Bố cục của văn bản quy phạm pháp luật
Bố cục của văn bản quy phạm pháp luật là việc tổ chức, sắp xếp các đơn vị cấu thành nên văn bản để
tạo nên tính chỉnh thể cho nó, bao gồm bố cục hình thức và bố cục nội dung của văn bản.
2.1. Bố cục hình thức của văn bản quy phạm pháp luật
Khi xác lập bố cục hình thức của văn bản quy phạm pháp luật cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
1. Mẫu giấy và vùng trình bày văn bản
Theo Quyết định 228/QĐ-BKHCN&MT của Bộ trưởng Bộ khoa học, công nghệ và môi trường, ngày
31/12/1992 thì mẫu giấy và vùng trình bày văn bản được quy định như sau:
- Mẫu giấy: văn bản quy phạm pháp luật được trình bày trên giấy trắng có kích thước 210 x 297 mm
(A4), sai số cho phép 2mm.
- Vùng trình bày: ở mặt trước, cách mép trên trang giấy 25mm, cách mép dưới 20mm, cách mép trái
30mm, cách mép phải 10mm. ở mặt sau, cách mép trên 25mm, cách mép dưới 20mm, cách mép trái
20mm, cách mép phải 20mm (xem Phụ lục 7 và Phụ lục 8)
Những văn bản có nhiều trang thì bắt đầu từ trang thứ hai phải ghi số trang bằng chữ ả Rập cách
mép trên trang giấy 10mm, nằm giữa trang. Những văn bản có hai phụ lục trở lên thì phải ghi số thứ
tự của phụ lục bằng số La Mã. Số trang của văn bản và số trang của phụ lục đều ghi chung số thứ tự.
2. Quốc hiệu
Quốc hiệu được trình bày ở nửa bên phải trang giấy, gồm hai dòng, dòng trên viết bằng chữ in hoa
(cỡ 13, kiểu đậm); dòng dưới bằng chữ thường (cỡ 13, kiểu đậm), có gạch cách nối giữa 3 từ; phía
dưới có gạch ngang.
Chính phủ
Số: 75/2001/NĐ-CP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
3. Tên cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật. (Chữ in hoa, cỡ 13, kiểu đậm)
Phần này được trình bày ở góc trái văn bản, ngang hàng với Quốc hiệu.
Trong văn bản quy phạm pháp luật phần này chỉ ghi tên cơ quan ban hành văn bản mà không ghi tên
cơ quan cấp trên. Điều đó thể hiện sự độc lập của cơ quan khi ban hành văn bản.
4. Số, kí hiệu văn bản. (Chữ in thường, cỡ chữ 13, kiểu thường, đứng)
Phần này được đặt dưới tên cơ quan ban hành văn bản, giúp cho việc vào sổ, phân loại, sắp xếp vào
hồ sơ, lưu trữ, viện dẫn, tra tìm văn bản được dễ dàng; nắm được số lượng văn bản mà cơ quan đã
làm ra trong một năm.
Phần này có 2 yếu tố :
- Số, được đánh liên tục cho các văn bản quy phạm pháp luật do mỗi cơ quan ban hành trong một
năm.
Trong văn bản quy phạm pháp luật, tiếp theo phần số, trước phần kí hiệu, là năm ban hành văn bản.
Năm ban hành văn bản được ghi đầy đủ cả bốn chữ số. Phần năm ban hành văn bản phân cách các
phần khác bằng dấu gạch chéo (/).
Ví dụ: Số 75/2001/...
- Kí hiệu được trình sau năm ban hành văn bản, gồm hai phần: chữ viết tắt của tên loại văn bản và
chữ viết tắt tên cơ quan ban hành văn bản. Hai phần này nối với nhau bằng dấu gạch ngang.
Ví dụ: Số: 75/2001/NĐ - CP (2001- năm ban hành văn bản, NĐ - Nghị định, CP - Chính phủ).
5. Địa điểm, thời gian ban hành văn bản (Cỡ 13, kiểu chữ thường, nghiêng).
Địa điểm ban hành văn bản thường được xác lập bằng cách ghi tên tỉnh, nơi ban hành ra văn bản quy
phạm pháp luật. Địa điểm ghi trước, thời gian ghi sau, hai nội dung này cách nhau bởi dấu phẩy (,).
Địa điểm, thời gian ban hành văn bản có thể được bố trí ở những vị trí khác nhau:
- Dưới quốc hiệu, hơi lệch về bên phải, được dùng với nghị định, quyết định, Chỉ thị, ...
- Cuối văn bản, trước phần chữ kí, được dùng cho luật, pháp lệnh, ...
6. Tên của văn bản (Chữ in hoa, cỡ 14, kiểu đậm)
Hiện nay, trong thực tiễn đang tồn tại một số cách thức xác lập tên văn bản quy phạm pháp luật sau
đây:
- Tên văn bản gồm tên loại văn bản + của + tên cơ quan hoặc chức vụ người ban hành văn bản. Cách
này được sử dụng cho nghị quyết, nghị định, quyết định.
- Tên văn bản gồm tên loại văn bản + tên loại việc văn bản giải quyết. Cách này được sử dụng cho
luật, pháp lệnh.
- Tên văn bản là tên loại của văn bản, được dùng cho Hiến pháp, thông tư, chỉ thị.
7. Trích yếu văn bản (Cỡ 14, kiểu thường, đậm)
Đây là phần khái quát chính xác nội dung chính của văn bản. Có tác dụng giúp người đọc nhanh
chóng nắm bắt được nội dung của văn bản; thuận tiện cho việc vào sổ, lập hồ sơ, tra tìm, viện dẫn
văn bản.
Các văn bản quy phạm pháp luật đều có phần trích yếu, được trình bày ngay sau tên văn bản, trừ
Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Tên và trích yếu của văn bản hợp thành một thể thống nhất xác định rõ chủ đề của văn bản.
Trích yếu văn bản cần ngắn gọn, cô đọng, phản ánh chính xác chủ đề văn bản.
8. Cơ sở của văn bản quy phạm pháp luật
Cơ sở của văn bản quy phạm pháp luật là phần nội dung được ghi nhận ở sau trích yếu văn bản đề
cập tới những vấn đề liên quan trực tiếp tới dự thảo. Phần này có chức năng cung cấp những yếu tố
cần thiết để minh chứng rằng việc ban hành văn bản là có cơ sở và bảo đảm sự liên kết giữa phần
hình thức với phần nội dung của văn bản.
Cơ sở của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn, mà dựa vào đó
người soạn thảo xác lập dự thảo.
a) Cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật
Cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật (hay còn được gọi là căn cứ pháp lý) là những chuẩn
mực pháp luật mà theo đó văn bản được ban hành.
Trong văn bản, phần cơ sở pháp lý thường được xác lập, trừ Hiến pháp và một số văn bản có nội
dung là những vấn đề ít quan trọng.
Phần này nên được sử dụng để viện dẫn tên các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở trực tiếp cho
việc ban hành văn bản đang được soạn thảo.
Khi xác lập phần này, chỉ nên viện dẫn những văn bản thực sự có ý nghĩa đối với dự thảo, bao gồm:
+ Nhóm thứ nhất là các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp quy định về thẩm quyền ban hành văn
bản, nhằm khẳng định rằng văn bản được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Trong thực tiễn, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước được quy định rải rác trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau. Vì vậy, khi lựa chọn cần chú ý để tránh viện dẫn những văn bản quy định chung
chung về thẩm quyền hoặc quy định về thẩm quyền đối với loại công việc khác.
+ Nhóm thứ hai là các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp tới việc xác lập nội dung của dự
thảo, nhằm minh chứng rằng nội dung dự thảo là hợp pháp.
Trong mỗi nhóm nói trên, có thể lựa chọn một hoặc nhiều văn bản quy phạm pháp luật để viện dẫn
sao cho phù hợp với chủ đề của dự thảo.
Hiện nay, có hai hướng xác lập phần cơ sở pháp lý thường được sử dụng sau đây:
- Thứ nhất, "công thức hóa" phần cơ sở pháp lý là cách xác lập phần này theo một "công thức" có sẵn,
thống nhất. Đó là việc sử dụng câu bắt đầu bằng từ "căn cứ". Nếu có nhiều văn bản cần viện dẫn thì
trình bày bằng nhiều "căn cứ" khác nhau.
Cách này thường được sử dụng trong một số loại văn bản như: luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định.
- Thứ hai, xác lập theo hướng viết tự do, không lệ thuộc vào mẫu câu có sẵn. Cách này thường được
sử dụng trong nghị quyết, chỉ thị, thông tư.
Khi viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật, người soạn thảo phải ghi nhận những yếu tố cần thiết có
liên quan tới văn bản nhằm cá biệt hóa chúng, giúp cho người đọc biết văn bản được viện dẫn là văn
bản nào mà không bị lẫn lộn với văn bản khác.
Về vị trí, các văn bản ở nhóm thứ nhất thường được viện dẫn ở ngay đầu văn bản (sau trích yếu).
Các văn bản ở nhóm thứ hai có thể được viện dẫn ở phần kế liền với nhóm thứ nhất, cũng có thể
được gắn liền với phần nội dung chính của dự thảo.
b) Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật thường là những hành vi mang tính thủ tục, trực tiếp
làm phát sinh những vấn đề mà văn bản dự kiến ban hành cần giải quyết.
Nhằm phân biệt cơ sở thực tiễn với cơ sở pháp lý, người soạn thảo thường sử dụng một số "công
thức":
- Thứ nhất, dùng câu "Để giải quyết ..." hoặc "Để thực hiện ...", "Để nâng cao ...", ... nhằm chỉ rõ mục
đích ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: "Để giải quyết đúng pháp luật, kịp thời các vụ án kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân" (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế)
"Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quảng cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tiêu dùng, của tổ chức, cá nhân trong hoạt động quảng cáo, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội" (Pháp lệnh quảng cáo)
- Thứ hai, dùng câu "xét", nếu văn bản cần viện dẫn là những văn bản khác, như công văn, tờ trình
của cấp dưới.
Bên cạnh đó, phần cơ sở thực tiễn có thể được xác lập theo hướng viết tự do, hoàn toàn không lệ
thuộc vào mẫu câu có sẵn.
Về vị trí, cơ sở thực tiễn có thể được bố trí ở kế liền trước hoặc sau cơ sở pháp lý của văn bản quy
phạm pháp luật.
9. Phần chữ ký (Chữ in hoa, cỡ 13, kiểu đậm)
Văn bản quy phạm pháp luật phải được người có thẩm quyền ký đúng thể thức. Nếu văn bản không
có chữ ký hoặc chữ ký là của người không có thẩm quyền thì không được Nhà nước công nhận.
Phần ký được trình bày ở góc phải, cuối văn bản. Thể thức ký phải ghi trước chức vụ của người ký.
Nếu văn bản được ban hành bởi cơ quan, tổ chức hoạt động theo chế độ tập thể thì khi ký phải ghi rõ
TM. (thay mặt) trước tên cơ quan.
Nếu văn bản được ban hành bởi cơ quan hoạt động theo chế độ thủ trưởng thì khi ký văn bản không
ghi thay mặt (TM. ), mà ghi rõ chức vụ của người ký.
Nếu văn bản do cấp phó ký khi được cấp trưởng uỷ quyền thì phải ghi KT. (ký thay) cấp trưởng và
chức vụ của người được uỷ quyền. Người được uỷ quyền không được uỷ quyền lại cho người khác.
Trong mọi trường hợp, người có thẩm quyền ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật không được
uỷ quyền cho cấp dưới ký thừa lệnh (TL.) các văn bản quy phạm pháp luật.
Nếu người đứng đầu cơ quan mới được giao chức vụ là quyền trưởng thì khi ký ghi là Q.Trưởng ...,
Người có thẩm quyền phải ký trực tiếp, không được ký bằng bút chì, bút mực màu đỏ hoặc bằng các
vật liệu dễ phai mờ; phải viết rõ họ tên người ký bằng chữ thường, cách chức vụ của người ký 30mm.
Thông thường văn bản quy phạm pháp luật chỉ có một chữ ký nhưng cũng có trường hợp có nhiều
chữ ký như đối với các văn bản liên tịch.
10. Dấu của văn bản quy phạm pháp luật
Sau khi văn bản quy phạm pháp luật đã được người có thẩm quyền ký đúng thể thức, văn thư phải
đóng dấu vào văn bản. Tuyệt đối không đóng dấu khi chưa có chữ ký. Dấu đóng đúng chiều, rõ ràng,
đúng mầu mực quy định và trùm lên l/4 đến l/3 chữ ký về phía bên trái. Chữ ký và dấu bảo đảm tính
hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật.
11. Nơi nhận (Chữ in thường, cỡ 13, kiểu nghiêng)
Phần "Nơi nhận" được trình bày ở góc trái, cuối văn bản, ngang phần chữ ký. Người ký phải căn cứ
vào yêu cầu cụ thể của từng việc và theo đúng những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, quan hệ
công tác mà quyết định việc gửi văn bản. Nơi gửi, số lượng gửi được ghi rõ trong phần nơi nhận, có
tác dụng giúp cho bộ phận văn thư biết phải nhân văn bản thành bao nhiêu bản và gửi tới đâu, tạo
điều kiện cho việc thực hiện văn bản được nhanh chóng, thuận lợi.
Thông thường, văn bản quy phạm pháp luật được gửi tới các nhóm đối tượng sau:
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thi hành văn bản;
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới việc thực hiện văn bản, như phối hợp, tạo điều kiện,
in ấn...;
- Các cơ quan, tổ chức có quyền kiểm tra, giám sát, kiểm sát hoạt động của cơ quan ban hành văn
bản;
- Bộ phận lưu văn bản.
Bố cục hình thức phổ biến của văn bản quy phạm pháp luật được trình bày tại Phụ lục 9.
2.2. Bố cục nội dung của văn bản quy phạm pháp luật
a) Việc đặt tên, đánh số cho các đơn vị trong văn bản.
Về nguyên tắc chung, một văn bản quy phạm pháp luật có thể được chia thành Phần, Chương, Mục,
Điều, Khoản, Điểm. Khi sử dụng các đơn vị này, cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Có thể phối hợp phần chữ (Phần, Chương, Mục, Điều, Khoản, Điểm) với phần số (1, 2, a, b...) để