của cơ quan Nhà nước hoặc có Nghị quyết của cấp uỷ nhưng chính quyền khơng tổ chức thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
- Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng, nội dung không được
chuẩn bị chu đáo, thảo luận qua loa, nghị quyết không cụ thể và né tránh những
vấn đề gai góc. Nhiều vấn đề có tính ngun tắc khơng được biểu quyết, không
được kết luận rõ ràng hoặc không thảo luận mà biểu quyết. Các cấp uỷ viên không
phát huy đầy đủ trách nhiệm của mình. Do đó, tình trạng khá phổ biến là trong hội
nghị thì nhất trí nhưng ra ngồi lại nói khác hoặc khơng thực hiện; nói một đằng
làm một nẻo; khi đương chức thì khơng nói hoặc nói thế này, đến khi nghỉ chức vụ
hoặc chuyển công tác thì lại nói khác…
- Nhiều người lấy cớ “đề cao dân chủ tập thể” nhưng thực chất là người đứng
đầu cấp uỷ, cán bộ chủ chốt không dám đứng ra chịu trách nhiệm, khơng dám

quyết đốn, dựa dẫm vào tập thể. Ngược lại khơng ít trường hợp lại nhân danh tập
thể (cấp uỷ, chi bộ, đảng bộ…) ra nghị quyết, quyết định trái với nghị quyết của
cấp trên, vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc vượt quá thẩm quyền.
Có nơi cấp uỷ cấp dưới ra nghị quyết trái với nghị quyết của cấp uỷ cấp trên, bí thư
vượt quyền hạn Thường vụ, Ban thường vụ vượt quyền Ban chấp hành, Ban chấp
hành làm trái Nghị quyết Đại hội…
- Dân chủ không đi đôi với kỷ cương, kỷ luật, nói và làm tuỳ tiện chấp hành nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước khơng nghiêm. Có tình trạng vi phạm dân chủ,
gieo rắc những quan điểm trái với Đường lối, Nghị quyết của Đảng, tán phát “tờ rơi”, thư
nặc danh, mạo danh, đưa tin đồn để nói xấu, đả kích làm mất uy tín nhau, gây nghi ngờ,
chia rẽ, kéo bè, kéo cánh, làm mất đoàn kết nội bộ.
Nhìn chung, việc chỉ đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi
bị buông lỏng, tình trạng gia trưởng, độc đốn và dân chủ hình thức còn xảy ra ở
nhiều nơi, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước khơng được chấp hành nghiêm
chỉnh, tình trạng phát ngôn tuỳ tiện, truyền bá các quan điểm trái với Cương lĩnh,


21
Điều lệ và Nghị quyết của Đảng đang phát triển trong một số cán bộ, đảng viên, kể
cả một số cán bộ có q trình tham gia cách mạng lâu năm”14.
Đảng ta đã chỉ ra nguyên nhân của những khuyết điểm trên, trong đó có cả nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan tác động, đan xen lẫn nhau chi phối đến việc
nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Về nguyên nhân khách quan chủ yếu là do ảnh hưởng của tư tưởng phong
kiến lạc hậu, tác phong lối sống của người sản xuất nhỏ và tâm lý cục bộ, bản vị
của người tiểu nơng trong cán bộ, đảng viên. Những thói quen của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp đã làm cho khơng ít cán bộ, đảng viên ỷ lại cấp trên, quen tính
hình thức: tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể, các tổ chức kinh tế chưa thật chặt chẽ, thống nhất và hợp lý, một số chế độ
chính sách cịn bất cập, thiếu đồng bộ. Một số cán bộ, đảng viên băn khoăn, thiếu

niềm tin ở nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng.
Những điểm tồn tại trên, chủ yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan đó là do
cán bộ, đảng viên hiểu chưa đúng và chưa có sự thống nhất nhận thức về nguyên
tắc tập trung dân chủ dẫn đến việc thực hiện đơn giản, phiến diện và thiếu nghiêm
túc. Trong tình hình mới việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đối với nguyên
tắc này chưa đặt ra đúng mức, chưa mạnh mẽ đấu tranh khắc phục những nhận
thức lệch lạc và những việc làm sai trái. Việc xây dựng và hướng dẫn thực hiện các
quy định, quy chế để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở các cấp cịn chậm,
nên hiểu và vận dụng khơng thống nhất. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, ích kỷ, vụ
lợi phát triển, ý thức đấu tranh của đảng viên để bảo vệ nguyên tắc của Đảng, bảo
vệ chân lý, lẽ phải bị giảm sút dẫn đến tình trạng “dĩ hồ vi q”, “dễ người dễ ta”,
khơng dám đấu tranh phê bình, nói thẳng nói thật, cấp dưới khơng dám đấu tranh
phê bình cấp trên; chưa có cơ chế cụ thể, đồng bộ để bảo vệ người thẳng thắn, dám
đấu tranh phê bình bảo vệ lẽ phải. Cơng tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ ở các cấp chưa được chú ý đúng mức, chưa kiên
quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những tập thể, cá nhân vi phạm nghiêm trọng
14

Ban tư tưởng văn hóa TƯ, Tài liệunghiên cứu Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ sáu (lần 2),
khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999, tr. 147-148.


22
nguyên tắc của Đảng. Các cấp uỷ, tổ chức Đảng chưa quan tâm và phát huy đúng
mức vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát các
hoạt động của Đảng, của chính quyền và các cán bộ, đảng viên. Năng lực về tổ
chức thực tiễn và tổ chức cán bộ của cấp uỷ các cấp còn yếu…
Đối với Đảng bộ quân đội, thời gian qua, theo đánh giá của Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ quân đội lần thứ VII, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới; nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới...Đảng bộ quân đội đã lãnh đạo

toàn quân kiên định vững vàng, vượt qua khó khăn, thử thách, nỗ lực vươn lên. Tổ
chức Đảng các cấp thường xuyên được kiện toàn phù hợp với chấn chỉnh lực lượng
quân đội. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách được
giữ vững. Đội ngũ đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, góp
phần hồn thành tốt nhiệm vụ của đơn vị. Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ cịn có biểu hiện dân chủ hình thức, đề cao uy quyền cá nhân. Nhận
thức về nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng, một số cán bộ, đảng
viên chưa sâu sắc, giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng có lúc, có nơi cịn
chồng chéo. Chấp hành ngun tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách chưa nghiêm, tinh thần đấu tranh tự phê bình, phê bình cịn yếu.
Những khuyết điểm về thực hiện ngun tắc tập trung dân chủ mà Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đã chỉ ra trong Đảng bộ quân đội đều có với mức
độ khác nhau. Nổi lên là:
- Giải quyết mối quan hệ bí thư - thường vụ - cấp uỷ - chỉ huy chưa tốt.
-

Quan hệ trên dưới thiếu gắn bó chặt chẽ. Ở một số nơi có

biểu hiện chủ yếu hướng lên trên, chỉ lo đối phó giải quyết mối quan hệ với cấp
trên, thiếu quan tâm đến cấp dưới.
- Lãnh đạo tổ chức thực hiện thiếu cụ thể, chưa phát huy được sức mạnh tập thể.
-

Chất lượng sinh hoạt của các tổ chức Đảng chưa cao.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu thấp, nội bộ thiếu đồn kết thống nhất, có nơi mất
đồn kết kéo dài.


-


23
Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa phát huy được dân

chủ, “dĩ hồ vi q”, tính chiến đấu thấp.
Từ những chuyển biến tiến bộ cũng như những tồn tại, những vi phạm trong
quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đó. Một vấn đề cấp bách đặt ra đối với công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng của Đảng ta hiện nay nói chung, trong Đảng bộ quân đội nói riêng, là phải
giữ vững, tăng cường và vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ, có như
vậy Đảng ta mới tồn tại và phát triển, mới đứng vững trước âm mưu chống phá của
kẻ thù và thực sự là hạt nhân lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ chúng ta mới xây dựng Đảng bộ quân
đội vững mạnh, đủ sức lãnh đạo xây dựng quân đội “cách mạng, chính qui, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại”, hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong bối
cảnh mới của tình hình thế giới và trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
2.2. Một số giải pháp cụ thể để thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng bộ quân đội.
Nghị quyết hội nghị Trung ương sáu (lần 2) khoá VIII đã chỉ ra đối với công
tác xây dựng chỉnh đốn Đảng ta là phải kiên định, nắm vững một trong sáu vấn đề
có tính nguyên tắc là “tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng”. Đồng thời nghị quyết cũng chỉ rõ: “phải nâng cao
nhận thức thống nhất trong Đảng về nguyên tắc tập trung dân chủ. Xây dựng và bổ
sung các quy định quy chế thực hiện nguyên tắc này. Cụ thể hoá tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, chế độ trách nhiệm của người đứng đầu ; quy định cụ thể về bảo
lưu ý kiến, bảo đảm cho người có ý kiến bảo lưu được phát biểu đầy đủ trong tổ
chức Đảng và một số cơ quan lý luận thích hợp” 15 .
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ
trong sinh hoạt, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở các cơ sở đến ban chấp
hành trung ương, trong công tác cán bộ và trong xây dựng, hoàn thiện đường lối,

chủ trương chính sách của Đảng. Đảng viên có quyền được bảo lưu ý kiến nhưng

15

ĐCSVN, Nghị quyết BCHTW lần thứ sáu (lần 2), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1991, tr. 31.


24
phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực
đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị.
Từng Đảng bộ giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối
với những cấp uỷ, tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh
đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, cấp uỷ
cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có
khuyết điểm, kiện tồn tổ chức, nơi khơng có khả năng khắc phục khuyết điểm thì
giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của điều lệ Đảng”16 .
Để thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ theo tinh thần nghị
quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX, đặc biệt là nghị quyết trung ương sáu (lần 2) khoá
VIII các tổ chức đảng trong Đảng bộ quân đội cần phải quán triệt và thực hiện tốt
một số giải pháp sau:
Một là: phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng, đầy đủ
và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ theo quy định của điều lệ Đảng. Cần tổ
chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung, bản chất và mối quan hệ biện chứng giữa
tập trung và dân chủ gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức và thực hiện nguyên
tắc này ở đảng bộ, đơn vị mình; chỉ ra những việc đã làm đúng, chưa làm đúng; nguyên
nhân chủ quan của việc thực hiện chưa tốt hoặc cố tình vi phạm nguyên tắc để khắc
phục, bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động trong đảng bộ và trong đơn vị. Đối
với những tổ chức và cá nhân vi phạm nghiêm trọng thì phải xử lý kỷ luật nghiêm, trên
cơ sở đó nâng cao trách nhiệm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này, đồng thời có biện
pháp để chấn chỉnh tổ chức, kiện toàn cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ trì đơn vị. Mặt khác

cần cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc thành chức trách nhiệm vụ, quyền hạn
và các mối quan hệ, chế độ công tác của từng cán bộ, đảng viên, của từng cấp ủy, tổ chức
đảng.
Hai là, giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ của cấp uỷ và tổ
chức Đảng. Các cấp uỷ, cấp uỷ viên phải được cung cấp nhanh chóng, chính xác
ĐCSVN, Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001,
tr. 144.
16


25
những thơng tin cần thiết để nắm chắc tình hình, có điều kiện đóng góp vào q
trình ra các quyết định. Các cuộc họp và sinh hoạt Đảng phải chuẩn bị chu đáo nội
dung, mở rộng dân chủ thảo luận thẳng thắn, có kết luận rõ ràng. Phải tơn trọng và
tập hợp hết ý kiến đúng đắn của Đảng viên trước khi quyết định. Khi có ý kiến
khác nhau phải thảo luận kỹ, nhất là đối với những vấn đề quan trọng phải biểu
quyết, khi cần thiết có thể cho tiến hành điều tra, khảo sát, làm thí điểm rồi mới
kết luận. Mọi người đều phải nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết, không ai được
quyền tuyên truyền và thực hiện ý kiến riêng của mình đã bị đa số bác bỏ. Nghị
quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Cán bộ đảng viên ở bất cứ
cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về
nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng”17.
Ba là, xây dựng, ban hành các qui định cụ thể hoá nguyên tắc tập thể lãnh
đạo cá nhân phụ trách và mở rộng sinh hoạt dân chủ. Muốn phát huy dân chủ trong
Đảng phải nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính đảng cho đảng viên
và các tổ chức đảng. song dân chủ không chỉ là vấn đề nhận thức tư tưởng mà còn
là, và trước hết là, vấn đề tổ chức, cơ chế, xây dựng hoàn thiện cơ chế dân chủ
dưới sự lãnh đạo của tập trung. Nói cách khác cơ chế tập trung trên cơ sở dân chủ

trong Đảng là vấn đề rất quan trọng và cấp bách hiện nay. Cần phải ban hành quy
định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, xác định rõ chế độ, chức trách của
lãnh đạo, chỉ huy các cấp, có quy định cụ thể về nguyên tắc thiểu số phục tùng đa
số. Xây dung kế hoạch, chương trình cụ thể để tăng cường công tác kiểm tra của
cấp uỷ cấp trên đối với cấp uỷ cấp dưới. Thực hiện nghiêm chế độ về việc bảo lưu
ý kiến và nghiên cứu các khiếu nại của đảng viên, bổ sung và hồn thiện quy chế
về cơng tác cán bộ. Xây dựng thành quy chế, quy định cán bộ đi cơ sở, nhất là đi
đến các đơn vị ở xa, có nhiều khó khăn để chỉ đạo tại chỗ và giúp cấp dưới tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc..

17

ĐCSVN: Sddd, tr 140


×