Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

118. TƯ TƯỞNG XOÁ BỎ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU TRONG TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN. Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.97 KB, 14 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN


TƯ TƯỞNG
TƯỞNG XOÁ
XOÁ BỎ
BỎ CHẾ
CHẾ ĐỘ
ĐỘ TƯ
TƯ HỮU
HỮU TRONG
TRONG TÁC
TÁC PHẨM
PHẨM TUN
TUN
NGƠN
NGƠN CỦA
CỦA ĐẢNG
ĐẢNG CỘNG
CỘNG SẢN.
SẢN. Ý
Ý NGHĨA
NGHĨA CỦA
CỦA NĨ
NĨ TRONG
TRONG PHÁT
PHÁT
TRIỂN


TRIỂN KINH
KINH TẾ
TẾ NHIỀU
NHIỀU THÀNH
THÀNH PHẦN
PHẦN Ở
Ở NƯỚC
NƯỚC TA
TA


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU

Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C. Mác và
Ăngghen soạn thảo từ tháng Chạp năm 1847 đến tháng giêng năm 1848
hoàn thành và in thành sách riêng ở Luân Đôn vào tháng 2/1848. Tác
phẩm ra đời đánh dấu sự hình thành về cơ bản hệ thống lý luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự chín muồi của chủ nghĩa xã hội khoa học
và là tuyên bố về sự cáo chung của các trào lưu xã hội chủ nghĩa không
tưởng trước Mác. Đồng thời là cương lĩnh chính trị đầu tiên đánh dấu sự
phát triển mới về chất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
“Đã đến lúc những người cộng sản phải cơng khai trình bày trước tồn thế
giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có một tun ngơn của

Đảng, của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”1.
Tác phẩm gồm 4 chương.
Chương 1: Tư sản và vô sản.
Chương 2:Những người vô sản và những người cộng sản.
Chương 3: Văn học xã hội chủ nghĩa và CSCN.
Chương 4: Thái độ của những người cộng sản đối với các Đảng đối lập.
Một trong những tư tưởng vĩ đại, mang giá trị nhân văn cao cả trong
tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là: “Những người cộng sản có
thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xố
bỏ chế độ tư hữu”2.
Tuy rằng tư tưởng này, khơng được Mác và Ăngghen trình bày thành
chương mục riêng trong tác phẩm. Nhưng đây là tư tưởng rất cơ bản và
1
2

C. Mác và Ăngghen Toàn tập, Tập 4 Nxb CTQG, ST, H. 1995, tr. 595.
C. Mác và Ăngghen Sđd, tr. 616.


3

quan trọng của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu hiểu sâu sắc và
nhận thức đúng đắn trên khơng chỉ có ý nghĩa to lớn về mặt nhận thức luận
mà cịn có ý nghĩa thực tiễn trong cơng việc vận dụng sáng tạo và xây dựng
quan hệ sản xuất mới XHCN, cũng như công cuộc xây dựng, phát triển kinh
tế nhiều thành phần hiện nay ở nước ta. Trên mặt trận tư tưởng lý luận, tư
tưởng: “Xoá bỏ chế độ tư hữu” còn là cơ sở lý luận sắc bén đấu tranh với
những luận điệu xuyên tạc, phản khoa học của tư sản và các thế lực phản
động đang ngày đêm chống phá làm giảm lòng tin với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng trong quần chúng nhân
dân lao động. Nhằm bảo vệ sự trong sáng và giá trị khoa học của lý luận chủ

nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng: “Xố bỏ chế độ tư hữu” trong tun
ngơn của Đảng cộng sản nói riêng. Với ý nghĩa đó trong phạm vi bài thu
hoạch này, tôi chỉ tập trung đi sâu làm rõ tư tưởng:
“Xoá bỏ chế độ tư hữu” trong tun ngơn của Đảng Cộng sản. Qua
đó rút ra ý nghĩa vận dụng của tư tưởng vào xây dựng, phát triển kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
Ai cũng biết rằng, lịch sử nhân loại là lịch sử của sản xuất vật chất
và tái sản xuất không ngừng và hành động đầu tiên của con người làm ra
lịch sử của mình là lao động sản xuất: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời
sống của mình, con người có những quan hệ nhất định tất yếu khơng tuỳ
thuộc vào ý muốn chủ quan của họ - tức quan hệ sản xuất ”.1
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu
tố hàng đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định chế độ
phân phối và chế độ quản lý. Quan hệ sản xuất, đến lượt nó, với tư cách
1

C. Mác và Ăngghen Sđd, Tập 13, tr.14 - 15.


4

là cơ sở hạ tầng lại quyết định thượng tầng kiến trúc. Trong các phương
thức sản xuất của cải vật chất cụ thể thì ai, giai cấp nào nắm quyền sở
hữu tư liệu sản xuất thì người đó, giai cấp đó quyết định việc điều khiển
các hoạt động trong quá trình sản xuất và chi phối số của cải sản xuất ra,
đồng thời cũng là lực lượng thống trị xã hội. Chính vì thế, vấn đề sở
hữu về tư liệu sản xuất từ xưa đến nay luôn luôn là một trong những vấn
đề cơ bản và sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội. Loài người đã trải
qua nhiều chế độ sở hữu tư liệu sản xuất phát triển từ thấp, đến cao,
nhưng tựu chung lại chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản đó là: sở hữu cơng

cộng (cịn gọi là sở hữu xã hội hoặc cơng hữu) và sở hữu tư nhân (còn gọi
là tư hữu).
Chế độ sở hữu là vấn đề cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa Mác
-Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin coi việc xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là một đặc trưng cơ bản trong cuộc
cách mạng xã hội - xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong tác phẩm: Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản Ăngghen viết: “Thủ tiêu chế độ tư
hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ
chế độ xã hội; việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự phát triển công
nghiệp”1
Trong tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và
Ăngghen một lần nữa khẳng định: “Những người cộng sản có thể tóm tắt
lý luận của mình thành một luận điểm chung nhất này là: Xoá bỏ chế độ
tư hữu”2.

1 ,2

Sđd, tr.467, 616.


5

Vậy hiểu tư tưởng nêu trên của Mác và Ăngghen về “xoá bỏ chế độ
tư hữu” thế nào cho đúng? và tư tưởng đó phải chăng có phải là một ý
tưởng chủ quan duy ý chí của những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản?
Trước hết chúng ta khẳng định quan điểm rõ ràng và chắc chắn rằng
tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu”, không phải là ý muốn chủ quan duy ý
chí của Mác và Ăngghen mà là một kết luận hết sức khoa học, có cơ sở
khách quan từ quy luật vận động, phát triển tất yếu của xã hội lồi
người. Mà tơi đã phân tích ở phần trên . Ở đây tôi muốn nhấn mạnh điều

mà C. Mác và Ăngghen đã viết “tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều
bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao
tiếp (quan hệ sản xuất)”1.Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối
quan hệ giữa chúng là phạm trù trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
là chìa khố để giải mã các vấn đề xã hội hiện thực. Mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong nền sản xuất TBCN, biểu hiện
về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp vô sản mâu thuẫn với giai cấp tư
sản. Giai cấp tư sản là lực lượng thống trị xã hội tư bản, nắm toàn bộ các
tư liệu sản xuất của xã hội. Vì thế nó trở thành điều kiện, cơng cụ để tư
bản bóc lột và thống trị, giai cấp vô sản là những người không có tư liệu
sản xuất phải làm thuê cho bọn tư bản. Song lại là giai cấp đại diện cho
một nền sản xuất tiên tiến và triệt để cách mạng nhất, được sản sinh ra từ
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
“Trong các giai cấp hiện đại đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ
có giai cấp vơ sản là thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy

1

C. Mác và Ăngghen Sđd, Tập 3,tr. 51.


6

tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp
vơ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” 2.
Và như vậy giai cấp vơ sản phải là người có sức mệnh xoá bỏ sở
hữu tư sản để giành lấy những lực lượng sản xuất xã hội, đó là con
đường duy nhất để giải phóng mình khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp
tư sản. Ngày nay ở các nước tư bản phát triển, trong nhiều công ty tư
bản chủ nghĩa đã xuất hiện sở hữu của người lao động. Người cơng

nhân có cổ phần của mình trong cơng ty. Đó là hiện tượng có thật
khơng thể phủ nhận. Tuy nhiên, cần thấy rằng tất cả các hiện tượng
đó đều nằm trong khn khổ: Sự điều chỉnh và thích nghi của chủ
nghĩa tư bản. Về bản chất của chế độ TBCN, của quan hệ sản xuất tư
bản vẫn không hề thay đổi, vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN
về tư liệu sản xuất, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến áp
bức bóc lột lao động làm thuê của giai cấp công nhân. Và là cơ sở
điều kiện để nơ dịch, áp đặt dân tộc khác. Vì vậy, muốn thốt khỏi
cách áp bác, bóc lột, thì giai cấp công nhân phải lựa chọn việc thủ
tiêu chế độ tư hữu là tất yếu khách quan.
Như vậy cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa Mác và Ăngghen đề xướng tư tưởng “xố bỏ chế độ tư
hữu” là hồn tồn khách quan, hợp quy luật. Vậy thì “xố bỏ chế độ tư
hữu” hiểu thế nào?
Xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu là một quan điểm cơ
bản trong các học thuyết xã hội chủ nghĩa trước Mác, đặc biệt là trong
CNXH khơng tưởng pháp với tính cách là một nguồn gốc của chủ nghĩa
2

Sđdtr.610.


7

Mác. Từ đó có người cho rằng các tác giả của tun ngơn vẫn chưa thốt
khỏi tính chất khơng tưởng trong quan niệm về chế độ sở hữu của CNXH.
Có người lại cho rằng trong tuyên ngôn Mác và Ăngghen chỉ nói
đến việc xố bỏ chế độ tư hữu tư bản. Thực ra trong tuyên ngôn C. Mác
và Ăngghen đã chỉ rõ: “việc xoá bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại
trước kia khơng phải là một cái gì đặc trưng vốn có của chủ nghĩa cộng

sản”? “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản khơng phải là xố bỏ chế độ sở
hữu nói chung, mà là xố bỏ chế độ sở hữu tư sản”1.
Theo C. Mác và Ăngghen, việc xố bỏ tư hữu nhỏ khơng phải là
vấn đề của CNXH vì chế độ tư hữu nhỏ bị thủ tiêu bởi chính sở hữu tư
sản; cịn chế độ tư hữu tư sản là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất cúa
chế độ tư hữu.
“Chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ
nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những
đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”2.
Vì vậy, khi chủ nghĩa cộng sản thực hiện thủ tiêu tư hữu tư sản cũng
có nghĩa là chế độ tư hữu nói chung cũng bị thủ tiêu. “Theo ý nghĩa đó,
những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận
điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu”3.
Quan niệm về xoá bỏ chế độ tư hữu của tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản khác với CNXH khơng tưởng. Mác và Ăngghen đã cho rằng, đó phải
là sự tự phủ định với những tiền đề do sự phát triển của xã hội dựa trên
chế độ tư hữu đã tạo ra, việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội là kết quả tất
yếu của sự phát triển cơng nghiệp. Tuy nhiên khơng thể xố bỏ chế độ tư
1 ,2, 3

: Sđd tr. 4, tr.615, 616.


8

hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản xuất xã hội theo ý muốn
chủ quan của con người. Những người cộng sản chỉ đặt ra cho mình
nhiệm vụ xố tư hữu bằng cách xố bỏ sở hữu tư sản mà thôi. Và ngay
cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xố bỏ tư hữu cũng không thể
thực hiện ngay lập tức được, mà phải làm dần dần, từng bước thích hợp

và chỉ khi nào nêu được một lực lượng sản xuất cần thiết cho việc cải tạo
đó thì khi ấu mới thủ tiêu được chế độ tư hữu. Trong những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản, Ăngghen viết:”Không, không thể được, cũng ý
như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức
đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế cơng hữu”1.
Như vậy, xố bỏ sở hữu tư sản; là sự sở hữu mà nhờ đó nhà tư bản
có thể bóc lột được lao động làm thuê của người lao động và nó buộc
người lao động “chỉ sống trong chừng mực mà giai cấp thống trị địi hỏi”
như thế xố bỏ chế độ tư hữu mà tun ngơn đề cập, khơng có nghĩa là
xố bỏ sở hữu nói chung. Hình thức sở hữu mà những người cộng sản
khơng chủ trương xố bỏ là sở hữu cá nhân của người lao động. Trong
thực tế lịch sử chế độ tư hữu ra đời từ sự phát triển của sở hữu cá nhân.
Nhưng sự khác nhau giữa hai loại sở hữu đó thì rất rõ. Sở hữu cá nhân
là, “sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân” 2;
còn chế độ tư hữu lại là “phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm
dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột
những người kia”3. Do đó, việc “xoá bỏ tư hữu” ở đây được quan niệm
là xoá bỏ cả một chế độ tư hữu- chế độ tư hữu tư sản. Cái chế độ tư hữu
gắn liền với sự bóc lột và thống trị của tồn bộ giai cấp tư sản đối với
1

Sđd, Tập 4, tr. 469.
Sđd, Tập 4, tr. 616.

2 ,3


9

tồn bộ giai cấp cơng nhân. Trong các xã hội có dựa trên chế độ tư hữu,

sở hữu cá nhân của một số ít người được phát triển bằng cách tước đi sở
hữu cá nhân của đa số những người khác. Còn chủ nghĩa cộng sản làm
cho “sở hữu cá nhân khơng cịn có thể biến thành sở hữu tư sản được
nữa”4. Tuy nhiên “chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng
chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ
quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác” 5. Tuy
vậy, trong tuyên ngôn C. Mác và Ăngghen chưa thể bàn kỹ và làm rõ
vấn đề sở hữu cá nhân dưới chủ nghĩa cộng sản, có lẽ cũng có nhiều lý
do, song bởi đây là một vấn đề phức tạp vả lại trong điều kiện CNTB
đang phát triển và có những yếu tố chưa đầy đủ và chủ nghĩa cộng sản
cũng chỉ mới là những lời tiên đốn qua sự phân tích quy luật vận động
của lịch sử và xu hướng phát triển của nó mà thôi. Thế nhưng vấn đề sở
hữu cá nhân lại được C. Mác và Ăngghen tiếp tục làm rõ trong bộ tư
bản. C. Mác viết: “phương thức chiếm hữu TBCN do phương thức sản
xuất TBCN đẻ ra và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là
sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của
bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản
thân đó, với tính tất yếu của một q trình tự nhiên. Đó là sự phủ định
cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà
khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời
đại TBCN: Trên cơ sở sự hiệp tác và chiếm hữu công cộng đối với ruộng
đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra”1

4 ,5
1

Sđd, Tập 4, tr. 618
Sđd, Tập 22, tr. 1059, 1060.



10

Như vậy, chế độ cộng sản chủ nghĩa không những không loại trừ sở
hữu cá nhân, mà trái lại là sự khôi phục sở hữu cá nhân của người lao
động đã bị chế độ tư bản xoá bỏ. Sở hữu cá nhân theo quan điểm của các
nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản thì khơng chỉ là những sản phẩm lao
động về tính chất là tư liệu tiêu dùng mà nhiều người lâu nay vẫn tin
tưởng. Sở hữu cá nhân cịn phải bao gồm cả tư liệu sản xuất nhưng
khơng cịn mang tính chất tư nhân mà tồn tại trong sự thống nhất với sở
hữu xã hội. Trong chế độ cộng sản chủ nghĩa, sở hữu xã hội, được biểu
hiện là sở hữu của những cá nhân đã liên hợp với nhau, một liên hợp
“trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của cả mọi người”1.
Tóm lại, tất cả những vấn đề đã trình bày ở trên đã làm rõ tư tưởng
“xố bỏ chế độ tư hữu” trong tun ngơn của Đảng cộng sản. Mặc dầu
thời gian đã trải qua hơn 155 năm, thực tiễn đã có nhiều thay đổi, song
đến nay tư tưởng đó vẫn cịn ngun giá trị, là kim chỉ nam cho sự
nghiệp xây dựng chế độ XHCN nói chung và quá độ lên CNXH ở nước
ta nói riêng.
Song một vấn đề đặt ra là liệu có mâu thuẫn khơng? trong khi khẳng
định tư tưởng “xố bỏ chế độ tư hữu” trong Tuyên ngôn là đúng đắn, có
cơ sở khoa học và hợp quy luật khách quan. Tại sao Liên Xô (cũ) và một
số nước XHCN ở Đông Âu, sau 80 năm xây dựng CNXH trên cơ sở chế
độ sở hữu công cộng lại bị đổ vỡ. Việt Nam ta vào cuối những năm thập
kỷ 80 đã cơ bản hồn thành “xố tư hữu” sao kinh tế lại kém phát triển,
đời sống nhân dân khổ cực thiếu thốn. Những năm sau 1986, đặc biệt
1

Sđd, Tập 4, tr. 628.



11

sau 1990 với chủ trương đổi mới: Đa dạng các hình thức sở hữu, trong
đó có sở hữu tư nhân: Đại hội VII của Đảng xác định, còn tồn tại 3 hình
thức sở hữu cơ bản “sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân” chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Với những chủ
trương đổi mới đúng đắn đó và đường lối đổi mới đồng bộ đã làm cho
kinh tế nước ta đạt được thành tựu đáng khích lệ (thực tiễn 10 năm đổi
mới đã chứng minh).
Thực ra sự sụp đổ của Liên Xô (cũ) và các nước Đơng Âu, cũng
như tình trạng kinh tế kém phát triển ở nước ta trước thập niên1990.
Điều này do nhiều nguyên nhân tác động đã được Đảng ta đánh giá rõ
ràng. Song có một nguyên nhân rất cơ bản đó là hiểu thực chất và vận
dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin của những người cộng sản, của
một số Đảng cộng sản là chưa đầy đủ, chính xác và hơn nữa là thiếu
sáng tạo, cịn mang nặng tính lý luận, dập khn câu chữ, bệnh chủ quan
duy ý chí, nóng vội muốn làm ngay, xố ngay lập tức để có ngay
CNXH...Chính vì thế đã có những vấp váp sai lầm đáng tiếc mà lẽ ra
tránh được. Khơng vì lẽ trên mà vội vàng đồng nhất việc vận dụng sai lý
luận với bản thân lý luận để đổ lỗi cho tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu”
là khơng đúng, là có lợi cho luận điệu tư sản. Cũng khơng phải chủ
trương phát triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ở
nước ta hiện nay, là sự gác lại tạm thời hay từ bỏ tư tưởng “xố bỏ chế
độ tư hữu” của tun ngơn, của Đảng Cộng sản, mà trái lại chính là sự
thực hiện tinh thần cơ bản của tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu” trong
tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, theo đúng ý tưởng của C. Mác và
Ăngghen là cách đi tới mục tiêu CNXH khơng duy ý chí, khơng đốt cháy



12

giai đoạn và phù hợp với thực tiễn ở nước ta. C. Mác và Ăngghen đã
từng di huấn rằng: Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo
điều, mà là kim chỉ nam cho hành động.
Thực hiện lời di huấn đó, kiên quyết đổi mới tư duy, khắc phục
những sai lầm trong vận dụng cứng nhắc và máy móc các nguyên lý của
tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mà trực tiếp là tư tưởng “xoá bỏ chế độ
tư hữu”. Đảng ta xác định việc xoá bỏ tư hữu tư sản bằng sở hữu cơng
cộng vẫn phải cịn là một q trình dần dần, diễn ra lâu dài theo đó, ắt
phải có một q trình đan xen giữa các yếu tố công hữu, tư hữu chứ
không phải ngay lập tức đã xố bỏ ngay được tính q độ ấy. Q trình
đi lên CNXH từ một nước với nền sản xuất nhỏ còn là phổ biến, chế độ
tư hữu chưa trở thành vật chướng ngại mà ngược lại đang có vai trị tích
cực cho sự phát triển của sản xuất thì việc xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập
chế độ cơng hữu cịn phải dần dần hơn, lâu dài hơn. Như thế trong sự tất
yếu còn tồn tại khá lâu dài các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất. Đảng ta nhận rõ vấn đề đó và chủ trương phát triển đa dạng hố
các hình thức sở hữu như đã nêu trên. Chính là q trình tự giác xác lập
một hệ thống quan hệ sản xuất từng bước phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất - một chủ trương đúng với quy luật và phù hợp
với ý tưởng của Mác và Ăngghen.Mơ hình kinh tế nhiều thành phần ,
dựa trên sự đa dạng các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể phát triển dần dần trở thành nền
tảng của nền kinh tế .Đã có tác dụng động viên sức mạnh tồn dân đầu
tư trí tuệ ,vốn liếng ...vào phát triển sản xuất. Với chủ trương, chính
sách này, chúng ta vừa khuyến khích vừa động viên sở tư hữu tư nhân


13


phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm,
vừa từng bước xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới xã
hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với bước đi thích hợp, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở đây, chế độ công hữu với sự đa
dạng của nó sẽ dần xác lập được sự thống trị của mình bằng chính sức
mạnh và tính ưu việt về kinh tế chứ khơng phải bằng sắc lệnh và ý chí
chủ quan. Do vậy, sự phát triển các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất
và trên đó thiết lập phát triển nhiều thành phần kinh tế hiện nay ở nước
ta tuyệt nhiên phải là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng đó vào
thực tiễn nước ta.
Tóm lại, “xoá bỏ chế độ tư hữu” là khách quan của những người
cộng sản và việc xoá bỏ là cả một q trình cần có một thời kỳ q độ,
cần có những hình thức kinh tế trung gian quá độ và những bước đi thích
hợp. Và như thế là, từ khi giành được chính quyền đến “xố bỏ chế độ tư
hữu” là cả một q trình khơng thể xố ngay tức khắc được, mà cũng
khơng phải xố sở hữu nói chung mà là sở hữu tư sản. Q trình đó dài
hay ngắn đều tuỳ thuộc vào điểm xuất phát của mỗi quốc gia dân tộc về
trình độ phát triển lực lượng sản xuất cùng những điều kiện xã hội lịch
sử khác quy định. Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng hố các hình
thức sở hữu, xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Các chủ
trương trên là những hiện thực đã, đang và sẽ phát triển tích cực ở nước
ta. Nhưng nó lại thể hiện giữa cái mâu thuẫn và cái thống nhất trong việc
thừa nhận tư hữu để xoá bỏ tư hữu (dùng tư hữu để xoá bỏ tư hữu). Đó


14


chính là những biện pháp, hình thức bước đi trong sự vận dụng hiện thực
hoá tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu” ở nước ta, mà không trái với quy
luật vận động của xã hội. Và cũng không trái với ý tưởng của C. Mác và
Ăngghen. Vững tin vào tư tưởng soi đường của các nhà kinh điển, của
Bác Hồ, của Đảng ta và vận dụng một cách đúng đắn sáng tạo vào thực
tiễn đất nước. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng sự nghiệp xây dựng
CNXH vì mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh sẽ sớm thành công tốt đẹp.



×