Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

CHÍNH SÁCH đối với NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH DI sản văn hóa PHI vật THỂ ở VIỆT NAM tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.65 KB, 27 trang )

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Phạm Cao Quý

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý Văn hóa
Mã số: 9319042

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Hà Nội - 2019


Cơng trình được hồn thành tại:
VIỆN VĂN HĨA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. Đặng Văn Bài

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án TS cấp Viện tại
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Số 32, Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi: …..giờ…., ngày….tháng.….năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam;
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể (DSVH PVT) là
người được kế thừa, nắm giữ di sản của cha ông, tiếp tục thực hành, gìn
giữ và trao truyền lại cho thế hệ mai sau. Nghệ nhân thực hành được ví
như những “báu vật nhân văn sống”, “bảo tàng sống” mà khơng thể thay
thế được. Với ý nghĩa đó, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH
PVT trong thời gian qua cũng đã chú trọng tới nghệ nhân bằng nhiều nội
dung có cả cụ thể và bao quát. Ở phương diện xây dựng và ban hành
chính sách thơng qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tính đến nay,
đã có 02 Luật, 03 Nghị định liên quan trực tiếp tới nghệ nhân thực hành
DSVH PVT và một số quyết định, quy chế của các tổ chức hội và địa
phương được ban hành. Hệ thống chính sách được truyền tải qua các văn
bản quy phạm pháp luật này đã và đang có những đóng góp quan trọng và
tích cực vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT nói chung
và nghệ nhân thực hành DSVH PVT nói riêng.
Tuy nhiên, các chính sách này cịn bất cập trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn áp dụng. Từ đó, tác giả chọn đề tài Chính sách đối với nghệ

nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận án là:
nghiên cứu về nghệ nhân thực hành DSVH PVT; nghiên cứu, đánh giá hệ
thống chính sách hiện có đối với nghệ nhân để từ đó đưa ra đề xuất, khuyến
nghị góp phần hồn thiện chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH
PVT ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận về DSVH PVT, về
nghệ nhân, cộng đồng thực hành DSVH PVT; các nội dung về lý luận,
phương pháp luận về nhu cầu, động lực sáng tạo của con người với vai trò
là người nắm giữ DSVH PVT; về xây dựng và ban hành chính sách; thực
trạng chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở Việt Nam;
xây dựng khung chính sách và đề xuất các nội dung bổ sung, chỉnh sửa


2

các chính sách hiện có góp phần hồn thiện hệ sách đối với nghệ nhân
thực hành DSVH PVT ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: DSVH PVT, nghệ nhân thực
hành các loại hình DSVH PVT ở Việt Nam; chính sách đối với nghệ nhân
qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam từ trung
ương tới địa phương, một số chương trình, dự án, đề án liên quan, một số
quy chế, quy định của các địa phương và kinh nghiệm của UNESCO,
Nhật Bản và Hàn Quốc. Thời gian nghiên cứu của luận án là khi ban hành
Luật Di sản văn hóa năm 2001 tới nay.
4. Phương pháp luận
Tác giả chọn các phương pháp luận của Quản lý DSVH, Khoa học
chính sách, Tâm lý học để nghiên cứu chính sách đối với nghệ nhân thực

hành DSVH PVT. Tác giả sử dụng Lý thuyết về động lực của con người
của tác giả Abraham Maslow qua năm tầng Tháp nhu cầu. Bên cạnh đó, tác
giả cịn sử dụng lý thuyết của Tâm lý học sáng tạo nghệ thuật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận liên ngành/đa ngành: DSVH, quản lý DSVH,
khoa học chính sách, tâm lý học được tác giả áp dụng cụ thể là: phân tích
tổng hợp, quan sát tham dự, khảo sát, phỏng vấn sâu, mơ hình hóa, thống kê.
6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Cần có chính sách như thế nào để phát huy vai trò của nghệ nhân thực
hành DSVH PVT trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT ở
Việt Nam?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
Tác giả cho rằng, việc ban hành chính sách đối với nghệ nhân thực
hành di sản văn hóa phi vật thể chưa đạt được như mong muốn là do chưa
xác định được khung chính sách đối với đối tượng này bên cạnh những
hạn chế trong kỹ thuật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.


3

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên phương diện lý luận: Tác giả áp dụng quan điểm, lý luận về
DSVH PVT, về quản lý DSVH PVT nhằm nhận diện rõ hơn về DSVH
PVT; về khái niệm, đặc điểm, vai trò của nghệ nhân trong việc thực hành
DSVH PVT. Kết quả nghiên cứu góp phần vào việc bổ khuyết các lý luận
về DSVH PVT như là một mơn khoa học đang hình thành. Lý luận về khoa
học quản lý được tác giả sử dụng để luận giải những vấn đề đang đang đặt
ra trong việc ban hành, thực thi chính sách đối với nghệ nhân để đưa ra
những khuyến nghị, giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của nghệ nhân.

Trên phương diện thực tiễn: Luận án mong muốn góp phần vào việc hồn
thiện hệ thống chính sách đối với nghệ nhân nói riêng và DSVH PVT nói
chung ở Việt Nam. Cụ thể là, đóng góp các nội dung tổng quát và cụ thể
vào việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Di sản
văn hóa (DSVH), Luật Thi đua, Khen thưởng (TĐKT) và các văn bản liên
quan.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (6 trang), Tài liệu tham khảo
(11 trang), Phụ lục (36 trang), Luận án gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái
quát về nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở Việt Nam (48 trang).
Chương 2. Thực trạng chính sách đối với nghệ nhân thực hành
DSVH PVT ở Việt Nam (52 trang).
Chương 3. Góp phần hồn thiện chính sách đối với nghệ nhân thực
hành DSVH PVT ở Việt Nam (41 trang).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của nghệ nhân
Dựa trên các lĩnh vực quan tâm cụ thể về các DSVH PVT cụ thể
như: Ca Trù, Quan họ, Cồng chiêng, Sử thi, Đờn ca Tài tử, Hát Xoan,


4

Tranh dân gian và nhiều loại hình DSVH PVT khác, các tác giả chủ yếu
miêu tả về kỹ năng, kỹ thuật, hiểu biết và các đặc điểm của các nghệ nhân
ở mỗi di sản, mỗi loại hình với nhiều cơng trình nghiên cứu từ cách tiếp

cận của văn hóa dân gian hoặc những khoa học liên quan. Hầu hết các nhà
nghiên cứu đều khẳng định vai trò quan trọng của nghệ nhân, cộng đồng
trong việc lưu giữ, thực hành DSVH PVT.
1.1.2. Những nghiên cứu về chính sách đối với nghệ nhân
Nhiều tác giả có những nghiên cứu và nhận định chung là hiện nay
đang thiếu hụt các chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở
Việt Nam. Nhất là các chính sách đãi ngộ liên quan tới đời sống, nhu cầu
sinh hoạt dưới góc độ là an sinh xã hội. Tuy nhiên, hầu hết các nội dung
chính sách được đề xuất mới dừng lại ở mô tả thực trạng và kiến nghị nhỏ
lẻ, chưa nghiên cứu toàn diện dưới góc độ của khoa học về DSVH PVT,
khoa học chính sách để có góc nhìn tổng qt về chính sách đối với nghệ
nhân thực hành DSVH PVT.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Di sản văn hóa và chính sách
1.2.1.1. Di sản văn hóa: Theo cách tiếp cận giá trị, DSVH bao gồm
hầu hết các giá trị văn hóa, do con người và thiên nhiên tạo nên. Nó là phần
tinh túy, tiêu biểu nhất đọng lại sau hoạt động sáng tạo của con người từ thế
hệ này qua thế hệ khác thể hiện qua DSVH vật thể và DSVH PVT. Và, vì
tính chất đặc thù của nó phải được thẩm định một cách khắt khe bằng sự
thừa nhận của cả cộng đồng người trong một thời gian dài, nên DSVH về
phương diện giá trị là đặc biệt bền vững, về số lượng cũng lớn hơn nhiều so
với các giá trị của thời hiện tại. Bởi vậy, có thể nói DSVH là một bộ phận
quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền văn hóa.
1.2.1.2. Quản lý di sản văn hóa: Quản lý DSVH là quá trình theo dõi định
hướng và điều tiết quá trình tồn tại và phát triển các DSVH trên địa bàn cụ thể
nhằm bảo vệ và phát huy tốt nhất các giá trị của chúng. Một cách tổng quát,
quản lý DSVH là quản lý các hoạt động của con người, cộng đồng xã hội,
những tác nhân có thể tác động ở cả hai chiều thuận và nghịch tới di sản. Quản
lý DSVH cũng tức là thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa các cơ quan quản lý nhà



5

nước về văn hóa và cộng đồng cư dân địa phương nơi có di sản nhằm tạo ra sự
đồng thuận về cách thức ứng xử với DSVH.
1.2.1.3. Chính sách: Chính sách là công cụ mà chủ thể quyền lực sử
dụng để tác động vào con người. Chính sách dẫn tới những kiến tạo xã hội
về các quan niệm đạo đức khác nhau trong xã hội. Tác giả Vũ Cao Đàm đã
định nghĩa về chính sách như sau: “Chính sách là một tập hợp biện pháp
được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra,
trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động
cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một
mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã
hội.”
1.2.1.4. Chính sách văn hóa: Chính sách văn hóa là một hệ thống các
ngun tắc, các thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát
triển và quản lý thực tiễn đời sống văn hóa theo những quan điểm phát triển
và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh
thần sẵn có của xã hội. Nói đến các chính sách là nói tới tính thực hành, là
hệ thống các cơng cụ tác động vào mọi khía cạch của đời sống xã hội, thơng
qua các thể chế, luật, kế hoạch, chương trình hành động,...
1.2.2. Di sản văn hóa phi vật thể
1.2.2.1. Định nghĩa: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
DSVH 2009 định nghĩa: “DSVH PVT là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được
tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.” Xét về nội hàm,
DSVH PVT được hiểu như những văn hóa do các thế hệ trước kế thừa, lưu

giữ, thực hành, sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau. DSVH PVT được thực
hành khơng đơn độc mà có tính thực hành tương tác giữa những cá nhân,
nhóm và cộng đồng khác nhau thông qua tiếp nhận, thực hành và chia sẻ;
được truyền từ đời này sang đời khác, thích nghi với mơi trường liên quan
và hình thành trong mỗi các nhân, nhóm, tộc người và cộng đồng ý thức về


6

bản sắc và sự kế tục, kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai; góp phần
nhận diện và tạo ra sự gắn bó, khuyến khích ý thức về bản sắc và trách
nhiệm để cho thấy cá nhân hoặc cộng đồng đó thuộc về cộng đồng lớn hơn
và tồn xã hội. DSVH không chỉ là DSVH vật thể như di tích, hiện vật bảo
tàng, nó cịn bao gồm cả các truyền thống và biểu đạt sống do thế hệ trước
truyền lại cho con cháu. DSVH vật thể không tách rời con người, luôn nằm
trong con người và chỉ được nhận biết, nhận diện thơng qua hoạt động trình
diễn, biểu diễn, thể hiện ra ngoài, tạo tác của con người. DSVH PVT tồn tại
vừa đa dạng, linh hoạt và luôn biến đổi.
1.2.2.2. Phân loại di sản văn hóa phi vật thể: Pháp luật về DSVH của
Việt Nam chia thành 7 lĩnh vực gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân
gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội
truyền thống; Nghề thủ cơng truyền thống; Tri thức dân gian.
1.2.2.3. Đặc điểm của các loại hình di sản văn hóa phi vật thể: Gắn bó
chặt chẽ với con người, cộng đồng; khơng nằm ngồi con người, cộng
đồng; không ngừng được sáng tạo, tái sáng tạo; khó xác định danh tính về
nguồn gốc; chủ yếu là được trao truyền phi chính thức, “cầm tay chỉ
việc”, “truyền ngón, truyền nghề”; được gìn giữ chủ yếu trong gia đình,
trong các nhóm và/hoặc trong cộng đồng; được phân định theo các tiêu
chí sau: lãnh thổ, dân tộc, tơn giáo, tuổi, giới tính và nghề nghiệp trong xã
hội,…; nhận thức về di sản chủ yếu là gắn với các nhóm và/hoặc các cộng

đồng đã và đang tạo ra, gìn giữ và trao truyền di sản đó; DSVH PVT được
hình thành, diễn giải hay tạo ra trong một nhóm hay trong cả cộng đồng
với sự tơn trọng các hình thức, biểu hiện và kỹ thuật truyền thống; thường
gắn với những không gian văn hóa và đồ vật, đồ tạo tác cụ thể liên quan;
có sự chồng lấn, đan xen giữa các loại hình. Trên cơ sở đặc điểm, tính
chất, đặc trưng, hiện trạng của mỗi DSVH PVT mà các nghệ nhân thực
hành các DSVH PVT này cũng có những đặc điểm, tính chất và đặc trưng
riêng.
1.2.2.4. Cộng đồng thực hành DSVH PVT: Từ góc độ di sản văn hố,
cộng đồng ở đây được hiểu là tập hợp những người có mối quan hệ gắn bó
mang tính lịch sử, có chung nhận thức về bản sắc văn hoá và cùng tham gia


7

vào việc sáng tạo, lưu giữ, bảo vệ di sản của cộng đồng. Cộng đồng có vai
trị như một điểm tựa của DSVH PVT vì tất cả thành viên trong các cộng
đồng là những người cùng thực hành, sáng tạo, gìn giữ và truyền dạy di sản.
DSVH PVT muốn duy trì được sức sống phải có ý nghĩa với cộng đồng và
liên tục được cộng đồng đó tái tạo, lưu truyền từ đời này qua đời khác. Nói
cách khác, DSVH PVT do cộng đồng sáng tạo ra, tồn tại trong không gian
sinh tồn/ đời sống sinh hoạt hằng ngày của họ và chỉ được hiển hiện/ bộc lộ
ra thông qua sự thực hành của những con người cụ thể. Các cộng đồng là
chủ sở hữu và thực hành chính là những người có đủ điều kiện nhất để xác
định và bảo tồn di sản.
1.2.3. Lý thuyết về động lực của con người
Theo Maslow, về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai
nhóm chính: nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao. 5 tầng trong Tháp nhu
cầu của Maslow gồm: Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc
"thể lý". Tầng thứ hai: Nhu cầu an tồn. Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao

lưu tình cảm và được trực thuộc. Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng,
kính mến, được tin tưởng. Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân
cường độ cao - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân,
trình diễn, thể hiện mình.
1.3. Khái quát về nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở Việt Nam
1.3.1. Khái niệm: Trong khuôn khổ luận án, tác giả đưa ra khái niệm
và sử dụng cho nghiên cứu này là: “Nghệ nhân là người nắm giữ và thực
hành ở trình độ cao những hiểu biết, kỹ năng, kỹ thuật về DSVH PVT”. Với
mơi trường có trình độ cao về năng lực đánh giá, cảm thụ, hiểu biết về
DSVH PVT, người được cộng đồng gọi là nghệ nhân thường có trình độ
cao về kỹ năng, kỹ thuật, hiểu biết về DSVH PVT mà họ đang nắm giữ và
còn cả về đạo đức tốt trong lối sống, thực hành di sản.
1.3.2. Đặc điểm: đa số các nghệ nhân thực hành DSVH PVT được
sinh ra, lớn lên trong môi trường các DSVH PVT được thực hành qua
nhiều thế hệ. Đó có thể là gia đình, dịng tộc, làng hoặc cộng đồng; có sự
khác nhau tương đối giữa nghệ nhân của các loại hình DSVH PVT và yếu
tố địa lý, vùng miền, sinh thái nhân văn; bên cạnh yếu tố tài năng, kỹ


8

năng, kỹ thuật được thực hiện ở trình độ cao do yếu tố bẩm sinh thì nghệ
nhân là người được tiếp xúc với di sản trong thời gian dài, liên tục được
quan sát, học hỏi, thực hành nghề nên khả năng tiếp thu, nắm bắt, liên
tưởng tới các hoạt động, nội dung di sản nhanh nhạy hơn người khác; để
trở thành nghệ nhân, người thực hành cần có thời gian tích lũy, chau dồi
và thực hành; hầu hết nghệ nhân là tuổi cao.
1.3.3. Vai trị: Nghệ nhân có vai trị quan trọng trong việc duy trì thực
hành DSVH PVT. Đó khơng chỉ hiểu đơn thuần là giữ những gì vốn có của
DSVH PVT như giữ các DSVH vật thể mà đó phải là người được trao

truyền, giữ gìn, thực hành, truyền dạy cho thế hệ kế tiếp, tái sáng tạo, sáng
tạo, làm giầu DSVH PVT và văn hóa.
1.3.4. Nghệ nhân và sự sáng tạo: sáng tạo trong việc thực hành
DSVH PVT thiên về nghĩa tái sáng tạo/ tái tạo. Nó được đánh giá dựa
theo các yếu tố: tính độc đáo, thành thục, mềm dẻo, chi tiết, hoàn thiện,
nhạy cảm vấn đề và đặc biệt là hàm lượng DSVH PVT. Các thực hành
sáng tạo của nghệ nhân được đánh giá thông qua các cấp độ của sự sáng
tạo: (1) Sự thể hiện ra bên ngồi những gì mà họ đang nắm giữ ở bên
trong thơng qua hoạt động trình diễn, biểu diễn, tạo tác ra các sản phẩm
văn hóa vật thể và phi vật thể; (2) Từ việc thực hành các tri thức, kỹ năng,
kỹ thuật mà người nghệ nhân được truyền thừa, họ sẽ tạo ra những biểu
đạt, sản phẩm văn hóa mới trên cơ sở tiếp nối các truyền thống và phù
hợp với môi trường, điều kiện, xã hội mà họ đang sinh sống; (3) Phát
minh, sáng tạo ra cái mới trên cơ sở các nguyên tắc, quy luật được đúc kết
từ truyền thống,…; (4) Tạo ra các chuyển hóa, đột phá, thay đổi trong xã
hội nhờ những gì mà người nghệ nhân tạo ra trong quá trình tư duy, thực
hành các DSVH PVT.
Tiểu kết
- Ở Chương này, tác giả đã điểm qua một số nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước về nghệ nhân, đặc điểm, vai trò của nghệ nhân
thực hành DSVH PVT và các nghiên cứu về chính sách đối với họ. Các
nghiên cứu này đều thống nhất việc bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT
không thể tách rời con người với vai trò là nghệ nhân, người nắm giữ


9

DSVH PVT cùng với đó là cần thiết phải có những chính sách phù hợp
nhằm phát huy vai trị của nghệ nhân trong việc kế thừa, thực hành, trao
truyền và sáng tạo/tái sáng tạo văn hóa. Hầu hết các nội dung chính sách

được đề xuất mới dừng lại ở chế độ đãi ngộ, nhu cầu sinh hoạt; chưa thấy
các nghiên cứu có tính bao qt, tổng thể, hệ thống từ góc độ khoa học
chính sách và khoa học DSVH PVT.
- Với việc phân tích các khái niệm, định nghĩa, đặc điểm, phân loại
DSVH PVT, cộng đồng, nghệ nhân chính sách văn hóa,… các mối quan
hệ giữa nghệ nhân, cộng đồng, sáng tạo và chính sách đối với họ, ở
chương tiếp theo tác giả sẽ phân tích, đối chiếu với các chính sách hiện có
được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện có về chính
sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT, ngoài việc chỉ ra các bất
cập của chính sách hiện tại cần điều chỉnh, khắc phục, tác giả cũng chỉ ra
những khuyết thiếu cần bổ sung của các chính sách này.
Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGHỆ NHÂN
THỰC HÀNH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình xây dựng, ban hành chính sách
2.1.1. Các Nghị quyết của Đảng
2.1.1.1. Nghị quyết Trung ương V khóa VIII về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Nghị quyết xác định con người là trọng tâm, cần phát huy vai trò của
con người trong việc gìn giữ di sản vật thể và phi vật thể, sáng tạo những
giá trị văn hóa mới. Để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì một trong những nhiệm vụ quan trọng đó là
sưu tầm, tư liệu hóa DSVH PVT và có chính sách đối với các nghệ nhân.
2.1.1.2. Nghị quyết 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Nghị quyết nhấn mạnh cần huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các
giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa
dân tộc; xây dựng nhân cách con người Việt Nam và xây dựng cốt cách



10

của dân tộc. xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam khơng chỉ
cịn là “cơm no, áo ấm”.

2.1.2. Diễn trình ban hành văn bản về chính sách đối với nghệ nhân
Ban hành Luật DSVH (2001); nội dung về chính sách đối với nghệ
nhân được quy định cụ thể tại Điều 26. Quy chế công nhận danh hiệu
"Nghệ nhân dân gian" của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2002). Luật
TĐKT (2003): có nội dung về danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân (NNND)",
"Nghệ nhân ưu tú (NNƯT)" thuộc lĩnh vực ngành nghề thủ công mỹ nghệ
truyền thống, không dành cho đối tượng của các loại hình khác của DSVH
PVT. Sửa đổi Luật TĐKT (2005); không sửa nội dung điều đã ban hành
năm 2003 về nghệ nhân. Sửa đổi Luật DSVH (2001): Nhà nước tơn vinh và
có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài năng xuất sắc, nắm giữ và có
cơng bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT. Sửa Điều 65 của Luật TĐKT
2005: Danh hiệu “NNND”, “NNƯT” để tặng cho cá nhân có cơng bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể nói chung. Sửa đổi Luật TĐKT
2005 (2013); chính thức sửa theo Luật DSVH. Ban hành Nghị định số
62/2014/NĐ-CP. Ban hành Nghị định số 123/2014/NĐ-CP. Ban hành Nghị
định số 109/2015/NĐ-CP.
Quá trình xây dựng, điều chỉnh, bổ sung các văn bản này được thực
hiện với sự đúc rút ra từ thực tiễn, lắng nghe ý kiến của cộng đồng, xã hội;
lấy ý kiến, trao đổi với những người làm công tác quản lý, nghiên cứu và
cộng đồng liên quan; hồn thiện dự thảo và trình các cấp có thẩm quyền ban
hành. Quá trình xây dựng và ban hành đã tuân thủ các quy định chặt chẽ
của việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.Diễn trình ban hành các quy
định về chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT phức tạp và
mất hơn 10 năm để hiện thực và cụ thể hóa các nội dung được quy định

trong Luật DSVH 2001.
2.1.3. Các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ
Luật DSVH (2001), lần đầu tiên lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị
DSVH PVT và nội dung về chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân thực hành
DSVH PVT được luật hóa. Thơng tư liên tịch số 41/2002/TTLT/ BNNBLĐTBXH- BVHTT, hướng dẫn tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận danh hiệu


11

và một số chính sách đối với nghệ nhân; ban hành trước khi Luật TĐKT
2003. Luật TĐKT 2003: quy định danh hiệu “NNND”, ”NNƯT” để tặng
cho cá nhân có nhiều năm trong nghề, kế tục, giữ gìn, sáng tạo và phát triển
ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật TĐKT 2005: không sửa đổi nội dung liên quan tới nghệ nhân.
Thông tư số 01/2007/TT-BCN hướng dẫn tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và
hồ sơ xét tặng danh hiệu “NNND”, “NNƯT”. Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật DSVH 2009: mở rộng đối tượng xét tặng thuộc lĩnh vực nghề
thủ công truyền thống thành các lĩnh vực của DSVH PVT; và sửa Điều 65
của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT. Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của TĐKT 2013. sửa đổi theo nội dung về nghệ nhân đã
được sửa tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật DSVH 2009. Nghị
định số 62/2014/NĐ-CP, quy định về xét tặng danh hiệu “NNND” và
“NNƯT” trong lĩnh vực DSVH PVT. Nghị định số 123/2014/NĐ-CP, quy
định về xét tặng danh hiệu “NNND” và “NNƯT” trong lĩnh thủ công mỹ
nghệ truyền thống. Nghị định số 109/2015/NĐ-CP, về hỗ trợ đối với
NNND, NNƯT có thu nhập thấp, hồn cảnh khó khăn.
Q trình “đi tìm danh hiệu” cho nghệ nhân thực hành DSVH PVT
xuất phát từ mong muốn của những cộng đồng, nhà nghiên cứu, nhà quản
lý. Luật Di sản văn hóa quy định phong tặng danh hiệu cho nghệ nhân
nhưng không quy định danh hiệu cụ thể. Việc quy định danh hiệu được

Luật Thi đua, Khen thưởng quy định. Xét tất cả các danh hiệu được quy
định trong Luật này thì chỉ có danh hiệu “NNND”, “NNUT” là phù hợp
hơn cả. Luật Thi đua, Khen thưởng lại quy định các đối tượng thuộc danh
hiệu này là những người hoạt động trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ.
Để các nghệ nhân hoạt động trong các lĩnh vực của DSVH PVT là đối
tượng được xét danh hiệu này thì cần phải sửa quy định trong Luật Thi đua,
Khen thưởng. Sau 03 lần sửa Luật Thi đua, Khen thưởng, 01 lần sửa Luật
Di sản văn hóa, nghệ nhân đã có danh hiệu cho riêng mình. Cùng với đó là
02 nghị định quy định về danh hiệu và 01 nghị định quy định về chế độ đãi
ngộ đối với nghệ nhân được ban hành. Ba Nghị định trên ra đời là kết quả
trực tiếp của việc “tháo nút thắt” ở Điều 65 của Luật Thi đua, Khen thưởng.


12

Cụ thể, đối tượng được phong tặng danh hiệu “NNND”, “NNUT” được mở
rộng ra gồm các loại hình của DSVH PVT, khơng hạn hẹp ở loại hình nghề
thủ cơng mỹ nghệ truyền thống.
2.1.4. Các văn bản của địa phương, hội nghề nghiệp
Quy chế công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam. Quy chế phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Hà
Nội” và một số chế độ đối với Nghệ nhân áp dụng cho các đối tượng là
nghệ nhân thực hành nghề thủ công mỹ nghệ. Quy chế quy định đối tượng,
tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét phong tặng danh hiệu Nghệ nhân trong lĩnh
vực DSVH PVT tỉnh Bắc Ninh. Nghị quyết số 175/2019/NQ-HĐND về
việc quy định hỗ trợ kinh phí hoạt động đối với làng Quan họ gốc, làng
Quan họ thực hành trong tỉnh; mức quà tặng cho các làng Quan họ gốc
ngoài tỉnh, các Câu lạc bộ Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong và ngoài tỉnh.
Quyết định số 2743/QĐ-UBND về việc ban hành quy chế xét tặng danh
hiệu Nghệ nhân hát Xoan Phú Thọ.

2.1.5. Đề xuất chính sách của một số tỉnh, thành phố
Tổng hợp từ kết quả khảo sát, nhiều đề xuất về chính sách của các tỉnh được
đưa ra, cụ thể như: danh hiệu cho nghệ nhân; tôn vinh nghệ nhân ở cộng đồng;
tơn vinh người có cơng bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT; tạo điều kiện cho
nghệ nhân được thực hành, truyền dạy, giao luu, trình diễn, phát huy sức sáng tạo
DSVH PVT; chính sách đãi ngộ, trợ cấp sinh hoạt hàng tháng, quan tâm tới đời
sống vật chất, tinh thần cho nghệ nhân; cấp thẻ Bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh;
chế độ thăm hỏi ốm đau, tử tuất cho nghệ nhân. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng
cho việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới chính sách đối
với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể.
2.2. Thực hiện các chính sách đối với nghệ nhân thực hành
DSVH PVT thông qua một số chương trình, dự án
2.2.1. Chương trình tơn vinh Nghệ nhân dân gian của Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam: Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã phong
tặng được khoảng 600 cá nhân. Chương trình đã có tác động sâu sắc tới
nhận thức và hành động của cộng đồng, các cấp quản lý văn hóa và chính
quyền địa phương các cấp. Đây chính là kết quả đạt được từ sáng kiến của


13

một tổ chức xã hội với sự đồng thuận và ủng hộ của cộng đồng các nghệ
nhân ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước trong việc thực hiện chính sách
đối với các nghệ nhân thực hành DSVH PVT. Một chính sách đúng đắn,
hợp lịng dân bao giờ cũng có sức lan tỏa xã hội rộng khắp.
2.2.2. Xây dựng danh sách Nghệ nhân Quan họ: Nghiên cứu xây
dựng danh sách Nghệ nhân Quan họ tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở
khuyến nghị của UNESCO về việc Thiết lập Hệ thống Báu vật nhân văn
sống tiến tới việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về việc phong
tặng danh hiệu cho nghệ nhân trên phạm vi cả nước. Đây là hình thức thể

nghiệm sự hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước về DSVH PVT ở trung
ương và địa phương, tạo cơ sở thực tiễn để có những kiến nghị sát thực
với Chính phủ trong việc xây dựng và ban hành chính sách đối với nghệ
nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể.
2.2.3. Đề án bảo vệ và phát huy giá trị di sản Hát Xoan Phú Thọ:
Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH PVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai
đoạn 2013 - 2020). Đây là bằng chứng thuyết phục về tính chủ động của
UBND tỉnh Phú Thọ trong việc thực thi Đề án. Đề án được triển khai có kết
quả cũng là phương thức làm cho chính sách có tác dụng trong thực tiễn.
2.2.4. Dự án Mê Cơng: Dịng sơng kết nối các nền văn hóa: Câu
chuyện về Bánh Xèo Mười Xiềm tham dự lễ hội Smithsonian cho thấy bài
học kinh nghiệm thực tiễn về việc biến văn hóa thành tài sản, thành động
lực để phát triển.
2.2.5. Dự án Thiết lập Hệ thống Báu vật nhân văn sống ở Việt Nam:
kế thừa từ dự án thí điểm nghiên cứu nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh năm
2002. Việc triển khai dự án đã tạo ra hiệu hứng xã hội và động lực trong
việc tôn vinh nghệ nhân và huy động nguồn lực cộng đồng cho công cuộc
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Dự án là bằng chứng thuyết
phục về sự chủ động của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên
tham gia Công ước 2003 trong việc thực hiện các khuyến nghị của
UNESCO về việc xây dựng và thực thi các chính sách đối với nghệ nhân
thực hành di sản văn hóa phi vật thể.


14

2.2.6. Chương trình Mục tiêu quốc gia về văn hóa: mặc dù không
tác động trực tiếp tới nghệ nhân nhưng đã tạo ra những khơng gian văn
hóa quan trọng cho việc thực hành DSVH PVT. Chương trình đã giúp cho

việc nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, nhà quản lý văn hóa,
các cộng đồng và nghệ nhân trong việc gìn giữ DSVH PVT.
2.3. Một số hạn chế của chính sách đối với nghệ nhân thực hành
DSVH PVT
2.3.1. Nhận thức
2.3.1.1. Nhận thức của chủ thể quản lý
Nhận thức không đồng đều và chưa đầy đủ của các cơ quan nhà nước
trong việc xây dựng Luật DSVH và Luật TĐKT dẫn tới việc chậm trễ ban
hành các văn bản dưới luật về việc tôn vinh các nghệ nhân. Việc tồn tại hai
hệ thống phong tặng danh hiệu vinh dự của Nhà nước gây ra nhiều bất cập.
Việc quy định chế độ đãi ngộ cho nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu
có hồn cảnh khó khăn mà khơng quan tâm tới các nghệ nhân khác và tiêu
chí lựa chọn nghệ nhân để có chế độ đãi ngộ được áp dụng như với tiêu chí
của hộ nghèo là chưa hợp lý, thiếu sự thúc đẩy đối với nghệ nhân. Việc thực
hiện chính sách đối với nghệ nhân tập trung chủ yếu vào việc vinh danh
thông qua các danh hiệu và an sinh là chưa đầy đủ, chưa đúng với khoa học
về DSVH PVT. Địa phương nào, di sản nào được vinh danh ở cấp quốc tế,
có các đề án lớn, kinh phí đầu tư nhiều thì nghệ nhân ở đó được quan tâm
hơn cho thấy sự bất bình đẳng giữa các nghệ nhân, các di sản ở trong cùng
địa phương và cả nơi khác.
2.3.1.2. Nhận thức của cộng đồng
Nhận thức của cộng đồng chủ thể và xã hội được nâng lên thông qua
các hoạt động liên quan tới bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT được
thực hiện ở các cấp và đặc biệt là việc triển khai xây dựng hồ sơ quốc gia
DSVH PVT trình UNESCO ghi danh vào các danh sách, tôn vinh di sản ở
cấp quốc gia và quốc tế được tổ chức,… Tuy nhiên, những hình thức tôn
vinh của cộng đồng chủ thể đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT của
chính cộng đồng đó cịn hạn chế, chưa chủ động, đa dạng và thiếu cụ thể.
2.3.2. Sự thiếu đồng bộ, thống nhất và toàn diện của các văn bản



15

2.3.2.1. Thiếu đồng bộ trong việc ban hành văn bản
Các văn bản hiện có mới chỉ tập trung vào danh hiệu và an sinh;
chưa thể hiện sự bao quát chung và thiếu liên kết. Ở khía cạnh phong tặng
danh hiệu cho những cá nhân thực hành DSVH PVT, thì việc để hai Nghị
định với hai hệ thống xét tặng danh hiệu như hiện tại là bất cập. Nghị định
109/2015/NĐ-CP cũng cần được điều chỉnh với tinh thần là tôn vinh, hỗ
trợ thực hành DSVH PVT. Phương pháp tính, tiêu chí để xác định các
mức hỗ trợ cho nghệ nhân được thực hiện như hiện nay là không phù hợp.
Việc một số địa phương như Bắc Ninh, Phú Thọ,… có các chính sách hỗ
trợ riêng, bên cạnh các chính sách chung của cả nước đối với những cá
nhân đã được Nhà nước phong tặng, về lâu dài có thể dẫn tới sự bất bình
đẳng giữa các nghệ nhân, di sản. Qua nghiên cứu diễn trình ban hành văn
bản liên quan tới chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT
cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ, phức tạp và chậm trễ trong việc xây dựng
các chính sách. Điều này dẫn tới những tác động khơng tích cực đối với
xã hội và đặc biệt là đối với nghệ nhân.
2.3.2.2. Thiếu thống nhất về nội dung văn bản
Qua phân tích q trình ban hành các chính sách liên quan tới nghệ
nhân trong lĩnh vực DSVH PVT từ năm 2002 tới nay cho thấy cịn có sự
chưa thống nhất trong việc ban hành các văn bản này giữa Luật Di sản
văn hoa và Luật TĐKT, đồng thời với nó là các văn bản hướng dẫn thi
hành cũng khơng thống nhất. Chỉ tính riêng việc phong tặng danh hiệu
“NNND”, “NNƯT” cho các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực DSVH PVT
đã cho thấy sự khơng thống nhất giữa các văn bản.
2.3.2.3. Chưa tồn diện về cách tiếp cận
Xét về việc tôn vinh thông qua việc “phong tặng danh hiệu” thì Luật
TĐKT là luật chính, có vai trị chủ đạo. Xét về “chính sách đối với nghệ

nhân” thì Luật DSVH phải là luật chính và có vai trị chủ đạo. Các quy định
trong các luật có nhiều hạn chế, chưa tồn diện. Các quy định trong các văn
bản dưới luật còn chưa thể hiện hết, chưa đầy đủ những quy định tích cực
hiếm hoi của luật.
2.3.3. Sự tham gia hạn chế của các tổ chức xã hội


16

Các tổ chức hội không chỉ là nơi tập hợp những cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực liên quan mà đó là nơi tập hợp lực lượng chuyên gia nghiên
cứu chất lượng cao về các lĩnh vực. Đóng góp của họ vào hoạt động bảo
vệ và phát huy giá trị DSVH PVT là rất lớn. Họ có tiếng nói chuyên gia
vào việc tham vấn ý kiến xây dựng chính sách, thành viên của các hội
đồng xét phong tặng danh hiệu nghệ nhân, triển khai và tư vấn triển khai
các hoạt động hỗ trợ nghệ nhân thực hành, truyền dạy DSVH PVT; là cầu
nối giữa nghệ nhân, cộng đồng với nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức
xã hội khác Tuy nhiên, mức độ tham gia của họ chưa được các cơ quan
quản lý, chủ thể chính sách phát huy đúng mức.
Tiểu kết
- Đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chương trình liên quan tới
nghệ nhân thực hành DSVH PVT được ban hành và thực hiện từ năm 2001
tới nay. Các chương trình, văn bản quy phạm pháp luật này tập chung chủ
yếu vào 02 nội dung là: (1) Nhận diện nghệ nhân nhằm tôn vinh bằng danh
hiệu; (2) Đưa ra chính sách đãi ngộ (chủ yếu là an sinh xã hội). Chính sách
đối với NNND, NNƯT cũng được đưa ra ở góc độ là chính sách an sinh xã
hội như hiện tại là chưa phù hợp và thiếu hiệu quả. Quy trình xét tặng danh
hiệu vinh dự Nhà nước còn nhiều bất cập. Trong khi các quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương về chính sách đối với
nghệ nhân thực hành DSVH PVT cịn nhiều bất cập thì ở cấp tỉnh/thành

phố, hội nghề nghiệp đã có những chính sách rất đáng ghi nhận (Bắc
Ninh, Phú Thọ, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
- Từ góc độ cơ sở lý luận về nghệ nhân, chính sách đối với nghệ nhân thực
hành DSVH PVT cho thấy sự thiếu hụt, bất cập trong việc xây dựng chính sách
đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT. Từ tổng hợp kế thừa kết quả các
nghiên cứu đã có về nghệ nhân, chính sách đối với nghệ nhân, khoa học về
DSVH, khoa học về chính sách, về tâm lý học,… được nêu ở Chương 1 và
Chương 2, tác giả tiến tới những đề xuất nhằm góp phần hồn thiện chính sách
đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở Chương 3.
Chương 3


17

GĨP PHẦN HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH DSVH PVT Ở VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm của UNESCO, Nhật Bản và Hàn Quốc
3.1.1. Kinh nghiệm của UNESCO
3.1.1.1. Chương trình Hệ thống báu vật nhân văn sống
Hệ thống báu vật nhân văn sống được đưa ra là tín hiệu tích cực cho
việc khẳng định vai trị của nghệ nhân trong hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị DSVH PVT. Tuy nhiên, đó khơng phải là một danh hiệu có tính đại
diện tồn cầu của UNESCO mà đó là một hệ thống bao gồm nhiều danh
hiệu của mỗi quốc gia và đặc biệt là việc thúc đẩy các quốc gia đưa ra các
chính sách cần thiết nhằm tạo điều kiện, phát huy tốt nhất vai trò của những
người đang nắm giữ DSVH PVT.
3.1.1.2. Công ước về bảo vệ DSVH PVT
Công ước ra đời là công cụ pháp lý quan trọng và là cơ sở quy định
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT của các quốc gia thành
viên và tồn nhân loại. Cơng ước tập trung nhấn mạnh vào việc thực hành

DSVH PVT thông qua các nhóm người, cộng đồng tức là nhấn mạnh, đề
cao vai trị “tập thể” trong việc duy trì thực hành sống của di sản.
3.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản đã có chính sách khá sớm (1950) và hiệu quả trong việc bảo
vệ và phát huy giá trị DSVH nói chung và khích lệ nghệ nhân nói riêng.
Các hoạt động được tập trung thực hiện: Tôn vinh di sản; hỗ trợ kinh phí
bảo tồn di sản, thực hành cho cá nhân; tơn vinh nhóm, tập thể, cộng đồng
nắm giữ di sản; mở lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ; tổ chức giới thiệu, quảng
bá di sản. Các hoạt động bảo vệ gồm: ưu đãi đặc biệt cho người nắm giữ; hỗ
trợ đào tạo cho người kế cận; hỗ trợ các hoạt động giới thiệu di sản ra công
chúng; tổ chức các lớp đào tạo nghệ thuật truyền thống tại Nhà hát quốc
gia; tư liệu hóa các tài sản văn hóa PVT được lựa chọn.
3.1.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc đã đưa nội dung về DSVH PVT và nghệ nhân vào Luật từ
năm 1962. Các quy định này đã góp phần rất lớn cho hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị DSVH PVT ở quốc gia này. Các chính sách cho nghệ


18

nhân được đánh giá là tiên phong và tiến bộ. Tinh thần của chính sách này
đã góp phần xây dựng Hệ thống báu vật nhân văn sống của UNESCO.
Cả hệ thống, mơ hình chính sách của Nhật Bản và Hàn Quốc được
thực hiện khá sớm và có tính tồn diện, nâng tầm ở mức độ quốc gia.
Thơng qua chính sách đối với nghệ nhân, DSVH PVT gắn bó chặt chẽ với
đời sống cộng đồng đương đại. Quá trình triển khai chính sách đối với
nghệ nhân góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, cơng chúng trong
việc giữ gìn, phát huy các giá trị DSVH PVT.
Bên cạnh các thành quả đạt được thì chính sách đối với nghệ nhân ở
các quốc gia này cũng gặp phải một số vấn đề như: quá đề cao vai trò cá

nhân dẫn đến việc khó tiếp cận nghệ nhân, việc kiên quyết, khăng khăng
bảo vệ các biểu hiện cụ thể của DSVH PVT do các nghệ nhân nắm giữ đã
tách DSVH PVT dần xa rời cuộc sống hiện tại hoặc bối cảnh ban đầu của
nó; việc hỗ trợ kinh phí nhiều dẫn đến tâm lý “tự thỏa mãn”, giảm sự cố
gắng, sáng tạo, thực hành di sản, giảm sự lan tỏa trong cộng đồng khi di
sản được định vị “nhầm tưởng” là tài sản cá nhân. Sự ưu đãi lớn đối với
người nắm giữ có tính hai mặt là vừa khích lệ và cũng có thể tạo ra sự trì
trệ, giảm động lực.
3.2. Quan điểm, mục tiêu, khung và nhóm chính sách đối với
nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở Việt Nam
3.2.1. Quan điểm, mục tiêu
3.2.1.1. Quan điểm: tiếp cận tồn diện về chính sách đối với nghệ
nhân thực hành DSVH PVT. Nâng cao và thay đổi nhận thức của xã hội về
nghệ nhân thực hành DSVH PVT. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT. Xây
dựng môi trường thuận lợi cho việc phát huy nguồn lực nghệ nhân, vai trò
của nghệ nhân thực hành DSVH PVT; bảo vệ và phát huy giá trị DSVH
PVT; đảm bảo sự đa dạng văn hóa; phát huy vai trò của cộng đồng; nâng
cao nhận thức của xã hội; hồn thiện hệ thống luật pháp chính sách về nghệ
nhân nói riêng và DSVH PVT nói chung; tạo cơ chế, chính sách nhằm hỗ
trợ, thúc đẩy sự tham gia của các thành phần xã hội, nhất là sự tham gia của
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.


19

3.2.1.2. Mục tiêu: duy trì thực hành thường xuyên, liên tục DSVH
PVT ở cộng đồng; tăng số lượng nghệ nhân thực hành DSVH PVT, số
người được học, tiếp cận tới DSVH PVT; truyền dạy được nhiều kỹ năng,
kỹ thuật, am hiểu của nghệ nhân cho các thế hệ; tăng chất lượng, hàm lượng

văn hóa truyền thống trong các thực hành văn hóa của cộng đồng; xây dựng
quy trình, hình thức tơn vinh phù hợp; đa dạng hóa hình thức tơn vinh;
truyền dạy cho thế hệ trẻ; tăng khả năng tiếp cận di sản cho các thành viên
trong cộng đồng và công chúng; nâng cao nhận thức của công chúng, xã hội
về nghệ nhân, DSVH PVT; thúc đẩy sự tái sáng tạo DSVH và sáng tạo giá
trị văn hóa mới gắn với DSVH PVT; tạo sản phẩm văn hóa; nâng cao đời
sống của cộng đồng chủ thể của di sản, góp phần vào nâng cao đời sống
kinh tế, xã hội; tăng mức độ đóng góp của DSVH PVT vào đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội; tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội; phù hợp
với xu hướng và các văn kiện quốc tế mà Việt Nam tham gia; giới thiệu
DSVH PVT, thực hành của nghệ nhân cho cơng chúng trong và ngồi nước;
phát triển các hoạt động sáng tạo văn hóa nhằm tạo chất lượng cho các sản
phẩm văn hóa; ứng dụng khoa học cơng nghệ vào các hoạt động nghiên
cứu, sưu tầm, lưu trữ, trình diễn, giới thiệu DSVH PVT do nghệ nhân đang
nắm giữ.
3.2.2. Khung chính sách
3.2.2.1. Cơ sở xây dựng khung chính sách: Trên cơ sở tháp nhu cầu
của Maslow, tác giả đã đưa ra tháp nhu cầu đối với nghệ nhân thực hành
DSVH PVT như sau: Nhu cầu được liên tục thực hành, khẳng định, làm chủ
năng lực thực hành; trao truyền di sản cho thế hệ kế tiếp; sáng tạo/tái sáng
tạo các giá trị văn hóa mới. Nhu cầu được cá nhân, nhóm, cộng đồng biết
đến, tơn trọng, kính trọng các kỹ năng, kỹ thuật, hiểu biết của bản thân về
DSVH PVT; được Nhà nước công nhận, tôn vinh. Nhu cầu giao lưu tình
cảm, văn hóa, di sản đang nắm giữ với các cá nhân, nhóm cùng thực hành
trong và ngồi cộng đồng. Nhu cầu an tồn trong gia đình, cộng đồng, khám
chữa bệnh, lao động, sinh hoạt tại cộng đồng,...(thẻ bảo hiểm y tế, hỗ trợ chi
phí sinh hoạt,...). Nhu cầu cơ bản của con người như: sinh lý, ăn, ở của nghệ
nhân như là một người bình thường.



20

Từ tháp nhu cầu này, tác giả đã đưa ra nhóm các chính sách tác động
với các “tầng” như sau: (5) Chính sách nhằm giúp cho di sản liên tục được
thực hành, nghệ nhân trao truyền di sản cho thế hệ kế tiếp, sáng tạo/ tái sáng
tạo các giá trị văn hóa mới. (4) Tơn vinh nghệ nhân tại cộng đồng, nhóm,
câu lạc bộ; phong tặng danh hiệu của Nhà nước, các tổ chức (NNND,
NNƯT, Nghệ nhân dân gian,...); xuất hiện trên các phương tiện thông tin
đại chúng. (3) Giúp cho nghệ nhân có điều kiện tham gia vào các nhóm, các
tổ chức hội nghề nghiệp của nhà nước, các tổ chức xã hội,.... (2) Cấp thẻ
bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh, thăm hỏi khi ốm đau, tử tuất, hỗ trợ một
phần chi phí sinh hoạt,..; các chính sách thuộc lĩnh vực an sinh xã hội. (1)
Chính sách đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, nghệ nhân thực hành
DSVH PVT.
3.2.2.2. Khung chính sách: Hỗ trợ nghệ nhân thực hành DSVH PVT
thực hiện tốt các hoạt động: kế thừa, thực hành, truyền dạy và tái sáng tạo
DSVH PVT, sáng tạo các giá trị văn hóa mới; tơn vinh; thúc đẩy hoạt động
thực hành DSVH PVT thường xuyên, liên tục và gắn bó mật thiết tới các
mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng; xây dựng một hệ
thống chính sách thể hiện tính tồn diện, hiệu quả, liên ngành; duy trì sự hỗ
trợ kinh phí cho những hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của di sản; coi
kỹ năng, kỹ thuật, hiểu biết của nghệ nhân là một nguồn lực quan trọng;
khuyến khích, thúc đẩy và hỗ trợ các hoạt động quảng bá, giới thiệu, chia sẻ
thông tin về nghệ nhân và DSVH PVT mà họ đang nắm giữ; áp dụng khoa
học, công nghệ thông tin vào việc nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa, quảng
bá về DSVH PVT và nghệ nhân; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức,
doanh nghiệp vào hoạt động hỗ trợ, khai thác các nguồn lực là các DSVH
PVT do nghệ nhân đang nắm giữ. Mô hình hợp tác giữa các bên trong hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT là: Nhà nước - Cộng đồng Nghệ nhân - Xã hội.
3.2.3. Các nhóm chính sách

3.2.3.1. Chính sách liên quan tới đảm bảo an sinh và tơn vinh nghệ
nhân thực hành DSVH PVT: Chính sách nhằm đảm bảo an sinh như: trợ
cấp sinh hoạt, cấp thẻ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, hỗ trợ chăm sóc y tế,


21

xóa đói giảm nghèo,… và cần được thực hiện theo hướng giúp nghệ nhân
tự tăng thu nhập bằng chính việc thực hành DSVH PVT mà mình đang nắm
giữ để tránh những tác dụng âm tính của chính sách như trường hợp kinh
nghiệm của Hàn Quốc. Việc tôn vinh cần đi đôi với quyền lợi về vật chất
cho người được tôn vinh, cho nhóm, cộng đồng chủ thể. Chính sách tơn
vinh cũng cần được thực hiện đối với nhóm, cộng đồng.
3.2.3.2. Chính sách về truyền dạy DSVH PVT: Chính sách cần tác động
trực tiếp tới hai đối tượng chính: nghệ nhân và người học; có những hỗ trợ cụ
thể, thiết thực từ nhà nước, các tổ chức, cá nhân, cộng đồng.
3.2.3.3. Chính sách nhằm phát huy các nguồn lực của nghệ nhân:
Cần có những chính sách biến các nguồn lực do nghệ nhân đang nắm giữ
thành tài sản vật chất và tinh thần cho xã hội.
3.2.3.4. Chính sách về thực hành, sáng tạo văn hóa: Chính sách nhằm
giúp nghệ nhân thực hành có điều kiện, mơi trường để họ thực hành DSVH
PVT, giúp họ sử dụng, phát huy hiệu quả các tri thức mình đang nắm giữ,
nhằm duy trì, sáng tạo văn hóa, góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội chung.
3.3. Các văn bản quy phạm pháp luật cần điều chỉnh và ban hành mới
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa: Các nội dung cần sửa
đổi, bổ sung trong Luật DSVH gồm: chính sách tơn vinh (sửa đổi, bổ sung),
chính sách truyền dạy (bổ sung mới), chính sách hỗ trợ sự tham gia của các
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân (bổ sung mới); chính sách hỗ trợ thực hành
và sáng tạo văn hóa (bổ sung mới). Về tổng thể cần bổ sung 02 chương

mới: Chương về nghệ nhân thực hành DSVH PVT và chương về sự tham
gia của cá nhân, tổ chức vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH
PVT.
3.3.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng: Sửa đổi khoản
1 Điều 65 của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT 2013; bổ
sung đối tượng, hình thức tơn vinh, khen thưởng bên cạnh đối tượng đã có
quy định.
3.2.3. Ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật dưới luật: Ban
hành văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể các nội dung được chỉnh sửa, bổ


22

sung của Luật DSVH và Luật TĐKT gồm: Các nội dung đề nghị sửa đổi, bổ
sung trong Luật DSVH và Luật TĐKT nêu ở mục trên. Trước mắt là các nội
dung hiện có quy định tại Điều 26 của Luật DSVH và Điều 65 của Luật
TĐKT gồm: quy định nêu tại Khoản a, Mục 1, Điều 26 của Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật DSVH. Các nội dung quy định tại Khoản b, Mục
1, Điều 26 của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật DSVH. Ban
hành văn bản mới thay thế, hợp nhất Nghị định số 62/2014/NĐ-CP và Nghị
định số 123/2015/ NĐ-CP. Ban hành Nghị định thay thế Nghị định số
109/2015/NĐ-CP.
Tiểu kết
- Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu Hệ thống Báu vật nhân văn sống,
Công ước về bảo vệ DSVH PVT của UNESCO, hệ thống chính sách của
Nhật Bản, Hàn Quốc đối với nghệ nhân và DSVH PVT là những bài học
hữu ích. Các chính sách này khơng chỉ có những tác động dương tính mà
cịn có cả những tác động âm tính (khơng mong đợi).
- Trên cơ sở phân tích bối cảnh, đặc điểm, thực trạng chính sách của
Việt Nam và kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó, tác giả luận án đã đề xuất

các nội dung cụ thể trong việc điều chỉnh, bổ sung các nội dung về chính
sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT trong các Luật, văn bản quy
phạm pháp luật liên quan.
KẾT LUẬN
1. Nghệ nhân thực hành DSVH PVT được hình thành từ cộng đồng, từ
những người thực hành DSVH PVT. Qua quá trình thực hành, dựa trên năng
lực tiếp nhận, thực hành, sáng tạo,… họ trở thành những người thực hành ở
trình độ cao, am hiểu sâu sắc về DSVH PVT; có vai trị quan trọng trong việc
duy trì DSVH PVT với các hoạt động như: Kế thừa - Thực hành - Truyền dạy
- Tái sáng tạo DSVH PVT và sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Tác giả đã đưa
ra và sử dụng khái niệm về nghệ nhân: “Nghệ nhân là người nắm giữ và thực
hành ở trình độ cao những hiểu biết, kỹ năng, kỹ thuật về DSVH PVT”.
2. Hoạt động sáng tạo của nghệ nhân thực hành DSVH PVT được
nhìn nhận như một q trình tái tạo truyền thống hay cịn gọi là sáng tạo
văn hóa mang mầu sắc truyền thống. Hoạt động này được chia thành các


23

cấp độ: đó là sự thể hiện ra bên ngồi những gì mà họ đang nắm giữ ở bên
trong thơng qua hoạt động trình diễn, biểu diễn, tạo tác ra các sản phẩm văn
hóa vật thể và phi vật thể; từ việc thực hành các tri thức, kỹ năng, kỹ thuật
mà người nghệ nhân được truyền thừa, họ sẽ tạo ra những biểu đạt văn hóa
mới trên cơ sở tiếp nối các truyền thống và phù hợp với môi trường, điều
kiện, xã hội mà họ đang sinh sống; tạo ra các chuyển hóa, đột phá, thay đổi
trong xã hội nhờ những gì mà người nghệ nhân tạo ra trong quá trình tư
duy, thực hành các DSVH PVT.
3. Các chính sách của Hàn Quốc và Nhật Bản nhấn mạnh vai trò của
các bên trong việc duy trì thực hành DSVH PVT: quyền lợi, trách nhiệm luôn
đặt ra một cách song hành. Nhà nước với vai trò là định hướng, đưa ra các

chính sách, hỗ trợ, ấp kinh phí, giữ vai trị chủ đạo trong việc lựa chọn hoặc
chỉ định DSVH PVT. Chính sách của các quốc gia này đều hướng tới mục
tiêu quan trọng nhất là duy trì sự thực hành DSVH PVT. Mặc dù có nhiều ưu
điểm, chính sách của các quốc gia này cũng xuất hiện những bài học kinh
nghiệm không mong muốn cần được lưu ý khi áp dụng cho các quốc gia
khác.
4. Việc ban hành chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH
PVT ở Việt Nam hiện chưa đạt được như mong muốn là do chưa xác định
được khung chính sách đối với đối tượng này bên cạnh những hạn chế trong
kỹ thuật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc chỉ tập trung cho các
hoạt động tôn vinh và an sinh không chỉ cho thấy chính sách thiếu đầy đủ
mà cịn khơng phát huy được vai trò của nghệ nhân trong bảo vệ và phát
huy giá trị DSVH PVT, đóng góp của nghệ nhân và DSVH PVT với phát
triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Khung chính sách đối với nghệ nhân thực
hành DSVH PVT ở Việt Nam được tác giả đưa ra gồm: 1) Hỗ trợ nghệ
nhân thực hiện tốt nhất các hoạt động: Kế thừa, Thực hành, Truyền dạy và
Tái sáng tạo DSVH PVT, sáng tạo các giá trị văn hóa mới. 2) Thúc đẩy hoạt
động thực hành DSVH PVT thường xuyên, liên tục và gắn bó mật thiết tới
các mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng. 3) Xây dựng
một hệ thống chính sách tồn diện, hiệu quả, liên ngành. Chính sách khuyến
khích sự tham gia của người dân, của các bộ phận xã hội vào các hoạt động


×